|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- CÁC BÀI VIẾT VỀ VU LAN
-

-
Ý Niệm Về Mẹ
-
Nhân Ngày Vu Lan Báo Hiếu
-
---o0o---
-
Làm người ai cũng có đấng sinh thành là CHA MẸ. Đặc biệt nhân
mùa Vu Lan báo hiếu này tôi xin được nói về Mẹ như một bó hoa
tưởng niệm Mẹ tôi vừa mới qua đời tại Việt Nam ngày 1.3.1996.
-
Khi đề cập đến Mẹ trong ngôn từ tiếng Việt ta thử so sánh với
nhiều ngôn ngữ khác nhau gọi Mẹ như thế nào và thử tìm xem có từ
nào mà toàn thể các dân tộc trên thế giới này có tiếng gọi chung
về Mẹ hay không?
-
Mẹ trong văn hóa và tập tục của Đông Phương và Tây Phương như
thế nào? Mẹ trong kinh điển Phật Giáo, và phương pháp báo hiếu
ra sao?
-
I. Danh từ MẸ
-
Trong tiếng Việt gọi MẸ là người đàn bà đã sinh ra ta. Trong đó
bao gồm ý nghĩa mười tháng cưu mang chịu không biết bao nhiêu
điều cực nhọc cho đến ngày khai hoa nở nhụy và nuôi nấng dạy dỗ
con đến khi khôn lớn nên người. Những thâm ân đó chỉ khi nào
chúng ta nuôi con mới biết được công ơn của Cha Mẹ. Như đức
Khổng Tử đã nói: “dưỡng tử phương chi phụ mẫu ân” (khi nuôi con
mới biết được công ơn của cha mẹ).
-
Danh từ MẸ ấy tiếng Tây Ban Nha gọi là Madre, tiếng Ý cũng gọi
là Madre. Tiếng La tinh là Mater. Tiếng Anh là Mother. Tiếng Đức
là Mutter. Tiếng Pháp là La Me`re. Tiếng Hy Lạp là Mitera. Tiếng
Nga là Mat. Tiếng Iran là Modar. Tiếng Trung Hoa là Mouchan.
Tiếng A? Độ là Mata. Tiếng Nhật là Okaasan. Tiếng Ả Rập là
Waldetak.
-
Kể cả tiếng Việt tất cả mười bốn ngôn ngữ vừa nêu trên hầu như
là đại đa số các dân tộc trên thế giới ngày nay đang dùng những
ngôn từ đó. Trừ tiếng Nhật và tiếng Ả rập có âm vận riêng còn
mười hai ngôn ngữ còn lại âm vận na ná giống nhau và điều bắt
đầu bằng mẫu tự “M”.
-
Có điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tất cả các nước trên thế
giới đều có ngôn ngữ riêng, thế nhưng khi nói danh từ MAMA tất
cả điều biết đó là MẸ. Làm sao tôi có thể cả quyết điều đó. Bởi
vì chính tôi đã tiếp xúc trực tiếp với mấy chục người nói những
ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau nhưng khi hỏi danh từ MẸ trong ngôn
ngữ họ tất cả đều gọi là MAMA. Tôi chưa thỏa mãn. Vì tôi biết từ
đó không phải là ngôn ngữ chính gốc của họ nên lần lược họ mới
cho tôi biết từ chính gốc trong ngôn ngữ riêng biệt của mỗi dân
tộc. Thế nhưng tại sao lại có một từ phổ thông như thế. Theo tôi
nghĩ là tiếng nói bập bẹ đầu tiên của một đứa bé vừa tập nói mà
ra rồi thành ra tiếng nói phổ thông bất thành văn trong dân gian
của mỗi dân tộc mà thành. Trừ danh từ MAMA là MẸ vừa nói ngoài
ra không có một từ náo có tính phổ thông như thế cả. Như vậy đủ
chứng tỏ MẸ là thiêng liêng cao cả không có người nào hoặc vật
gì khác có thể sánh bằng MẸ. Khi nghĩ về công sanh thành dưỡng
dục đứa con mà nói, ngay cả CHA cũng không bằng MẸ. Vì chỉ có
thân thể người MẸ mới có thể thai nghén và sinh con ra được mà
thôi.
