|
Phá Chấp Ngã-Pháp
Thích Đức Thắng
---o0o--
-
Con đường vượt qua cửa Tổ là Đường về Hố Thẳm. Ở đây, nếu bạn
muốn vượt qua, muốn siệu việt nó mà không buông tay để nhảy,
thì kể như bạn đã đi lạc vào đường ma lối quỷ rồi đó!
- Ở đây, chúng tôi đề
cập đến một con đường, nhưng thật sự con đường này không phải để
chúng ta đi bằng đôi chân dính trên mặt đất, mà phải nhảy vào khi
buông đôi tay. Chỉ có cách vào kiểu này mới vào được cái cửa không
cửa, như kinh Lăng Già đức Phật đã dạy: "Tâm là Tông, không cửa là
cửa pháp." Và các Thiền sư luôn luôn cảnh giác: "Từ cửa mà vào thì
không phải là đồ gia bảo, nhờ duyên mà được, ắt phải có trước sau,
thành hoại." Đã không cửa thì làm sao mà qua? Và nếu từ cửa mà
vào, nhờ duyên mà được, tất cả đều bị phủ nhận. Vậy thì bằng cách
nào để các ngài hướng dẫn người qua cuộc sống mà không cần nó?
- Thật sự, ở đây chúng
ta đang đứng trên lập trường nhân quả nhị nguyên, nên thấy có
những mâu thuẫn có thể xảy ra trong cách nhìn trói buộc. Nhưng nếu
chúng ta đặt cách nhìn vào cái nhìn không bị kẹt, thì mọi vấn đề
được hóa giải ngay. Đây cũng chính là pháp dạy người của các Thiền
sư sử dụng trong việc hướng dẫn người:
- "Một hôm Triệu
Châu hỏi Nam Tuyền:
- - Thế nào là
Đạo?
- Nam Tuyền đáp:
- - Tâm bình
thường là Đạo.
- Hỏi:
- - Có thể tiến
đến được không?
- Đáp:
- - Nghĩ tiến đến
là trái.
- Hỏi:
- - Không nghĩ
làm sao biết là Đạo?
- Đáp:
- - Đạo không
thuộc vào biết với không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô
ký. Nếu thật đạt Đạo thì chẳng nghĩ. Ví như hư không thênh thang
rỗng rang đâu có thể gắng nói phải quấy. Ngay câu nói này Triệu
Châu ngộ lý Đạo."
- Triệu Châu đã ngộ được
cái gì ở đây? Thật ra Triệu Châu có được cái chi đâu! Triệu Châu
chỉ vượt qua được cái kẹt của chấp biết với không biết của nhân
quả nhị nguyên thế thôi. Ngoài ra Nam Tuyền không truyền cái chi
cho Triệu Châu, và Triệu Châu cũng không nhận được cái chi của Nam
Tuyền trao cho cả. Ở đây, nếu có người nào vô sự thì tự do vượt
qua, dù cho Nam Tuyền hay Triệu châu có cản lại cũng không được
nào. Cũng trong cách hướng dẫn này, Thiền sư Thường Chiếu Việt-nam
đã trả lời một câu hỏi của Thông Thiền:
- Thông Thiền hỏi
Thường Chiếu:
- - Làm thế nào
để biết rõ Phật pháp?
- Thường Chiếu
đáp:
- - Phật pháp
không thể biết rõ được; ở đây, không có pháp để biết. Chư Phật
cũng như thế, tu tất cả pháp mà không thể đạt được. Thiền ngay cau
nói này mà lãnh ngộ yếu chỉ."
- Muốn có tự do thì phải
giải thoát tất cả mọi trói buộc, dù cho đó chỉ là một khái niệm.
Do đó, người sống thiền là người luôn luôn thể hiện bước đi tự tại
giữa cuộc sống, nơi đó không bị ràng buộc bất cứ điều gì, ngay cả
tâm hay là Phật đi chăng nữa. Thiền sư Mã Tổ-Đạo Nhứt cũng dạy như
vậy, khi có người hỏi:
- - Tại sao ngài
nói: Tức tâm tức Phật?
- Mã Tổ đáp:
- - Vì để dỗ con
nít khóc.
- Hỏi:
- - Khi nín rồi
phải làm sao?
- Mã Tổ đáp:
- - Chẳng phải
tâm chẳng phải Phật.
- Hỏi:
- - Trừ hai việc
trên, nếu có người hỏi thì trả lời như thế nào?
- Mã Tổ đáp:
- - Nói với Y
chẳng phải vật.
- Hỏi:
- - Nếu chợt
trong kia có người đến thì sao?
- Mã Tổ đáp:
- - Liền dạy Y
thể hội đại Đạo.
- Qua đây, nếu chúng ta
thấu hiểu rõ được những lời dạy này, thì chúng ta sẽ thấu rõ được
tất cả những gì mà các ngài đã dạy qua công án. Với mục đích quyét
sạch các thế lực vô minh đang bao phủ, và thủ tiêu mọi kiến giải
có được của nhân quả phân biệt về khái niệm nhị nguyên v.v...
không ngoài ba mục đích đập tan cái vọng tâm phân biệt chấp trước
về ngã-pháp, để hiển bày cái tâm vô phân biệt tự tại nơi mỗi chúng
ta trong cuộc sống, mà ở đó chúng ta đã tự đánh mất, tự bỏ quên để
rồi không nhận ra được nó.
- Dưới đây, chúng tôi sẽ
trình bày về pháp dạy người của các vị Thiền sư tiền bối, qua đó
chúng ta sẽ có được một cái nhìn mới về cuộc sống. Từ cái nhìn
này, chúng ta sẽ thấy được những sai lầm mà chúng ta có được do
cái nhìn theo thói quen tập quán, đã hun đúc từ ngàn xưa tới nay
qua định thức nhân quả, mà chúng ta không thấy, nếu không nhờ các
ngài khai mở.
- Huệ Trung quốc
sư hỏi Tử Lâm Cung Phụng:
- - Phật nghĩa là
gì?
