Vài Suy Nghĩ Về Thiền
Tông Việt Nam
- Trần Hồng Liên
- --o0o--
-
- I- Trong tiến
trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, điều mọi người thừa nhận
và khẳng định đó là tính chất dân tộc của Phật giáo. Từ ngay trong
bản thân Phật giáo, tính tùy thuận đã có. Tùy vùng đất, tùy địa
phương, tùy dân tộc mà có sự biến đổi. Tính mềm dẻo, dễ dàng dung
hợp với mọi hoàn cảnh đã là một trong những yếu tố nội sinh góp
phần làm cho Phật giáo Việt Nam có được những đặc điểm riêng.
- Trải qua các
triều đại, đạo Phật đều thể hiện nét riêng biệt đặc thù và cả
trong ba yếu tố cấu thành của Phật giáo Việt Nam là Thiền tông,
Tịnh độ và Mật tông cũng tuy từng thời điểm khác nhau mà thể hiện
yếu tố này nhiều hay ít hơn yếu tố khác. Từ đó cũng có thể cho
rằng con người và hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng có thể cho
rằng con người và hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng là một trong
những nhân tố quan trọng góp phần quy định bản chất của Phật giáo
Việt Nam. Trong lịch sử tuy rằng có những giai đoạn phát triển rực
rỡ của Phật giáo, trong đó có yếu tố Mật tông vượt lên trên, với
nhà sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh.... nhưng phải thừa nhận rằng trong
suốt tiến trình lịch sử, Thiền tông vẫn là yếu tố, là giòng phái
chủ đạo mang tính bao trùm, và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi hoạt
động của Phật giáo Việt Nam.
- II- Khi đề cập
đến các thiền sư đời Trần và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ai cũng
thừa nhận đó là một trong những Thiền phái tiêu biển cho Phật giáo
Việt Nam và Thiền tông. Do đâu triều đại này có được những mặt
tích cực đó ? Tìm hiểu điều này cũng có nghĩa là nêu lên những đặc
điểm của Thiền tông Việt Nam.
- - Tính vô ngã,
vị tha: Đây là một trong những tính chất mang tính tiêu biểu của
Phật giáo, là mục đích nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân, là
phương tiện chi phối mọi hoạt động. Vô ngã và vị tha là hai yếu tố
có quan hệ chặt chẽ với nhau, tùy thuộc vào nhau. Khi bản ngã còn
thì không có được vị tha trọn vẹn. Ở những triều đại khác, nơi mỗi
nhà tu hành, ít nhiều cũng có hai yếu tố này, nhưng đặc biệt đối
với triều đại nhà Trần, là giai đoạn có sự thử thách cao, đối đầu
với xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, nên để đạt được mục tiêu
chung, nhằm giữ gìn nền độc lập cho xứ sở, tính chất này càng được
bộc lộ mạnh mẽ. Những đố kỵ, hiềm khích, ghen ghét nhau trong vua
tôi tạm thời được gác lại, để tập trung vào mục tiêu chung, thì
trong các Thiền sư, tính chất vô ngã, vị tha càng được thể hiện rõ
nét qua câu nói của nhà sư trụ trì trên dãy Yên Tử (Quốc sư Trúc
Lâm hay Phù Vân) khuyên vua Trần Thái Tông : "Phàm là đấng làm vua
cai trị muôn dân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của
mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình".
- - Tinh thần
nhập thế: Có "tâm vô ngã" thiền sư mới hòa mình trọn vẹn vào cuộc
đời, không còn cái tôi nên không còn phân biệt hình tướng đạo đời,
mới sống an nhiên, tự tại không thấy mình là nhà tu, là khác đời,
và vì vậy mà không tạo thế xa cách. Tuệ Trung là một người đạo
cao, đức trọng, được vua Thánh Tông khâm phục gọi là Thượng Sĩ
(tức là Bồ Tát), khi hay tin giặc Nguyên xâm lược, ông rời khỏi
thiền lâm ra trận. Vua Nhân Tông sau khi đổi pháp hiệu là Trúc Lâm
đã đi "vân du, hành đạo" không còn mang tư tưởng mình là một vị
vua cai trị muôn dân, ông đã thoát bỏ dễ dàng cái ta, đạt được
tinh thần vô ngã nên mới có hành động vị tha, đi vào dân để kêu
gọi hành thập thiện. Do vậy, nhập thế vào đời, điều kiện trước hết
đòi hỏi ở người hành đạo, ở một thiền sư, là phải có tinh thần vô
ngã, vị tha. Càng thể hiện trọn vẹn tinh thần này thì hành động
càng mang lại lợi ích thiết thực. Tinh thần này còn được thể hiện
qua cái nhìn và việc đánh giá cao về con người và vai trò của Tuệ
Trung. Dưới con mắt của nhà Thiền, Tuệ Trunng được đưa lên tầm cao
và được phá bỏ những dị biệt về hình tướng, không còn xét xem đó
là một tu sĩ hay cư sĩ, là người đạo hay kẻ đời.