-
II. MẸ trong xã hội Đông Phương (trường hợp điển
hình của Việt
Nam, Trung Quốc và Nhật Bản)
-
A- Tại Việt Nam
-
Mẹ là người mười tháng cưu mang, ba năm bồng bế, sau đó là giáo
dục cho con nên người hữu ích trong xã hội như trong Chinh Phụ
Ngâm đã nói:
-
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
-
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
-
Hai câu thơ trên còn nói lên bổn phận, công lao của người mẹ đối
với con với chồng trong gia đình Việt
Nam.
-
Cha mẹ là chỗ dựa tinh thần và là cây cổ thụ để con nương nhờ về
vật chất:
-
Gió đưa cây cửu lý hương
-
Con xa cha mẹ thất thường bữa ăn
-
(không rõ tác giả)
-
Hoặc là:
-
Có cha có mẹ thì hơn
-
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
-
(Ca dao)
-
Hay là những câu thơ sau đây đã nói lên được một phần công ơn
của người mẹ. Trong thời kỳ đầu của sự thai nghén người mẹ phải
chịu:
-
… Sự buồn nôn của thời kỳ đầu thai nghén
-
Mặt mày xanh choáng váng lúc chiều về
-
Mắt tối sầm dù nắng đẹp trưa hè
-
Những thú vui không màng mơ tưởng đến
-
(thơ Như Tạng)
-
Khi bào thai trong thời kỳ phát triển trong cơ thể người mẹ:
-
… Mỗi ngày con mỗi lớn
-
Da căng theo ngày tháng bước nặng dần
-
Cử kiêng từng hành động lẫn thức ăn
-
Đêm trằn trọc dáng nằm ngồi khó nhọc
-
(thơ Như Tạng)
-
Nỗi lo lắng và đau đớn của người mẹ trong lúc sinh nở:
-
… Nỗi lo của người gần sinh nở
-
Những cơn đau quằn quại vỡ người
-
Kịp đến khi nghe con khóc chào đời
-
Hồn nhẹ nhõm cơn đau dường dừng lại
-
(thơ Như Tạng)
-
Công lao của người MẸ nuôi con và lo giáo dục, lo tương lai cho
con mình:
-
Và con sẽ lớn lên người dạy bảo
-
Nuôi nấng, nâng niu, ấp ủ, dỗ dành
-
Vì tương lai MẸ lo lắng tảo tần
-
(thơ Như Tạng) …
-
Biết bao nhiêu là thơ, nhạc, văn chương nói về MẸ. Nào là ví
lòng MẸ như biển rộng bao la như trời cao không cùng tột… Bài
nào nói về MẸ cũng hay, cũng réo rắt, cảm động dễ đi vào lòng
người. Bởi vì nói về MẸ là nói về tình thương, mà tình thương
thì bắt nguồn từ cõi lòng chân thật và sâu lắng nhất của tâm hồn
mình. Do đó nói về MẸ là nói về những gì mình có kinh nghiệm
sống thực, những xúc động chân thành những suối nguồn êm dịu
trong lành mát mẻ nhất. Vì thế cho nên những bài thơ, nhạc… viết
về MẸ đều hay và cảm động.
-
Vì ân trọng đối với MẸ như thế nên ngày xưa trong xã hội Việt
Nam không được làm đám cưới hoặc người vợ không được có thai
trong lúc thọ tang CHA MẸ.