- Phụng thưa:
- - Nghĩa là
Giác.
- Hỏi:
- - Phật đã từng
mê sao?
- Phụng thưa:
- - Chưa từng mê.
- Lại hỏi:
- - Vậy dùng Giác
để làm gì?
- Cung Phụng đáp
không được, hỏi lại Huệ Trung:
- - Thế nào là
thật tướng?
- Đáp:
- - Đem hư không
lại.
- Thưa:
- - Hư không làm
sao đem lại được?!
- Hỏi:
- - Hư không
không thể đem lại được, vậy ông hỏi thật tướng để làm gì ?."
- Giác-Mê cũng chỉ là
hai khái niệm, thật tướng cũng là một khái niệm. Tất cả mọi khái
niệm đều là hậu quả tất yếu của vọng tâm phân biệt; nếu chấp vào
khái niệm để tìm cầu ông Phật hay Bản-lai-diện-mục chính mình, thì
đó chỉ là những việc làm sai lầm cần phải đập tan. Ngay trong cái
đập tan chúng ta sẽ nhận ra được cái không diệt không sanh hiện ra
như chính nó, trong cách thể hiện vô-phân-biệt. Tuệ Trung Thượng
Sỹ, một Thiền sư lớn của Việt Nam vào cuối thế kỷ 13 cũng trên lập
trường này trong pháp dạy người:
- Có vị Tăng hỏi
Thượng Sỹ:
- - Thế nào là
Đạo?
- Thượng Sỹ đáp:
- - Đạo không
dính dấp gì đến câu hỏi, câu hỏi không dính dấp gì đến Đạo!
- Lại hỏi:
- - Các hàng Thạc
đức ngày xưa nói: ' Vô tâm tức là Đạo ', có phải vậy không?
- Thượng Sỹ đáp;
- - Vô tâm chẳng
phải là Đạo, không Đạo cũng không tâm, lại nói:
- - Nếu họ bảo vô
tâm là Đạo, thì tất cả cỏ cây đều là Đạo hay sao? Còn nếu bảo vô
tâm không phải Đạo, thì cần gì phải nói Là với Không là?
Hãy nghe ta nói bài kệ:
- - Vốn không
tâm không Đạo,
- Có Đạo chẳng
vô tâm.
- Tâm-Đạo vốn
hư tịch,
- Nó ở đâu mà
tìm?
- Cái sai lầm to lớn của
chúng ta là chấp chặt vào khái niệm ngôn ngữ văn tự, và tự lệ
thuộc vào chúng, cho đó là chân lý là đạo, trong khi đó những từ
ngữ khái niệm này cũng chỉ là một giả danh biểu hiện cho một thực
tại, chứ không phải chính nó là một thực tại như chúng ta tưởng về
phương diện chuyên chở; nhưng đứng về phương diện biểu hiện chúng
sẽ vẫn là thực tại cho chính nó. Do đó, vấn đề tìm kiếm phủ nhận
hay chấp nhận thực tại sẽ không còn tác dụng, khi Thiền sư sống vô
sự với thực tại, và chúng sẽ không là gì cả như Thiền sư Duy Khoan
đã trả lời khi một vị Tăng hỏi:
- Tăng hỏi Duy
Khoan:
- - Đạo ở chỗ
nào?
- Sư đáp:
- - Ở trước mắt.
- Hỏi:
- - Sao con không
thấy?
- Đáp:
- - Vì ngươi có
Ngã nên không thấy!
- Hỏi:
- - Con có Ngã
nên không thấy, còn Hoà thượng thấy chăng?
- Đáp:
- - Có Ngươi có
Ta nên cũng chẳng thấy!
- Hỏi:
- - Không con
không Ngài thấy chăng?
- Đáp:
- - Không Ngươi
không ta, thì ai thấy nó!
- Khi thực tại đã được
chúng ta đánh giá qua biểu tượng, thì thực tại này không còn là
thực tại nữa bỡi vì có Ta có Người (có Nhân có Ngã), và thực tại
có thể trở thành chủ quan hay khách quan cũng tùy thuộc vào nhân
và ngã. Do đó, thực tại bị bóp méo qua nhãn quan của chúng ta để
trờ thành một thứ chân lý què quặt của định thức nhân quả.
Ở đây, thực tại như thực tại chính nó, khi không còn ta-người nữa,
mọi phân biệt đều bị biến mất cũng như Thiền sư Đơn Hà đốt Phật gỗ
để cảnh tỉnh viện chủ Hướng.
- Đơn Hà đến chùa
Huê Lâm nhân trời lạnh, sư bèn bê một tượng Phật bằng gỗ đốt để
hơ, viện chủ Hướng trông thấy quở rằng:
- - Sao Ông đốt
tượng Phật của tôi?
- Sư lấy gậy bới
tro nói:
- - Tôi thiêu để
tìm xá lợí!
- Viện chủ bảo:
- - Phật gỗ làm
gì có xá lợí!
- Sư nói:
- - Đã không có
xá lợi thì thỉnh thêm hai tượng nữa để thiêu.
- Viện chủ nghe
câu nói này tất cả mọi kiến chấp đều bị tan vỡ.
- Nếu ở đây, viện chủ
Hướng không nhờ Đơn Hà đốt tượng Phật để cảnh tỉnh, thì làm sao
ông có khả năng thắng được ông Phật gỗ cùng xá lợi Phật đang lấp
kín trong lòng ông, và đời nào những khối mê này vỡ tung ra được?
Khi mọi kiến chấp đã bị vỡ tung ra rồi, thì mọi liên hệ lệ thuộc
đều bị cắt đứt. Lúc này là lúc không còn can hệ như Tịnh Không một
thiền sư Việt Nam đã trả lời cho một học tăng.
- Tăng hỏi Tịnh
Không:
- - Từ trước '
Trực chỉ ' nói cái chi?
- Tịnh Không đáp:
- - Ngày ngày đi
gặt lúa, giờ giờ kho lẫm không.