- Như vậy, một
triều đại có được tư tưởng thiền tông xuyên suốt, biết vận dụng nó
làm kim chỉ nam cho mọi tư tưởng và hành động của mình, như triều
Trần, nên đã tạo cho Phật giáo đời Trần một thời kỳ rực rỡ trong
lịch sử, thể hiện cao tinh thàn dân tộc, ở đó tính chất nhập thế
được xem là giáo lý căn bản, dùng nó làm nền tảng cho đạo đức xã
hội, xây dựng một hệ thống giáo hội mới và hệ thống kinh sách mới,
không lệ thuộc và chịu ảnh hưởng nặng nề của Phật giáo từ Ấn Độ
cũng như từ Trung Quốc.
- Khi có ngoại
xâm, các thiền sư đã "cởi áo cà sa khoác chiến bào". Hành động đó
phát xuất từ tấm lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn của những người con
Phật, nhưng không chỉ có thế. Ở đây, xuyên suốt giòng lịch sử phát
triển của dân tộc, cũng là lịch sử tranh đấu không ngừng với ngoại
xâm, đã un đúc trong những con người Việt một tinh thần yêu nước
nồng nàn, đã kết tinh thành truyền thống và trải qua các thời đại,
tinh thần này càng phát triển.
- Những vị vua nhà Trần cũng đồng
thời là những thiền sư đã thể hiện được sự kế thừa, tiếp thu đạo
Phật một cách chọn lọc và sáng tạo, đã bằng những hành động của
mình, khơi sáng đem lại cho Phật giáo một sức sống thực sự, làm
cho đạo Phật bị trở thành giáo điều, khô cứng. Qua các thiền sư
đời Trần, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, đã tồn tại trong lòng dân
tộc. Ở các thiền sư đời Trần, thiền lý và thiền hành đã nhập làm
một, không phân biệt, chỉ còn lại Trí Huệ Bát Nhã, dùng nó bằng
nhiều hình thức khác nhau, bằng mọi phương cách khác nhau, để phục
vụ nhân sinh.
- Trong Phật giáo
Trúc Lâm không phải là hình ảnh những thiền sư ngồi yên lặng tham
thiền nhập định, bởi vì xét cho cùng, đó cũng chỉ là một công
đoạn, một phương tiện, tạo điều kiện cho những người tu hành thiền
bước đầu đi vào con đường nhận chân thực tánh, chứ chưa phải là
phương cách thể hiện thiền. Và nói theo ngôn ngữ của vị tổ sư
thiền nổi tiếng Bồ Đề Đạt Ma thì "đối với tôi, chỉ đạt đến thiền
khi ta được Phật tánh của chính mình...". Sự kiến tánh cũng giống
như đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế, người ta không bao giờ
lý thuyết viển vông chung quanh sự nuốt đồ ăn ấy, ta biết nuốt hay
không biết nuốt, chỉ có thế thôi !
- Như vậy, thấy được Phật tánh, đã
giác ngộ, không còn xem nặng cái ta vị kỷ nhỏ nhen, mà tấm lòng,
tình thương đã đặt trọn vẹn vào tha nhân, thì mọi hành động hoàn
toàn vì dân, vì nước, phải chăng cũng chính là hình ảnh thể hiện
tinh thần của một con người đạt được đạo thiền và hành thiền ?