-
Trong sách “Hải Dương Phong Vật Chí” của Trần Đạm Trai có ghi:
“Cổ thời trọng đạo hiếu đến nỗi luật pháp cấm vợ có thai trong
khi tang chế, đến thời Lê Thánh Tông mới bỏ lệ ấy, nhân vì có
người tỉnh Hải Dương huyện Đường An xã Thời Cử tên là Nguyễn Kim
An, thuở nhỏ hàn vi, thời Hồng Đức (1470-1497) làm lính chầu
trong cung. Vua thấy có tài cho về đi học, 22 tuổi đỗ Hương
cống, rồi thi hội thi đình đỗ Bảng nhãn (học vị của người thi đỗ
thứ hai, sau Trạng nguyên trong khoa thi đình). Được bổ làm quan
ít lâu, về cư tang, giữ trọn ba năm đạo hiếu thì mất, không có
con trai, vua cảm thương, từ đó bỏ lệ kia”.
-
“Các triều vua thường khuyến miễn thuần phong mỹ tục vẫn nhắc
nhở đạo hiếu, như lệnh vua Lê Huyền Tông ra ngày 11 năm Cảnh Trị
thứ ba (1665) cho tinh biển những người có hiếu hạnh, trong biển
ghi tên tuổi quán chỉ người được khen thưởng và nói rõ duyên do
có hiếu hạnh như thế nào) (Lê Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính).
Lệnh vua Hàm Nghi năm đầu (1884) ban thưởng biển son khắc bốn
chữ vàng HIẾU HẠNH KHẢ PHONG cho những người có tiếng hiếu hạnh
(Đại Nam Điê? Lệ)”. (theo sách Đất Lề Quê Thói của Nhất Thanh,
1992).
-
Những gương hiếu thảo ngày xưa nhiều khi đã phải hy sinh thân
mình để cứu mạng cha mẹ. Trong sách “Việt Nam văn học toàn thư”
của Hoàng Trọng Miên có ghi trường hợp: “Lãnh Tạo người làng
Tuần Lễ tỉnh Nghệ An, chống đối triều Minh Mạng. Lê Văn Duyệt
được cử làm Tống trấn Nghệ an để dẹp Lãnh Tạo, bị Tạo lừa, ngang
nhiên đem quân lính tới dinh trấn giả làm đi thanh tra; Lê Văn
Duyệt dụ hàng, tâu vua cho làm quan, Tạo không chịu, chỉ ưng
thuận vàng bạc rồi đi. Sau đó Lê Văn Duyệt sai lính bắt giữ mẹ
và vợ của Tạo. Vì thương mẹ mà Tạo phải ra hàng…”.
-
Năm 1962 thầy Nhất Hạnh cho ra đời tác phẩm Bông
Hồng Cài Áo rất nổi tiếng và rất thành công trong mục đích cổ võ
cho Ngày Mẹ nhằm ngày Vu Lan rằm tháng Bảy âm lịch. Hiện nay
ngày rằm tháng Bảy đã hiển nhiên trở thành ngày Mẹ của người
Việt
Nam.
Trong ngày ấy hoa hồng được cài cho người có diễm phúc còn mẹ và
hoa trắng cho những người mà mẹ đã qua đời.
-
Theo truyền thống Đông Phương thì hiếu đứng đầu trăm hạnh lành
như trong Nhị Thập Tứ Hiếu Diễn Âm của Lý Văn Phức có câu:
-
Chữ hiếu hạnh niệm tròn một tiết
-
Thời suy ra trăm nết điều nên
-
Người bất hiếu nghĩa là đối xử không tốt với đấng sinh thành của
mình thì khi ra đời không còn ai tin tưởng người ấy nữa. Do đó
mà trăm sự trăm việc sẽ đỗ vỡ, không thể thành công trên đường
đời dù là việc nhỏ hay việc lớn.
-
B. Tại Trung Quốc
-
Trường hợp Trung Quốc ngày xưa có nhiều điểm giống Việt Nam
trong những câu chuyện về hiếu đạo. Còn cha mẹ tại thế để được
phụng dưỡng là một niềm vinh hạnh và là nỗi vui sướng trong đời:
-
Nhất nhật đại dưỡng bất dĩ Tam Công hoán
-
(Còn được nuôi cha mẹ ngày nào thì dẫu cho đổi lấy chức Tam Công
cũng không màng. Tam Công là ba chức quan lớn nhất của chế độ
quân chủ ngày xưa: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo).