- Tăng thưa:
- - Con không hiểu
- Tịnh Không dạy:
- - Trời trăng
luôn sáng
- Mây nổi
khuất che.
- Rồi Tịnh Không
đọc kệ:
- - Người trí
không ngộ đạo,
- Ngộ đạo tức
kẻ đần.
- Nằm dài chân
khách duỗi,
- Nào biết
ngụy cùng chân.
- Vì biết cho nên kho
lẫm đầy vơi, vì biết cho nên trời trăng trong sáng, vì biết cho
nên có ngụy có chân đó là thứ kiến giải chấp trước phân biệt nhị
nguyên, là đầu mối của mọi sự trói buộc. Bỡi vậy, các thiền sư khi
dạy người luôn luôn đoạt hết mọi cơ hội nếu có nơi người đối diện
khi họ khởi lên tâm phân biệt chấp trước dùng để tìm hiểu đạo, tìm
hiểu chân lý v.v... như thế nào.
- Nếu chấp có, dùng có
để hỏi thì các ngài dùng không để phủ nhận; hoặc chấp không, dùng
không để hỏi thì các ngài dùng có để phủ nhận. Nhưng thật ra
có-không đó chỉ là một trò chơi của ngôn ngữ mà thôi; đó cũng chỉ
là phương tiện để rồi vượt qua khỏi phương tiện, chứ không phải
dùng phương tiện như là một cứu cánh. Phương tiện luôn luôn là
phương tiện, chúng là những cái duyên bên ngoài không phải là đồ
gia bảo bên trong, như thiền sư Sùng Tín trả lời khi có người hỏi.
- Thích Sử Lý
Tường hỏi Sùng Tín:
- - Thế nào là
chân như Bát nhã?
- Sư đáp:
- - Tôi không có
chân như Bát nhã.
- Thưa:
- - Hân hạnh được
gặp Hòa thượng.
- Sư đáp:
- - Đây vẫn là
lời bên ngoài.
- Sao ở đây gọi là lời
bên ngoài? Phải chăng Lý Tường chỉ gặp được diện mục bên ngoài,
chứ chưa gặp được bản lai diêﮠmục của Sùng Tín; do đó lời nói này
cũng chỉ là lời nói bên ngoài mà thôi. Ngay đến, khi nói Chân như
Bát nhã này cũng là lời nói bên ngoài, vì người hỏi do tâm phân
biệt chấp vào Bát nhã Chân như, muốn chúng phải có một ý nghĩa như
thế nào qua lời đáp của thiền sư. Nhưng ở đây, nếu thiền sư đáp
ứng yêu cầu chấp trước khởi lên nơi người hỏi để trả lời một câu
hỏi theo dạng nhân quả, thì người trả lời vẫn tầm thường như mọi
người, vẫn bị kẹt trong định thức nhân quả nhị nguyên. Do đó Sùng
Tín bằng cú đánh phủ đầu vừa vượt qua khỏi câu hỏi, vừa mở cho
người hỏi một con đường mới; nhưng ở đây Lý Tường chưa đủ lanh cơ
để thấy được lối vào sau cú đột phá này. Cùng với phương pháp này
Tuệ Trung thượng sĩ cũng dùng nó để giải độc thiên chấp của người
hỏi qua công án.
- Một vị Tăng hỏi
Thượng sĩ:
- - Thế nào là
pháp thân trong sạch?
- Thượng Sĩ đáp:
- - Ra vào nước
đái trâu,
- Nghiền ngẫm
trong phân ngựa.
- Tăng hỏi:
- - Làm sao chứng
nhập được?
- Thượng Sĩ đáp:
- - Không có niệm
nhơ bẩn, đó là pháp thân trong sạch. Hãy nghe bài kệ của ta:
- Xưa nay
không sạch nhơ,
- Sạch nhơ là
tên giả.
- Pháp thân
không chướng ngại,
- Đục trong là
cái nào?
- Ở trên là dùng
phương pháp phủ định, còn ở đây cũng phương pháp này nhưng dùng
cách nghịch lý để phủ định vọng khởi phân biệt chấp vào pháp thân
trong sạch mà giải cái độc hại của vọng chấp. Chỉ cần không khởi
lên niệm nhơ bẩn thì đó chính là trong sạch là pháp thân. Ở đây rõ
ràng Thượng Sỹ dạy muốn vô sự thỉ phải vô niệm, vì "Tâm sanh các
pháp sanh, Tâm diệt các pháp diệt." Ở đây, chỉ cần tâm không khởi
phân biệt thì các pháp vô sự bình đẳng như-như; ngược lại thì trói
buộc ngăn cách sai biệt, trở thành đục trong tốt xấu, có không mâu
thuẫn lẫn nhau, cho nên Thạch Đầu đã trả lời một câu hỏi khi Đại
Điên hỏi.
- Đại Điên hỏi
Thạch Đầu:
- - Nói có nói
không cả hai đều đáng chê trách, xin thầy trừ cho.
- Thạch Đầu đáp:
- - Một vật cũng
không thì trừ cái gì?
- Thạch Đầu hỏi
lại:
- - Dẹp bỏ cổ
họng môi lưỡi, ngươi nói đi!
- Đại Điên thưa:
- - Không cái ấy.
- Thạch Đầu bảo:
- - Như thế nhà
ngươi được vào cửa.
- Căn cơ hai thầy trò
không ai hơn ai kém. Qua công án này, Đại Điên mặc dù biết rằng
nói có nói không cả hai đều sai lầm, nhưng ông vẫn ướm lời thử
thách cuộc chơi cùng Thạch Đầu. Ông xin Thạch Đầu trừ cho là trừ
cái gì, trong khi một vật cũng không.
