|
- Thiền Sư Huyền
Quang &
- Bước Tiến
Tâm-Linh
- Thích Đức Thắng
- ---o0o---
Không phải ngẩu-nhiên ngài Huyền Quang trở
thành tổ thứ ba trong Thiền Trúc Lâm Yên-Tử Việt-Nam, mà ngài
phải trải qua một kinh nghiệm kỷ-luật tâm-linh nào đó, được thể
hiện qua truyền trao tâm ấn giữa thầy và trò, như sử đã ghi lại
về phương diện kế thừa, cũng như chính ngài đã xác quyết trong
bài thơ: "Nhân có việc đề ở chùa Cứu lan" qua câu: "Đức bạc
thường tàm kế Tổ đăng." Nhưng những tài liệu về kỹ thuật tâm
linh này quá ít ỏi, hiện tại chúng tôi không có, ngoài hai bài
đố⩠thoại giữa Pháp Loa và Huyền Quang (trong Tam Tổ Thực Lục)
thì qua hai mẫu đối thoại này, chúng không mang một tín hiệu nào
khả dĩ để chúng ta có thể tin tưởng vào đó, mà xác định về bước
tiến tâm linh của ngài. Ở đây, chúng tôi không còn cách nào hơn,
phải quay sang tìm kiếm trong thi phú, may ra có thể có một tín
hiệu nào chăng?
- Qua mười bốn bài thơ
của ngài Huyền Quang, đã cho chúng tôi một cái nhìn vừa ngạc
nhiên, vửa bất ngờ, trong con người thi sĩ mang đậm chất trữ tình,
mà từ xưa tới nay không một ai không công nhận, ngài là một thi sĩ
hơn là một Thiền sư. Thật sự đối với tôi, khi mới đọc sơ qua lần
đầu, chúng tôi vẫn có ý ghĩ như vậy, nhưng đến lần thứ hai đọc kỹ
hơn, thì nạc nhiên và bất ngờ đến với chúng tôi, là toàn bộ tất cả
những bài thơ của ngài nó chuyên chở một hệ thống chuyển hướng tâm
linh, mà chúng chỉ được thể hiện qua đó, một vài nét chấm phá chủ
động, đã lôi cuốn toàn bộ bối cảnh không gian, thời gian, người
vật, đồ vật, tất cả đều tham gia dung nhiếp một cách hài hòa vào
một nhất thể trong từng bài thơ một. Đó là một đặc trưng tạo ngạc
nhiên và bất ngờ đối với chúng tôi, cũng là nét tài hoa của Thiền
sư Huyềng quang.
- Qua thi ca mặc dù ngài
rất ít dùng thuật ngữ của nhà Thiền nói riêng và Phật giáo nói
chung. Nhưng không thể vì thế, chúng không cho chúng ta một dấu
hiệu nào khả dĩ nói lên tư tưởng siêu thoát, tự tại trong ngài. Mà
ngược lại chúng nói rất rõ tiến trình kinh nghiệm kỹ thuật tâm
linh của ngài nhằm gởi gắm lại người sau. Trước hết, bằng vào kinh
nghiệm sống qua cuộc đời, khi còn là một sĩ tử, ngài đã nhận ra
cái thế thái nhân tình qua hai câu thơ:
- "Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
- Đến khi đỗ Trạng, tám nghìn nhân
duyên."
- (thơ văn Lý-Trần II)
- Từ cái nhìn về nhân
sanh quan, ngài thấy được cái bạc bẽo, bỉ ổi, chua chát của người
đời, đến cái nhìn về vũ trụ, ngài bắt nhịp với cái thay đổi về vô
thường qua mau trong cuộc sống, đã khiến cho cái cô đơn được nâng
lên đến vô tận. Ngài viết:
- "Lạng châu nhân
vật thủy lưu đông,
- Bách tuế quang
âm nhiễn chỉ trung.
- Hồi thủ cố sơn
ngưng vọng xứ,
- Sổ hàng qui
nhạn thiếp tình không."