-
Nhiều người khi mẹ mất làm nhà bên cạnh mộ mẹ ở để nhang khói
cho đến lúc mãn tang.
-
Quan niệm của nhà Nho rất nghiêm khắc về hiếu hạnh. Đạo làm con
lúc còn nhỏ phải kính cẩn vâng lời cha mẹ dạy bảo, hầu hạ cha
mẹ. Khi lớn khôn ra đời thì lo phụng dưỡng ngọt bùi ấm lạnh cho
cha mẹ.
-
Trong truyện Kiều Nguyễn Du cũng đã nhắc đến phong tục báo hiếu
của người Trung Hoa qua điển tích Lão Lai, người đã bảy mươi
tuổi vẫn mặc đồ hoa hòe sặc sỡ ra sân múa hát cốt làm cho cha mẹ
được vui lúc tuổi già bóng xế:
-
Sân Lai cách mấy nắng mưa
-
Có khi gốc tử cũng vừa người ôm
-
(Kiều)
-
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh phẩm Hành Do có nói đến hiếu hạnh của
Lục Tổ Huệ Năng. Trước khi ngày đi tu, cha mất sớm, mẹ góa con
côi, hằng ngày ngài phải gánh củi ra chợ bán để kiếm tiền phụng
dưỡng mẹ.
-
C. Tại Nhật Bản
-
Trường hợp Nhật Bản trong truyện cổ tích có câu truyện của người
con hiếu thảo như sau: ngày xưa trên đảo Kita có anh chuyên làm
nghề chài lưới tên là Taro ngày ngày lo đánh cá nuôi mẹ. Mẹ anh
đã tám mươi tuổi, anh cũng đã lớn tuổi mà không chịu lấy vợ sinh
con để nối dõi tông đường theo như phong tục người Nhật. Mẹ
thường hay bảo anh hãy lấy vợ sinh con nhưng anh nhất định
không, vì sợ lấy vợ phải lo cho vợ con không có thì giờ hầu hạ
mẹ. Taro nói rằng:
-
Con dù xác thịt thai phàm
-
Cũng lo phụng dưỡng xin an tấc lòng…
-
Trường hợp Nhật bản ngày nay họ cũng áp dụng Ngày Mẹ như các
nước Tây Phương chọn ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm để kỷ
niệm. Họ gởi thiệp, tặng hoa và tặng quà cho Mẹ để tỏ lòng hiếu
kính và yêu thương Mẹ.
-
III. Mẹ trong truyền thống xã hội Tây Phương (trường hợp của Hoa
Kỳ và các nước Tây phương khác)
-
Mother’s Day (Ngày Mẹ) là ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm
mỗi năm. Mỗi năm đến Ngày Mẹ dù người lớn bao nhiêu tuổi mà có
diễm phúc còn mẹ đều rất sung sướng về thăm Mẹ, tặng Mẹ một
thiệp chúc mừng Ngày Mẹ, một món quà và một món hoa tươi để mừng
Mẹ được sống lâu. Tục lệ này hầu hết các nước Phương Tây đều áp
dụng như Hoa Kỳ, Anh úc Đại Lợi, Thụy Điển, Đan Mạch v.v… Người
Tây Phương giải thích rằng họ làm như vậy là để biểu lộ tình
thương và lòng hiếu kính đối với Mẹ.
-
Khởi nguyên của ngày này là do bà Julia Ward Howe khởi xướng năm
1872 tại Hoa Kỳ. Vài năm sau tại Boston, tiểu bang
Massachusetts, bà đã kêu gọi và đã thành công trong buổi tập hợp
kỷ niệm Ngày Mẹ hàng năm.
-
Bà Julia Ward Howe là một học giả, giảng sư Đại học rất nổi
tiếng đương thời của Hoa Kỳ. Mãi đến năm 1914 quốc hội Hoa Kỳ
mới chấp nhận Ngày Mẹ nói trên như một ngày lễ quốc gia bằng một
đạo luật do quốc hội thông qua. Kể từ đó các nước theo văn hóa
tây Phương hoặc ảnh hưởng của nền văn hóa của họ đều theo phong
tục kể trên để biểu lộ lòng hiếu kính và yêu thương đối với mẹ.