- Đại Điên đã đụng phải
một tảng đá không sanh không diệt, không đến không đi, không
thường không đoạn, không một không khác, và ngược lại Thạch Đầu
sau khi đã trắc nghiệm lần cuối đối với Đại Điên, ông mới an tâm
chấp nhận cho người đồ đệ mình vào cửa Tổ, chỉ vì cái điên quá
quắt của ông ta trước cuộc tra vấn phi lý (đối với chúng ta);
Nhưng đối với căn cơ của ông là một hòa âm dung nhiếp không sai
biệt, để cho ông vượt qua. Cũng như cái vượt qua của Đại Điên một
ông tăng đã làm câm miệng thiền sư Triệu Châu khi ngài dạy chúng.
- Triệu Châu dạy
chúng:
- - Vừa có phải
quấy lăng xăng thì mất tâm. Ngài hỏi:
- - Có ai đáp
được lời này không?
- Có một vị Tăng
bước ra vỗ vai người thị giả một cái, và nói:
- - Sao không đáp
lời Hoà thượng?
- Triệu Châu liền
bỏ vào phương trượng.
- Một kẻ đã ăn trộm của
quí của Triệu Châu mà Triệu Chau không thể nào ngờ được, chỉ vì
ông ta đã thấy được chỗ cất dấu của Triệu Châu, sau cuộc thách đố
đã được đặt ra. Thế là Tâm của Triệu Châu đã bị vị Tăng nọ đoạt đi
một cách tài tình. Ở đây, có thể gọi vị Tăng nọ đã nhận thấy được
tâm mình trở lại, nhờ lão Triệu Châu hớ hênh dẫn lối. Lúc ấy, lão
Triệu Châu nếu không cảnh cáo: "Vừa có tâm phải quấy lăng xăng thì
mất tâm ,"có lẽ ngàn đời vị tăng này cũng mù tịt đường đi. Nhưng
tại sao vừa có phải quấy lăng xăng thì lại mất tâm? Thế các Thiền
sư không dùng phải quấy trong cuộc sống hay sao? Nếu các ngài có
dùng thì các ngài cũng mất tâm như chúng ta có khác nào đâu? Ở
đây, thiền sư Huệ Hải sẽ trả lời cho chúng ta về thắc mắc này nhân
có một vị pháp sư hỏi.
- "Có một vị pháp
sư thông tam tạng giáo điển đến hỏi Huệ Hải:
- - Chân như có
biến đổi không?
- Sư đáp:
- - Có biến đổi.
- Thưa:
- - Thiền sư lầm
rồí !
- Hỏi:
- - Đại đức có
chân như không?
- Thưa:
- - Có .
- Hỏi:
- - Nếu không
biến đổi thì quyết định Đại đức luôn luôn là phàm tăng, chẳng nghe
sao: "Thiện tri thức hay chuyển ba độc thành ba món tịnh giới;
chuyển sáu thức thành sáu thần thông; chuyển phiền não thành bồ
đề; chuyển vô minh thành đại trí chân như." Nếu không biến đổi thì
đại đức thật là ngoại đạo chủ trương tự nhiên vậy.
- Hỏi:
- - Nếu vậy thì
chân như có biến đổi.
- Đáp:
- - Nếu chấp nhận
chân như có biến đổi thì cũng là ngoại đạo.
- Hỏi:
- - Thiền sư vừa
nói chân như có biến đổi, giờ lại nói chân như không biến đổi, vậy
thế nào là đúng?
- Đáp:
- - Nếu người
thấy tánh rõ ràng thì như hạt châu ma ni hiện sắc bảo biến đổi
cũng được, bảo không biến đổi cũng được. Nếu người không thấy tánh
nghe nói chân như biến đổi bèn hiểu biến đổi, nghe nói không biến
đổi bèn hiểu không biến đổi.
- Pháp sư khen:
- - Nam tông
không thể lường được."
- Qua công án này, đã
quá rõ ràng cho chúng ta thấy rằng: Giữa người thấy Tánh (đã chứng
ngộ) và người chưa thấy tánh (còn mê) trong cách nhìn cách hiểu
khác nhau xa. Một đàng theo duyên khởi, một đàng theo hệ thống
nhân quả, do đó cuộc sống của các thiền sư luôn luôn trở nên tự
tại là vậy; không bị ràng buộc bất cứ điều gì vì họ sống với tâm
vô phân biệt, còn chúng ta luôn luôn bị lệ thuộc, bị trói buộc chỉ
vì chúng ta sống với tâm chấp trước phân biệt, và vì vậy cho nên
trong cuộc sống luôn có sự xung đột mâu thuẫn rắc rối không thông
suốt cả cuộc đời: Nào sống nào chết, từ đâu đến, sẽ đi đâu, có
không v.v... Trong khi đó chúng ta không thấy rằng mọi cưu mang
của chúng ta là hậu quả của vọng tâm phân biệt chấp trước theo
nhân quả; càng khởi vọng chấp càng làm cho tâm hồn càng mê mờ tăm
tối thêm, theo đó Thiền sư Viên Chiếu Việt Nam đã trả lời cho một
vị Tăng.
- "Tăng hỏi Viên
Chiếu:
- - Tất cả chúng
sanh từ đâu đến, trăm năm sẽ đi về đâu?
- Viên Chiếu đáp:
- - Rùa mù chui
vách đá,
- Trạnh què leo
núi cao."
- Rõ ràng là một cưu
mang dã tràng vô tích sự, do tâm vọng chấp phân biệt khởi lên rồi
lăng xăng tìm kiếm giải quyết suốt cả một đời, nhưng nào có thể
giải quyết được trong lúc đã tự vong thân. Ở đây Thượng Sỹ sẽ rõ
ràng hơn một tí, Ông khơi mở những sai lầm chạy rông tìm kiếm ở
bên ngoài của chúng ta.
- "Tăng hỏi Tuệ
Trung Thượng Sỹ:
- - Tôi vì sanh
tử việc lớn, vô thường nhanh chóng, song không biết thân này từ
đâu sanh ra, và chết sẽ đi về đâu ?
- Thượng Sỹ đáp:
- - Giữa trời dù
có đôi vành chuyển,
- Biển cả ngại gì
bọt cỏn con?"