- Dịch:"Về đông
nước chảy, người Châu lạng,
- Ngày tháng,
trăm năm một thoáng nhanh.
- Nuí cũ, ngoảnh
đầu đăm đắm ngóng,
- Nhạn về in bóng
giữa tầng xanh."
- Ở đây, thái độ ngoảnh
đầu về núi là một thái độ tự qui, bắt đầu dự báo cho một
phản tỉnh sau này. Đây là một nét chấm phá quyết định cho cả một
vận mệnh cô đơn trước cơn vô thường luôn luôn chờ chực trong từng
hơi thở, và bắt đầu cho một chuyển hướng trong tư tưởng. Ngài
viết:
- "Phú quí phù
vân trì vị đáo,
- Quang âm lưu
thủy cấp tương thôi.
- Hà như tiểu ẩn
lâm tuyền hạ,
- Nhất tháp tùng
phong trà nhất bôi."
- Dịch:
- -"Giàu sang mây
nổi đến chậm rì,
- Năm tháng nước
trôi thôi thúc qua.
- Sao bằng về ẩn
nơi rừng suối,
- Một giường
thông gió một ly trà."
- Cái nhìn từ nhân sanh
đến cái nhìn về vũ trụ, đã bắt đầu cho một chuyển hướng tư tưởng
mới. Nếu đứng về mặt liên hệ xã hội, thì tư tưởng này có vẻ bi
quan yếm thế tiêu cực, nhưng đứng về mặt hoàn thành một con người
như thật, thì tư tưởng phản tỉnh trở về này là một tư tưởng lạc
quan tích cực. Vì theo nhà Phật, một thế giới được gọi là cực lạc
hay hạnh phúc, thì trước hết thế giới ấy, tất cả mọi cá nhân phải
hoàn thành một con người như thật con người trước đã, và theo đó
xã hội sẽ tùy thuộc vào mỗi cá thể đó.
- Ở đây, qua biểu hiện
"tiểu ẩn" đã noí lên được một chuyển biến tâm linh của ngài trong
công cuộc trở về sống với chính mình, mà từ lâu đã xa nguồn, xa
nơi chôn nhau cắt rốn ban sơ. Một cuộc tạo phản về nguồn, đã mở ra
cho ngài một nhãn quan mới về cách nhìn từ "phản quan thế giới" để
đi đến tuệ nhãn sinh, cho một thế giới mở toang ra hoàn toàn mới
mẻ không thể ngờ được. Ngài viết:
- "Vũ khuê quá
sơn tịnh,
- Phong lâm nhất
mộng lương.
- Phản quan trần
thế giới,
- Khai nhãn túy
mang mang."
- Dịch:
- - "Hết mưa khe
nuí sạch,
- Rừng phong giấc
mộng tươi.
- Quay nhìn buị
thế giới,
- Mở mắt mang mác
say."
- Qua hai câu cuối của
bài thơ, ngài Huyền Quang đã nói lên cái tiến trình tâm linh thay
đổi, từ nhãn quan của đôi mắt thịt tự phản, đã đưa đến sự đột biến
của con mắt tuệ nhãn thứ ba phát sinh, và một thế giới hoàn toàn
mới mẻ mở toang ra ngay trên tự tướng chính nó. Ở đây, muôn vật
chung quanh không có gì thay đổi, mà chỉ có tâm thức thay đổi, do
đó cái nhìn mới mẻ như thật chính nó, đối với thế giới chung
quanh. Đây chúng ta theo dõi cái nhìn mới mẻ của ngài Huyền Quang:
- "Thượng phương
thu dạ nhất chung lan,
- Nguyệt sắc như
ba phong thụ đan.
- Xi vẫn đảo miên
phương kinh lãnh,
- Tháp quang song
trĩ ngọc tiên hàn.
- Vạn duyên bất
nhiễu thành giá tục,
- Bán điểm vô ưu
nhãn phóng khoan.
- Tham thấu thị
phi bình đẳng tướng,
- Ma cung, Phật
quốc hảo sinh quan."
- Dịch:
- -"Đêm thu chùa
thoảng tiếng chuông tàn,
- Phong đỏ, trăng
ngời, sóng nguyệt lan.