(theo sách “The World Book Encyclopedia” xuất bản tại Hoa Kỳ,
1992).
-
IV. Mẹ trong kinh điển Phật giáo
-
A. Tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật
-
Trong bài kinh BÀ MẸ HỔI CÁC ĐỜI TRƯỚC (trong sách “Một trăm bài
Kinh Phật” của Đoàn Trung Còn, không ghi năm xuất bản) có ghi
tấm gương hiếu hạnh của Đức Phật như sau:
-
Lúc ấy Phật ngự với Giáo Đoàn chư đại tỳ kheo tại xứ
Ca-căn-ga-la (kacangala). Trong cảnh rừng ở đó, có bà già tên là
Ca-căn-Ga-Lác (Kâcangalâ), bà xách một cái bình đến giếng mà múc
nước.
-
Lúc ấy Đức Thế Tôn gọi A-Nan và bảo rằng: “Này A-Nan hãy đi nói
với bà ấy rằng, Đức thế Tôn khát nước, bà cho ngài uống với”.
-
A-Nan nói với bà mấy lời ấy, bà đáp rằng: “Để tôi đem đến cho
Ngài”.
-
Bà đổ nước đầy bình mang đến trước mặt Phật. Bà thấy Phật rất
trang nghiêm với 32 tướng chánh, 80 tướng phụ, một vòng hào
quang sáng ngời.
-
Bà vừa thấy Phật, cái tình mẹ thương con nẩy sinh trong lòng bà,
bà vội đưa tay lên ôm hôn Đức Phật vừa nói rằng: “Con tôí! Con
tôí!”. Mấy vị tỳ kheo muốn cản bà lại nhưng Đức Phật liền phán
rằng: Này chư tỳ kheo! Chớ cản bà ấy. Tại sao vậy? Bởi vì trong
năm trăm đời liên tiếp bà đã là MẸ ta:
-
Vì tình mẫu tử sâu xa
-
Nên bà chạy đến ôm ta hôn nhầu
-
Ai mà ngăn cản đón đầu
-
Thì bà giận tức máu hầu tuôn ra
-
Ta đây nhớ MẸ buổi qua
-
Cám ơn nghĩa nặng vì ta bao đời
-
Từ bi, thương xót lấy người
-
Nên ta chịu để ôm vùi mà hôn
-
Liền sau đó Đức Thế Tôn thuyết pháp Tứ diệu Đế để độ bà. Bà liền
chứng quả Tu-Đà-Hườn và đọc bài kệ như sau:
-
Làm con mà biết báo đền
-
Tác thành việc khó, đáp tình mẫu thân
-
Thế Tôn giữ trọn hiếu phần
-
Giúp ta đổi tánh thoát trần dứt mê
-
Độ ta ra khỏi bến mê
-
Đường tiên đường Phật đưa về đúng nơi
-
Con ta chuyển sức ra tài
-
Đặng làm việc tốt, đáng đời kính khen.
-
Sau đó bà xin phép xuất gia và nhập vào hàng tỳ kheo ni. Bà tinh
tấn tu hành và chứng quả A-La-Hán.