- Nếu ai là người vô sự,
thì sẽ thấy được cái dung nhiếp vô ngại giữa thái hư không và mặt
trời mặt trăng, giữa bể khơi sóng nước mênh mông và những hòn bọt
cỏn con. Chúng có ngại nhau không? Chúng là một hay là khác? Khi
đã nhận ra rồi thì cần gì phải đặt vấn đề sống-chết, đi-đến làm gì
cho rắc rối lôi thôi? Cứ tùy duyên mà sống không khởi niệm phân
biệt, thì có gì chướng ngại nhau đâu Như thiền sư Trí Tạng đã trả
lời.
- "Có người thế
tục đến hỏi Trí Tạng:
- - Có thiên
đường địa ngục không?
- Sư đáp:
- - Có .
- Hỏi:
- - Có Phật pháp
tăng tam bảo không?
- Sư đáp:
- - Có:
- Người này hỏi
nhiều vấn đề nữa, Sư đều đáp có.
- Người ấy thưa:
- - Hòa thượng
nói thế e lầm chăng?
- Sư lại hỏi:
- - Ông đã hỏi
một vị tôn túc nào mới đến đây phải không?
- Đáp:
- - Con đã hỏi
Hòa thượng Cảnh Sơn.
- Sư hỏi:
- - Hòa thượng
Cảnh Sơn nói với ông thế nào?
- Đáp:
- - Ngài nói tất
cả đều không.
- Sư hỏi:
- - Ông có vợ
không?
- Đáp:
- - Có .
- Sư hỏi Hòa
thượng Cảnh Sơn có vợ không?
- Đáp:
- - Không.
- Sư bảo:
- - Hòa thượng
Cảnh Sơn đáp không là phải. Người này lễ tạ lui ra."
- Ở đây, sự vô ngại của
thiền sư giữa có và không, hiện ra qua cách xử trí trong cuộc
sống, vì chúng chẳng là gì cả đối với luật tắc duyên khởi. Trong
khi cũng cái nhìn đó, chúng ta lại rối bời xung đột trói chặt gỡ
không ra. Không có gì sai khác và mâu thuẫn nhau về sự vật cả, mà
chỉ khác nhau trong cái nhìn của chúng ta và thiền sư về sự vật mà
thôi. Chúng ta hãy theo dõi cuộc đối thoại giữa thiền sư Đại An và
một vị tăng.
- "Có vị Tăng hỏi
Đại An:
- - Tất cả mọi
thi vi là dụng của pháp thân, thế nào là pháp thân?
- Sư đáp:
- - Tất cả mọi
thi vi là dụng của pháp thân.
- Hỏi:
- - Lìa Năm Uẩn,
thế nào là thân xưa nay?
- Đáp:
- - Đất nước gió
lửa, thọ tưởng hành thức.
- Hỏi:
- - Cái ấy là Năm
Uẩn !
- Đáp:
- - Cái ấy là Năm
Uẩn.
- Cùng một cái thấy,
nhưng đối với phàm phu cái thấy trở thành hai: Người thấy và đối
tượng bị thấy, từ đó đẻ ra mọi sai biệt ngăn cách. Cũng cái thấy
ấy, thì Thiền sư thấy như thật chính nó không phân hai. Bỡi vậy,
đối với chúng ta, các Thiền sư tùy căn bệnh chấp thủ mà cho thuốc
mở trói trong lúc hành xử, chứ không có bất cứ phương pháp nào lập
đi lập lại nhất định trong lúc dạy người. Nói thế, nhưng chúng
không vượt ra ngoài mục đích tối hậu là đập tan cái vọng tâm phân
biệt chấp trước về NGÃ-PHÁP của chúng ta, để mở cho chúng ta một
con đường tự tại trong bước đi, cũng như trong cách nhìn đảo
nghịch đối với thói quen tập quán nhân quả. Chúng ta hãy xem cách
đảo nghịch cái nhìn cái nghĩ thông thường đã ăn sâu vào máu thịt
xương tuỷ qua nghiệp nhân và nghiệp quả của chúng ta như Huệ Lãng
đã làm.
- "Khi Huệ Lãng
đến viếng Mã Tổ, Tổ hỏi:
- - Ông tìm gì ở
đây?
- Huệ Lãng đáp:
- - Tri kiến
Phật.
- Mã Tổ nói:
- - Phật chẳng có
tri kiến nào như thế cả! nó là của ma vương."
- Đó là một thói quen
tập quán sai lầm tìm Phật ở bên ngoài; cũng từ đó mà chúng sanh
gánh Phật mình đến tìm Phật nhà người, luôn luôn tha hóa vong
thân, bỏ quên Phật chính mình. Ngay cả ông Phật chính mìmh mà chấp
vào đó để cầu cũng bị các ngài phủ nhận như thiền sư Cảm Thành
Việt nam đã dạy nhân có một vị Tăng hỏi:
- "Thiện Hội hỏi
Cảm Thành:
- - Tại sao trong
kinh nói: "Đức Phật Thích Ca phải trải qua vô số kiếp tu hành mới
thành Phật, mà nay thầy dạy: ' Tức tâm tức Phật' ? thì Cảm Thành
bảo:
- - Ai nói trong
kinh?
- Thiện Hội thưa:
- - Không phải
Phật nói sao?
- Cảm Thành bảo:
- - Nếu là Phật
nói, sao trong kinh Văn Thù lại nói:"Ta trụ bốn mươi chín năm ở
đời, chưa từng nói một lời nào"? và cổ đức nói:"Người nào tìm nơi
văn tự, chấp vào chỗ chứng càng thêm trệ; khổ hạnh cầu Phật là mê,
lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo; chấp tâm cầu Phật là ma." Như vậy,
cái gì là Phật cái gì chẳng phải là Phật?