- III- Kế thừa sự
nghiệp nổi bật này, tinh thần nhập thế và tư tưởng thiền Trúc Lâm
cũng được thể hiện lại mạnh mẽ, rõ ràng và cụ thể hơn qua sự xuất
hiện của một đạo giáo : Bửu Sư Kỳ Hương tại vùng đồng bằng sông
Cửu Long, vùng đất cuối cùng của tổ quốc, nơi chứa đựng những tinh
hoa của nhiều thế hệ, của nhiều luồng văn hóa, văn minh thế giới.
Với Bửu Sơn Kỳ Hương, một lần nữa, thiền tông Việt Nam được nổi rõ
những đặc điểm của mình. Tinh thần nhập thế, đưa đạo Phật đi vào
cuộc đời, hành động và áp dụng giáo lý Phật giáo là vì con người
và cho con người, nên trước hết cần thực hiện bốn trọng ân (ân tổ
tiên cha mẹ, ân tổ quốc, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại).
Đây cũng là sự kế thừa có sáng tạo cho phù hợp với con người, thời
đại và vùng đất đai tại đây. Đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương, với tinh
thần thiền tông Việt Nam, đã hòa vào cuộc đời sâu xa và cụ thể đến
mức không còn phân biệt hình tướng, là tu sĩ hay cư sĩ, đã trở về
với cội nguồn dân tộc, qua truyền thống yêu nước, qua trang phục,
vốn là những chiếc bà ba màu đà, màu của ruộng đồng phù sa Nam Bộ,
qua búi tóc, qua các hình thức thờ phụng gần gũi với tín ngưỡng cổ
truyền của dân tộc là thờ cúng tổ tiên.
- Gần đây hơn,
thế kỷ XIX, danh nho Trịnh Hoài Đức còn lưu lại bài thơ thiền tặng
Hòa thượng Viên Quang (trụ trì đầu tiên của tổ đình Giác Lâm). Bài
thơ nổi tiếng ấy có hai câu thơ kết nói lên tinh thần thiền của
một danh hào, là hiệp tổng trấn Gia Định thành : "Vãng sư hà túc
luận, đại đạo hợp như thị" (Chuyện xưa nói làm gì, đạo lớn thảy
như vậy). Đạo lớn thảy như vậy, là an nhiên mà hòa nhập được vào
đời. Đạo lớn thảy như vậy là đều phải sinh hóa theo cái đạo của
dòng đời vô cùng vô tận (2). Tinh thần này cũng là tinh thần của
thiền tông Việt Nam.
- Còn nữa, hình
ảnh này của Thiện Chiếu và câu nói : "Phật Pháp thị nhập thế nhi
phi yếm thế, từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh", và hành động
của Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để đấu tranh cho Đạo pháp
và dân tộc là những hình ảnh đã đi vào lịch sử Phật giáo của thiền
tông Việt Nam.
- IV- Tóm lại là
một trong những thiền phái tiêu biểu cho thiền tông Việt Nam,
những thiền sư của phái Trúc Lâm cũng như những thiền sư khác của
Việt Nam đều đã thể hiện chất thiền của mình qua hành động :
"Thiền là hành động" là một trong những đặc điểm của thiền tông
Việt Nam. Vận dụng, tiếp thu, kế thừa có sáng tạo, đạo Phật Bửu
Sơn Kỳ Hương cũng đã đi vào lòng dân, không còn tổ chức giáo hội,
mỗi người đã trở thành một "thiền sư", một người hành thiền ngay
trong cuộc sống của chính mình. Tính chất hòa nhập vào cuộc đời,
đã làm cho thiên tông Việt Nam mang nét riêng biệt, đặc thù, trở
thành một lối sống.
- Ngày nay tinh
thần thiền tông Việt Nam càng bàng bạc trong mỗi người mang tấm
lòng vì dân vì nước, quyết cống hiến, hy sinh trọn cuộc đời mình
cho sự nghiệp cao cả, cho hạnh phúc của toàn dân và vì độc lập của
tổ quốc. Có quá đang hay không khi cho rằng đấy cũng chính là
những "thiền sư" tiếp nối vẻ vang tinh thần Việt Nam trong lịch
sử.
-
Ghi chú
- (1) Phạm Công
Thiện: Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma,
- (2) Cao Tự
Thanh: Về Bài Thơ của Trịnh Hoài Đức, Tập san Phật Đản PL 2536.
- Trích từ Tuệ
Trung Thượng Sĩ với Thiền Tông Việt Nam.
-
-
---o0o---
|