-
B. Kinh Tâm Địa Quán
-
Kinh Tâm Địa Quán, phẩm báo ân, Đức Phật nhân tán thán 500 vị
trưởng giả thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà đến cúng dường Phật
và đại chúng. Đức Phật giảng cho họ nghe về công ơn sanh thành
của mẹ như sau:
-
“… Mẹ hiền thương con, thật không lấy vật gì để so sánh cho cân
xứng vậy. Từ khi vào thai trải qua 10 tháng, những lúc mẹ đi,
đứng ngồi nằm chịu trăm điều khổ não mà miệng mẹ không thể nói
ra. Muốn những đồ uống ăn hay áo mặc, dú có được cũng chẳng
mừng, vì lòng lo lắng không hề dứt, chỉ lo nghĩ đứa con sắp sanh
sao cho hoàn hảo là hơn thôi. Nếu khi đẻ khó thì như trăm ngàn
mũi dao đồng thời đâm cắt toàn thân. Nếu khi sanh đẻ được an
lành, ba mẹ cùng các người thân thuộc cùng chung vui sướng y như
kẻ nghèo được châu báu. Sự đau khổ của mẹ trong mười tháng do
một tiếng khóc đầu tiên của con khi mới lọt lòng mà nỗi khổ ấy
mẹ liền quên mất và vui sướng như nghe âm nhạc. Con lấy nơi bụng
ngực của mẹ làm chỗ ngủ, lấy hai cổ vế làm chỗ dạo chơi, và do
nước giếng cam lồ nơi ngực mẹ chảy ra mà nuôi lớn. Ôi ơn đức của
mẹ, núi cao biển sâu cũng chẳng sánh kịp. Nếu đứa con nào biết
tùy thuận nghe theo những lời dạy bảo của từ mẫu mà không trái
nghịch thì được chư thiên hộ niệm, phước đức vô cùng…”
(Kinh Tâm Địa Quán, H.T.T Tâm Châu dịch). (tham khảo sách Cho
Trọn Hiếu Ân của T.T.T. Bảo Lạc, 1991).
-
C. Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
-
Nhân khi Đức Phật dẫn đại chúng đi hành đạo hướng về phương Nam.
Giữa đường Đức Phật đến lại trước một đống xương khô đã lâu đời
chất to như quả núi. Đại chúng thấy vậy không rõ nguyên do, A
Nan liền bạch Phật sinh dạy cho biết tại sao Đức Thế Tôn lại làm
như thế. Phật chỉ rõ rằng đóng xương đã chồng chất đó rất lâu
đời về trước nên biết đâu trong đó có xương của cha, mẹ, vợ,
con, anh, em ta nhiều đời trước. Vì lòng hiếu kính nên ta lạy
đống xương như vậy. Đức Phật đã dạy bảo đại chúng rất nhiều về
công ơn sinh thành của cha mẹ, đặc biệt mười điều chúng ta nên
ghi nhớ như sau:
-
Thế Tôn lại bảo A Nan
-
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
-
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
-
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
-
Thứ hai sinh đẻ gớm ghê
-
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
-
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
-
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
-
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
-
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
-
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
-
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
-
Thứ sáu sú nước nhai cơm
-
Miễn con no ấm chẳntg nhờm chẳng ghê
-
Điều thứ bảy không chê ô uế
-
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
-
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
-
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
-
Điều thứ chín miễn con sung sướng
-
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
-
Tính sao có lợi thì làm
-
Chẳng
màng tội lỗi bị giam bị cầm
-
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt
-
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
-
Thương con như ngọc như vàng…
-
Kinh Báo
Hiếu Ân
-
Ngoài mười điều ân trọng ghi trên toàn bài kinh Đức Phật còn chỉ
rất rành rẽ từng ly từng tí một về công sinh thành nuôi nấng và
dạy dỗ cho con nên người. Đọc toàn bài kinh được chuyển ngữ
thành thể thơ song thất lục bát khiến tôi bùi ngùi xúc động đến
rơi nước mắt nhiều lần khi nghĩ đến người mẹ vừa mới qua đời.
Tôi thấy mình bất hạnh vì đã xa cha mẹ rất lâu năm, và bây giờ
nhìn đóa hoa trắng trên áo tôi mới thấm dần thấ, dần và hiểu
nghĩa rất sâu sắc của tâm trạng kẻ mồ côi mẹ. Đây bầu trời đen
tối đã phủ kính tâm hồn tôí! Tôi trở thành kẻ mồ côi mẹ, đau đớn
quá! Cho dù tôi đã bao nhiêu tuổi trên đầu…
-
V. Phương pháp báo hiếu
-
Tôi nghĩ ai có khát nước đến cùng cực khi gặp nước mới thấy nước
quí giá vô vàn. Vấn đề báo hiếu cũng vậy. Ai đã mất cha mẹ mới
thấy phương pháp báo hiếu của Đức Phật dạy là quí báu.