- Ngay cả đức Phật trong
kinh Văn Thù hay kinh Lăng Già Ngài cũng phủ nhận đảo nghịch lời
dạy của mình. Tại sao vậy? phải chăng với mục đích phá bỏ mọi lệ
thuộc trói buộc bên ngoài đối với chúng ta trên con đường thực
hiện giải thoát. Cùng ý này các vị cổ đức tiền bối cũng đảo nghịch
phủ nhận mọi việc làm sai lầm về khổ hạnh cầu Phật, lìa tâm cầu
Phật, chấp tâm cầu Phật, chấp vào chỗ chứng, và kiếm tầm chơn lý
nơi văn tự. Tất cả những thứ đó đều phát xuất từ vọng tâm phân
biệt chấp trước sai lầm mà ra cả. Đó là việc làm của ma chứ không
phải việc làm của người thực hành giải thoát. Muốn giải thoát thật
sự thì buộc phải phá bỏ mọi định kiến sai lầm của thế gian, cho dù
những định kiến đó tốt đối với luật tắc nhân quả, và vấn đề tội
phước cũng được đặt trở lại khi thiền sư Thông Thiền Việt Nam trả
lời cho người đệ tử về tội phước.
- "Tức Lự dâng
con chim Mãi quỳ cho Thông Thiền, Thông Thiền bảo:
- - Nhà ngươi làm
Tăng sao phạm tội sát sinh? làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?
- Tức Lự thưa:
- - Khi ấy chính
con không thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng
chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm thế này !
- Thông Thiền
biết Tức Lự là pháp khí nên cho vào thất, mật truyền tâm ấn rằng:
- - Ngươi nếu
dụng đến chỗ ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất giá cũng được
thành Phật. Bấy giờ, có một vị Tăng ở bên cạnh trộm nghe lời này,
liền kêu to lên rằng:
- - Khổ thay! dù
có việc như thế tôi cũng không nhận.
- Thông Thiền vội
lên tiếng bảo:
- - Trộm! trộm!
Đâu nên, phi nhơn sẽ gặp cơ hội tốt. Tức Lự nghe câu này chợt lãnh
ngộ.
- Ở đây, chỉ có những kẻ
ngang cơ với nhau nghe ra mới khế hợp và vô sự. Trường hợp một vị
Tăng nghe lén, cũng chỉ vì căn cơ thấp kém nên nghe ra trở thành
trái nghịch, và tiếp theo đó có điều kiện đặt ra theo lập trường
nhơn quả. Đó chính là kiến giải của mọi phàm nhân trong cuộc sống,
mà nó không chừa bất cứ một ai, ngay cả vua chúa, hoàng hậu cho
đến quan dân đều không thoát khỏi cái nghiệp thức của họ. Tuệ
Trung Thượng Sỹ sẽ giải thích điều này nhân vua Trần nhân Tông hỏi
về tội-phước cho ta thấy.
- "Vua Trần Nhân
Tông hỏi Tuệ Trung:
- - Bạch Thượng
Sỹ, chúng sanh quen cái nghiệp ăn thịt uống rượu thì làm sao thoát
khỏi tội báo?
- Tuệ Trung đáp:
- - Nếu có người
đang đứng xây lưng lại, thình lình có vua đi ngang qua sau lưng;
người này không biết cầm một vật ném nhằm vua. Thử hỏi người ấy có
sợ không? Ông vua có giận không? Nên biết hai việc này không dính
líu gì với nhau, rồi ông đọc một bài kệ cho vua nghe:
- - Muôn pháp
đều vô thường,
- Tâm ngờ tội
liền sanh.
- Xưa nay
không một vật,
- Không hạt
không mần xanh.
- Vua Nhân Tông
hỏi tiếp:
- - Như vậy thì
công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng để làm gì?
- Tuệ Trung cười không đáp, nhưng
nhà vua cố nài cho nên Tuệ Trung đọc bài kệ sau đây:
- - Trì giới
và nhẫn nhục,
- Thêm tội
chẳng thêm phước.
- Muốn siêu
việt tội phước,
- Đừng trì
giới nhẫn nhục.
- Như người
muốn leo cây,
- Đương yên tự
chuốc nguy.
- Nếu đừng leo
cây nữa,
- Trăng gió
làm được gì?"
- Qua thí dụ và hai bài
kệ của Tuệ Trung Thượng Sỹ đã giải tỏa tất cả những sở đắc có được
về tội-phước theo luật nhân-quả do chính con người chấp vào để
buộc mình với sanh tử luân hồi. Đúng là chúng ta đang yên mà tự
mình chuốc nguy, nếu không khởi tâm phân biệt thì ai làm gì được
ai trong cuộc sống vô sự của mỗi người. Đó là một cách sống khôn
ngoan để giải thoát tất cả mọi khổ đau, do tự vọng tâm điên đảo
phân biệt chấp thủ của mỗi chúng ta gây ra. Để chúng ta có một ý
niệm về giải thoát, chúng tôi xin trích dẫn lời dạy củ Huệ Trung
quốc sư khi có người hỏi về vấn đề này.
- "Có người hỏi
Huệ Trung quốc sư:
- - Thế nào là
giải thoát?
- Huệ Trung đáp:
- - Các pháp
không trói buộc nhau, ngay lúc đó là giải thoát.
- Lại hỏi:
- - Làm sao đoạn
được?
- Huệ Trung đáp:
- - Đã bảo với
ông là các pháp không trói buộc nhau thì đoạn cái gì?"
- Đã quá rõ ràng cho
chúng ta một ý niệm về từ giải thoát. Nhưng ở đây, chúng ta muốn
hoàn toàn giải thoát, nghĩa là muốn giải thoát rốt ráo, thì phải
từ tri kiến giải thoát chúng ta kinh qua kinh nghiệm chính nó một
cách rõ ràng như một vật ở trên bàn tay, từ đó giải thoát luôn cái
tri kiến giải thoát đó nữa. Ở đây chúng ta muốn giải thoát thật sự
thì phải buông tay tất cả để nhảy vào cuộc sống, không còn giữ vào
người bất cứ một vật gì, cho dù đó chỉ là một ý niệm về giải
thoát. Khi nào chúng ta còn tự trói buộc chúng ta trong lệ thuộc
thì lúc đó chưa phải là giải thoát. Như thiền sư Thạch Đầu đã nói
một cách cụ thể hơn.
