|
-
Thiền & Tịnh Độ
-
Trong Mạch Sống Việt Nam
- T.
K. Ta Bà Ha
-
--o0o--
-
- Vâng! Đây là sự
thật chứ không phải chuyện đùa, bởi lâu nay ai cũng nghĩ rằng hễ
Thiền thì không có Tịnh, và Thiền tông lúc nào cũng không chấp
nhận sự hiện diện của Phật A Di Đà trong tâm thức hành giả.
- Ở đây chúng tôi
không dám luận bàn về tôn chỉ của hai phái, chỉ cung cấp một vài
cứ liệu minh chứng cho sự hiện diện đó trong thực tế lịch sử.
- Cứ liệu thứ 1:
Tam pháp ấn của Thiền phái Trúc Lâm
- Ai cũng biết
Phật giáo Việt Nam rực rỡ ở thời kỳ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Một tư tưởng Thiền học đặc thù và tiêu biểu cho dòng Thiền Việt
Nam gắn bó với dân gian, tinh thần dân tộc, ý thức bảo vệ đất
nước, phóng khoáng trong tư tưởng qua hành trạng của Trúc Lâm Tam
Tổ : Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.
- Điểm nổi bật
của Thiền phái Trúc Lâm là "Phật pháp bất ly thế gian giác", tổng
hợp được vạn pháp qui tâm nên dung hợp được cả ba pháp môn Thiền -
Mật - Tịnh làm tôn chỉ trong đời sống Thiền gia.
- Để dẫn chứng,
chúng ta có thể thấy cách thờ cúng ở tất cả các chùa mang dấu tích
của Thiền Trúc Lâm ở miền Bắc đều có thờ Tam thế Phật (Thích Ca -
Di Đà - Di Lặc) biểu tượng của Tịnh Độ, có thờ Quan Âm thiên thủ
thiên nhãn (hóa thân Chuẩn Đề) biểu tượng của Mật Tông, và khi gặp
nhau trong mọi hoàn cảnh, câu Nam mô A Di Đà Phật là đầu cửa miệng
lúc hào hỏi, là truyền thống xưa nay của nhân dân miền Bắc khi gặp
nhau ở cửa chùa.
- Cứ liệu thứ 2:
Thiền Sư Chuyết Công với tượng Di Đà, chùa Phật Tích, Bắc Ninh.
- Thiền Sư Chuyết
Công (1590 - 1644) người Phúc Kiến, là vị Tổ truyền dòng Thiền Lâm
Tế từ Trung Quốc sang Việt Nam. Chùa Phật Tích là nơi Ngài Chuyết
Công hoằng dương đạo pháp, truyền thừa Tông phái, cũng như nổi
danh ở trụ xứ này. Và tại đây cũng nổi tiếng với tượng Phật Di Đà
bằng đá, một nét nghệ thuật hoàn chỉnh còn lại sau bao điêu tàn
của thời gian thế cuộc. Tượng Di Đà này đã được phục chế phiên bản
để trưng bày nơi viện Bảo Tàng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, như minh
chứng cho một nền nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của Việt Nam, một
thời kỳ vàng son của Phật giáo thời Trịnh - Lê, và minh chứng cho
sự phát triển của Tịnh độ vào thời bấy giờ, phát xuất từ một Thiền
Sư dòng Lâm Tế. Thế thì đó là sự truyền bá Thiền Tịnh song hành có
phải chăng ?
- Cứ liệu thứ 3:
Thiền Sư Chân Nguyên (1647 - 1726) và chùa Cửu Phẩm, Hải Dương.
Dân gian quen gọi là chùa Cửu Phẩm vì trong chùa có một đài cửu
phẩm do Thiền sư Chân Nguyên tạo dựng còn nguyên vẹn duy nhất ở
miền Bắc ngày nay.
- Ai cũng biết,
cửu phẩm liên hoa là biểu trưng quả vị của Tịnh độ ở cõi Cực Lạc
thế giới, thế mà do một vị Thiền Sư danh đức đương thời tạo dựng,
để tiếp nối phổ hệ truyền thừa từ Thiền phái Trúc Lâm. Thế là dù
Lâm Tế hay Tào Động, sang đất Việt Nam đều qui ngưỡng Trúc Lâm mà
nối pháp vậy. Đài cửu phẩm ở Thanh Hà, Hải Dương chính là kiểu mẫu
được lấy từ đài cửu phẩm ở chùa Bút Tháp do Tổ Huyền Quang đã dựng
trước kia.
- Từ những cứ
liệu trên, ta có thể thấy rằng Thiền chính thống của Việt Nam gồm
Thiền - Tịnh song hành, là hai trong ba yếu tố của Thiền phái Trúc
Lâm còn được duy trì cho đến ngày nay.
- Với câu A Di Đà Phật, ngày nay còn
các câu chào hỏi nhau ở miền Bắc khi đến cửa chùa. Cụ thể là nơi
lễ hội chùa Hương hàng năm, ta có thể thấy lớp lớp dòng người lên
xuống vào hội đều rơm rã câu A Di Đà Phật, Tăng hay tục, Việt Nam
hay ngoại quốc, Thiền hay Mật - Tịnh, tôn giáo hay không tôn
giáo... cũng đều với câu chào nhau như thế. Và nếu không như thế
hoặc khác đi thì ta là người lạ lẫm và lạc lỏng trong biển người
thuần nhất câu A Di Đà Phật, đã là một tục lệ gắn chặt vào đời
sống linh hoạt của lễ hội xưa nay.
- Từ những cứ
liệu logic đó, chúng tôi muốn nói rằng, Thiền của Việt Nam, tôn
chỉ và hành trạng là sự dung hợp chứ không hề mang tính cố chấp
một chiều chỉ biết có Thiền mà bác tất cả, hay bê nguyên xi cái
của Thiền Tông Trung Quốc mà nhận làm Thiền của mình. A Di Đà Phật
là tự tánh, là thoại đầu là một phần không thể tách rời của Thiền
Việt Nam chính thống.
- Để kết luận về
tính thực tế lịch sử này qua các cứ liệu được nêu, chúng tôi xin
trích dẫn bài kệ thơ của nhà Thiền đã gồm đủ ý trên :
- - " Có thì
có tự mảy may
- Không thì cả
thế gian này cũng không
- Có không
bóng nguyệt lòng sông
- Nào ai hay
đó có, không làm gì !"
-
-
---o0o---
|
|