-
Lấy kinh nghiệm của bản thân mà nói, khi mẹ tôi còn tại thế tôi
vẫn thường xem kinh sách, vẫn tin lời Đức Phật dạy, vẫn cầu
nguyện cho cha mẹ trong bảy đời đã qua trong quá khứ siêu sanh
về miền Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, như trong kinh Vu Lan đã
dạy.Vẫn luôn luôn học về gương hiếu hạnh của đức đại hiếu Mục
Kiền Liên. Vẫn biết về ngày Mother's Day của các nước Tây
Phương, và truyền thống báo hiếu của Đông Phương. Thế nhưng
những việc làm đã qua của tôi là do lý trí chủ đạo. Còn việc báo
hiếu của tôi nhân mùa Vu Lan năm nay được thúc bách bởi một sự
mất mát to lớn nhất trong đời tôi. Đồng thời nó bắt nguồn từ
lòng thương mẹ mà ra. Tôi muốn tìm một cái gì đó, một hành động
nào đó để may ra lấp bớt được một khoảng trống tâm hồn.
-
Ngược dòng thời gian về thời điểm trước khi mẹ tôi qua đời, tôi
thường tìm hiểu xem những người không phải là Phật tử họ nghĩ gì
về tôn giáo của mình, để có thêm kiến thức. Tôi cũng tìm hiểu
được những giáo lý của đức Phật dạy được các học giả khác tôn
giáo với mình và các nhà khoa học, triết gia Tây Phương có những
nhận xét gì về Phật giáo để cũng cố thêm niềm tin của mình về
phương pháp báo hiếu của đức Phật đã dạy.
-
Trong đó có Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận là rất nhiều
tín đồ thiên Chúa Giáo có cả các vị Linh mục đã áp dụng phương
pháp thiền quán để tu tập, trao dồi thân tâm của họ.
-
Một học giả đạo Hồi đã nói: "Đức Phật là của cả nhân loại.
(Buddha is for whole mankind. The Buddha is not property of
Buddhists only. He is the property of whole mankind. His
teaching is common to everybody. Every religion, which came into
existence after the Buddha, has borrowed many good ideas from
Buddha).
-
Triết gia Bertrant Russel ca ngợi Phật Giáo có triết lý hành
động vĩ đại nhất và lâu đời nhất...
-
Có thể nói khoa học gia nổi tiuếng nhất của thế kỷ, Albert
Einstein, đã nói là "Phật giáo đương đầu với khoa học" (Buddhism
copes with Science), (If there is any religion that would cope
with modern scientific needs it would be Buddhism).
-
Theo tôi không phải Phật giáo đương đầu với khoa học mà Đức Phật
đã hướng dẫn cho khoa học tự nhiên tiến lên về mọi mặt mới đúng.
Tôi klhông muốn dài dòng trích dẫn lời Đức Phật để chứng minh ở
đây vì bài báo đã quá dài. Xin mời bạn đọc đọc Duy Thức Học ta
sẽ thấy Đức Phật đã giải thích về nguồn gốc của con người và vũ
trụ rất tinh tế, rất khoa học khiến các nhà khoa học, các triết
gia phải tìm tòi học hỏi.
-
Giáo sư Rhys Davids nói rằng: "Không có tôn giáo nào vượt trội
hơn Phật giáo" (Nothing to surpass Buddhism. Buddhist or not
buddhist, I have examined everyone of the great religious
systems of the world, and in none of them I have found anything
to surpass, in beauty and comprehensiveness, the Noble Eightfold
Path and the Four Noble truths of the Buddha. I am content to
shape my life according to that path). (Tham khảo sách "BUDDHISM
in the EYES of INTELLECTUALS" của K. Sri Dhammananda).