- "Có vị Tăng hỏi
Hy Thiên Thạch Đầu:
- - Thế nào là
giải thoát?
- Thạch Đầu đáp:
- - Ai buộc
ngươí!
- Lại hỏi:
- - Thế nào là
Tịnh độ?
- Thạch Đầu đáp:
- - Cái gì làm
nhơ ngươí!
- Lại hỏi:
- - Thế nào là
Niết bàn?
- Thạch Đầu đáp:
- - Ai đem sanh
tử đến cho ngươí?!"
- Một cách hỏi nghịch
lại để cho người hỏi tự trả lời, và tự đả thông cho chính mình. Vì
tất cả mọi câu hỏi đều phát xuất từ vọng tâm phân biệt của mỗi
chúng ta, thì cũng phải tự chính tâm mình trả lời chính nó. Tự
mình khởi tâm trói buộc thì cũng phải tự mình mở trói cho chính
mình, nếu chúng ta không tự mở trói, không tự giải thoát mọi ràng
buộc lệ thuộc chung quanh từ bên trong cũng như bên ngoài, thì
ngàn đời chúng ta vẫn lặng hụp trong biển khổ sanh tử luân hồi
không cách chi giải thoát được! Cũng vì vậy cho nên các thiền sư
trong pháp dạy người, luôn luôn tuỳ thuộc vào các căn cơ cùng chỗ
bị trói của người học trò để chỉ cho họ tự mở, nếu họ muốn vào nhà
Tổ; hoặc buộc họ trước khi nhảy vào hố thẳm, thì phải buông tất
cả. Đó là phương pháp hướng dẫn người nhảy vào cuộc sống chính
mình mà tìm lại Bản lai diện mục; nếu không như vậy thì không còn
cách nào để đi vào được nữa.
- Cũng bằng phương pháp
này, các ngài luôn luôn dùng nó để trắc nghiệm tâm linh cho người
đệ tử, và từ đó biết tâm linh người đệ tử tiến đến đâu; hoặc đôi
khi các ngài thử nhau chơi trong lúc gặp nhau.
- "Một hôm Trí
Tạng, Hoài Hải cùng Phổ Nguyện hầu Mã Tổ xem trăng, Mã Tổ hỏi:
- - Ngay bây giờ
nên làm gì?
- Trí Tạng thưa:
- - Nên cúng
dường.
- Hoài Hải thưa:
- - Nên tu hành.
- Còn Phổ Nguyện
thì phủi áo ra đi.
- Mã Tổ bảo:
- - Kinh vào
Tạng, thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật."
- Đây là cuộc trắc
nghiệm tâm linh của Mã Tổ dành cho ba người đồ đệ của ông. Qua đây
trình độ căn cơ của ba người tự lộ diện. Trí Tạng và Hoài Hải còn
bị kẹt, chỉ có Phổ Nguyện mới vượt qua cuộc trắc nghiệm này, và là
người thừa kế Tổ đăng, vì ông ta đã thể hiện được nếp sống vô sự
trong cuộc chơi. Cũng cách thí nghiệm cuộc chơi này Nam Tuyền đã
đem áp dụng cho bọn học trò mình nhân cuộc thẩm vấn.
- "Đặng Ẩn Phong
đến chỗ Nam Tuyền thấy Tăng chúng đang thẩm vấn. Nam Tuyền chỉ
tịnh bình bảo:
- - Bình đồng là
cảnh, trong bình có nước; chẳng được động đến cảnh, hãy đem nước
đến cho lão Tăng.
- Đặng Ẩn Phong
nhân đây cầm tịnh bình đến trước mặt Nam Tuyền đổ nước ra. Nam
Tuyền bèn thôi."
- Ơ۠ đây, nếu
không nhờ Đặng Ẩn Phong, thì có lẽ tất cả chúng dưới trướng của
Nam Tuyền bị hèo của ông ta hết thảy. Vấn đề ù ù cạt cạt của mọi
người vì bị bế tắt do vọng chấp phân biệt làm cho họ bị kẹt thì
chúng ta không nói. Nhưng chỗ thoát của lảo Đặng ở chỗ nào mà đã
khiến cho Nam Tuyền chấp nhận im hơi? Nếu chúng ta lanh mắt một tí
thì sẽ thấy được chỗ vượt cách của họ Đặng sau cái nhìn vô phân
biệt của chúng ta, còn không thì chúng ta cũng như những người
dưới trướng của nam Tuyền mà thôi, và theo đây Qui Tông Trí Thường
sẽ làm rõ nét hơn về tư tưởng này, qua công án khi ông dạy chúng.
- "Qui Tông Trí
Thường vào vườn hái rau, bèn vẽ một vòng tròn quanh bụi rau và bảo
chúng:
- - ' Không được
động đến cái này'.
- Toàn chúng
không dám động đến, sau đó không lâu Qui Tông Trí Thường xem lại
bụi rau, thấy vẫn còn nguyên. Trí Thường cầm gậy đuổi chúng Tăng
và bảo:
- - ' Cả bọn mà
không có đến một người trí tuệ!"
- Tại sao Qui Tông Trí
Thường bảo chúng không có người trí tuệ? Thật sự ở đây, nếu có
người có trí tuệ thì cái vòng tròn được vẽ ra kia với lệnh truyền
không được động đến đã được xóa bỏ rồi. Huống chi toàn cảnh được
bày ra cho cuộc thử thách, song vẫn không người vượt cách, rốt
cuộc đâu vẫn còn đó. Một không khí lệ thuộc nghiêm túc được thể
hiện như thường nhật, chứng tỏ mọi người vẫn ngủ mê trong vòng tay
nô lệ kinh khiếp, họ đã đánh mất họ rồi! Thế Qui Tông Trí Thường
không cầm gậy rượt đuổi sao được?