-
Trở lại lời Phật dạy về phương pháp báo hiếu kinh Đại Báo Phụ
Mẫu Trọng Ân và Kinh Vu Lan: Phật đã dạy rằng vì công ơn của cha
mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn. Vì
thế chúng ta không thể nào đền đáp công ơn ấy bằng phương diện
vật chất hữu hạn được. Hơn nữa trong cõi luân hồi kể từ vô thỉ
đến nay chúng ta có không biết bao nhiêu là cha mẹ thì làm sao
chỉ dùng những phương tiện vật chất để phụng dưỡng cha mẹ hiện
tiền mà có thể đền đáp thâm trọng ân ấy. Phật đã cho thí dụ là:
-
Vì có người gặp cơn đói rét
-
Nuôi song thân dâng hết thân này
-
Xương nghiền thịt nát phân thây
-
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng...
-
(Kinh báo Ân)
-
Như vậy phải làm thế nào để báo đáp được hiếu ân đó. Đức Phật đã
dạy rất nhiều phương pháp trong rất nhiều kinh điển như bố thí
Ba La Mật, thân cận Ba La Mật, chân thật Ba La Mật... Nhưng hôm
nay xin theo các bộ kinh đã dẫn và đặc biệt về sự giới hạn của
bài này nên chúng tôi xin tóm lược thành hai phương pháp đơn
giản: TỰ LỰC và THA LỰC.
-
Thứ nhất là: TỰ LỰC
-
Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, cầu Phật Đạo giải thoát, tiến tu, thật
học để đem khả năng của mình giảng giải cho mọi người chung
quanh chúng ta cùng phát tâm ấy, hướng về đạo Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, và cuối cùng là cầu nhất thừa Phật Đạo.
-
Giai đoạn đầu là chúng ta phải học hỏi và hiểu thấu đáo về thâm
ân sinh thành của cha mẹ. ăn năn hối cải những lỗi lầm, nếu có,
từ trước đã làm hại mình hại người vạ lây tiếng xấu đến song
thân. Giai đoạn kế tiếp là phải siêng năng không ngừng nghĩ để
đạt dược những thành công lớn trong đời, khiến cha mẹ vui lòng
toại nguyện, an tâm vì con... Và làm thế nào để cho cha mẹ cảm
nhận được lòng hiếu kính, yêu thương của mình đối với cha mẹ.
Đồng thời phải có tâm niệm sung sướng không gì bằng khi mình còn
được cha mẹ trên đời, Bởi vì nếu cha mẹ biết được điều đó cha mẹ
cũng sung sướng vô vàn. Những điều vừa kể rất đơn giản nhưng
không kém phần khó khăn khi thực hiện được nó. Giai đoạn cuối
cùng như trên đã nói là cầu Nhất Thừa Phật Đạo để giải thoát cho
mình, và phổ độ giải thoát cho cha mẹ nhiều đời đã qua và hiện
tiền cha mẹ sống lâu và tránh khỏi những ách nạn trong đời.
-
Thứ hai là: THA LỰC
-
Như Đức Phật đã dạy trong kinh Vu Lan, cho dù đã chứng được quả
vị Bồ Tát và đã được thần thông quảng đại như ngài Mục Kiền
Liên, cộng với tiếng tăm vang lừng cả trời người đều nể phục đi
chăng nữa một mình ngài không thể cứu được mẹ ngài trong địa
ngục và càng klhông thể cầu siêu độ cho cha mẹ bảy đời trước đó
nữa. Như vậy chỉ có một cách là cầu THA LỰC. Hay nói đúng hơn là
cầu cộng lực của chư tăng trong mười phương tụ hội về nhân ngày
rằm tháng bảy. Trong hàng chư tăng đó gồm có phàm tăng, thánh
tăng, và những hàng bồ tát mười phương vì nguyện lực độ sinh nên
các ngài đã hiện hình làm phàm tăng thân cận chúng ta.
-
Nhân ngày ấy nhờ thần lực chư tăng chú nguyện cho sở cầu báo
hiếu của chúng ta được viên thành.
- --o0o--
|
|