- Cũng vậy, bây giờ đến
lượt Bách Trượng thử trắc nghiệm người, nhân khi chọn người trú
trì Qui sơn. Lẽ ra Bách Trượng hoàn toàn trọn quyền trong việc
này, nhưng vì để làm sáng tỏ trình độ căn cơ của người được chọn
đi, nên Bách Trượng phải giở trò bê bối lôi thôi, để làm câm họng
những kẻ tầm thường luôn luôn sống trong lệ thuộc.
- "Hoa Lâm khi
nghe Bách Trượng giao chức trú trì Qui Sơn cho Linh Hựu đến thưa:
- - Con là thượng
thủ , tại sao Linh Hựu được chức trú trì?
- Bách Trượng
bảo:
- - Ngay trong
chúng này, nếu ai nói được một câu vượt cách, thì ta sẽ cho đi trú
trì. Bách Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:
- - Chẳng được
kêu là tịnh bình, vậy nhà ngươi kêu là gì ?
- Hoa lâm thưa:
- - Không thể kêu
là cây lủng được!
- Bách Trượng lại
hỏi Linh Hựu:
- - Linh Hựu đạp
đổ tịnh bình ra đi.
- Bách Trượng
cười bảo:
- - Đệ nhất tòa
bị núi này quật ngã!"
- Bách Trượng tuy nói
thế, nhưng thật ra không phải Linh Hựu quật ngã Hoa Lâm đâu, mà
chính Hoa Lâm đã tự quật ngã mình, vì những vướng bận của vọng tâm
phân biệt dành dựt quyền hành địa vị, và đã bị chính nó kéo Hoa
Lâm nhào xuống. Ở đây, cái té ngã của Hoa Lâm quá rõ ràng, khi mà
cái té ngã của Hoa Lâm càng nặng bao nhiêu thì cái vượt cách của
Linh Hựu càng hiển bày rõ nét bấy nhiêu. Hoa Lâm vì nặng về chức
vị trú trì cho nên theo đó, nó đã cột trói ông vào cái tịnh
bình,thành thử không thể nào thoát khỏi được. Trong khi đó, Linh
Hựu như là một kẻ vô tư lự không cần chức vị, do đó tịnh bình nào
có thể trói buộc được bước chân phiêu bồng buông xả của ông. Cũng
như một thiêsư Việt Nam bị học trò buộc ông ta vào trò chơi ngôn
ngữ tri thúc, nhưng ông như một con lươn luôn luôn vượt khỏi những
chiếc vòng mà người học trò giăng ra một cách tài tình tự tại.
- "Một vị Tăng
hỏi Ngộ Ấn:
- - Thế nào là
đại đạo?
- Sư đáp:
- - Đường lớn.
- Vị Tăng thưa:
- - Kẻ học đạo
này hỏi đại đạo, mà thầy đáp là đường lớn, vậy không hiểu ngày nào
đạt đại đạo?
- Sư đáp:
- - Con mèo con
chưa biết bắt chuột.
- Tăng thưa:
- - Mèo có Phật
tánh không?
- Sư đáp:
- - Không.
- Tăng thưa:
- - Thầy có Phật
tánh không?
- Sư đáp:
- - Không.
- Tăng liền hỏi:
- - Hết thảy hàm
linh đều có Phật tánh, sao riêng Hoà thượng lại không?
- Sư đáp:
- - Ta không phải
hàm linh.
- Tăng thưa:
- - Đã không phải
hàm linh, vậy có phải là Phật không?
- Sư đáp:
- - Ta không phải
là Phật, cũng không phải hàm linh."
- Ở đây, nếu không phải
là người đạt đạo thì đã bị vị Tăng đưa vào bẩy, và bị kẹt như tất
cả mọi người bình thường rồi. Vậy cái vượt cách ở chỗ nào? trong
khi Ngộ Ấn vẫn trả lời những câu hỏi dồn dập bắt bí một cách thông
suốt, và cuối cùng người học trò phải tự mình chẹn họng chính mình
không mở lời được nữa.
- Từ những trích dẫn ở
trên, qua đó chúng ta có thể thấy được pháp dạy người của các vị
lão sư tiền bối là một phương pháp không phương pháp. Vì chúng
được thể hiện tuỳ theo đối tượng căn cơ, hoàn cảnh xã hội; theo đó
tuỳ theo chỗ trói của người đồ đệ mà mở một cách thực tiễn, chứ
không có tánh cách trù định trước, hay có sự sắp xếp để trở thành
một quá trình học tập Thiền. Những pháp này luôn luôn được áp dụng
một cách thực tiễn từ chính dòng sống của môn nhân, chứ không có
gì là trừu tượng. Mục đích tối hậu là giải thoát tất cả mọi trói
buộc nếu có nơi người đối thoại để tiến đến bước đi tự tại cuối
cùng, người thầy luôn luôn tuỳ theo căn bệnh từng người mà cho
thuốc. Thầy sẽ bẻ gãy tất cả mọi thứ vọng tâm phân biệt chấp trước
được thể hiện ra bên ngoài của môn nhân, trong từng cử chỉ, trong
từng lời nói. Từ đó tạo cho người môn đệ một trạng thái tâm lý cực
kỳ căng thẳng thôi thúc từ những bối rối tương phản như chừng phi
lý, khởi lên bất chợt nơi người môn đệ lần đầu tiên, và cũng từ đó
sẽ quyết định hướng đi mới cho hành giả. Đó là phương pháp dạy
người của các thiền sư. Pháp này được thiền sư Lâm tế tóm gọn vào
trong TỨ LIỆU GIẢN của Ngài, qua đó NHÂN-CẢNH tuỳ theo thực tế đối
tượng sống mà có lúc đoạt Nhân kông đoạt Cảnh, có lúc đoạt Cảnh
không đoạt Nhân, hay có lúc Nhân-Cảnh đều bị đoạt, va cho đến khi
thực tại vẫn là thực tại trong cuộc sống vô phân biệt, được thể
hiện, thì NHÂN-CẢNH không bị đoạt. Vấn đề cuối cùng này chúng tôi
sẽ đề cập đến chúng trong chương kế tiếp một cách đầy đủ hơn.
---o0o---
|
|