- In ngược hình
chim, gương nước lạnh,
- Sẫm đôi bóng
tháp, ngón tiên hàn.
- Muôn duyên
chẳng vướng xa trần tục,
- Một mảy nào lo
rộng nhãn quan.
- Thấu hiểu thị
phi đều thế cả,
- Dầu ma dầu
Phật, chốn nào hơn?"
- (Huệ Chi dịch,
Thơ văn Lý-Trần)
- Cái nhìn mới mẻ ở đây,
là cái nhìn vượt lên trên nhân quả của trí phân biệt nhị nguyên
như: thị-phi, Ma-Phật, mọi pháp ở đây đều ở trong trrạng thái bình
đẳng, vô phân biệt. Từ cái nhìn này, đã đưa Thiền sư đến một nếp
sống mới "muôn duyên chẳng vướng"hay "một mảy nào lo."Đó là nếp
sống của ngài Huyền Quang, từ nếp sống mới này Thiền sư Huyền
Quang đã thật sự tự tại trong cuộc sống. Ngài hòa nhập vào bất cứ
nơi đâu, với tâm vô phân biệt thì cho dù nơi đó núi rừng hoang
vắng, sông nước mênh mông, đồng mông hoang dã hay bất cứ đâu đâu
chăng nữa, thì nơi đó không đủ khả năng làm vướng bận chân ông.
Đây chúng ta hãy theo dõi cuộc sinh hoạt phiêu bồng thường ngày
của ông, từ đồi núi cheo leo ngút ngàn mây phủ. Ngài viết:
- - "Am bức thanh
tiêu lãnh,
- Môn khai vân
thượng tầng.
- Dĩ can long
động nhật,
- Do sích hổ khê
băng.
- Bão chuyết vô
dư sách,
- Phù suy hữu sấu
đằng.
- Trúc lâm đa túc
điểu,
- Quá bán bạn
nhàn Tăng."
- Dịch:
- -"Am sát trời
xanh lạnh,
- Cửa mở trên
tầng mây.
- Động rồng trời
sáng bạch,
- Khe hổ lớp băng
đầy.
- Vụng dại mưu
nào có,
- Già nua gậy một
cây.
- Rừng tre chim
chóc lắm,
- Quá nử bạn cùng
Thầy."
- Ở đây, kế sống của
ngài Huyền Quang, được thể hiện qua câu "Vụng dại mưu nào có"là
một nét chấm phá độc đáo làm chủ động cho toàn bài thơ. Nơi đây,
người vật, đồ vật, không gian, tất cả đều hòa nhập hài hoà tự
nhiên vào một tổng thể rực sáng, mà ở đó mọi mưu toan của vọng
chấp phân biệt không còn hiện hữu nữa, và chỉ còn lại một hình ảnh
một cụ già ngây thơ chống gậy, sống tự tại giữa tầng mây. Tất cả
mọi vật chung quanh giờ đây không còn là đối tượng chi phối cuộc
sống ngài, mà ngược lại tất cả đã hòa nhập dung hợp vào một hình
ảnh lung linh ở trên giường Thiền. Ngài viết:
- - "Bán gian
thạch thất hòa vân trụ,
- Nhất lĩnh xôi y
kinh tuế hàn.
- Tăng tại thiền
sàng kinh tại án,
- Lô tàn cốt đột
nhập tam can."
- Dịch:
- - "Nửa gian nhà
đá lẫn tầng mây,
- Trải suốt mùa
đông một áo lông.
- Sư tại giường
Thiền, kinhtrên án,
- Lò tàn củi
lạnh, sáng trên không."
- Qua đây, thời gian
không gian không còn nghĩa lý gì đối với thiền sư cả, cứ như thế
mọi vấn đề không can hệ đến ngài, mặc dù ngài sống với chúng,
nhưng tấm lòng ngài không bị chúng trói buộc, và ngược lại ngài
cũng không trói buộc chúng, nhờ vậy mà cuộc sống của thiền sư trở
thành tự tại giải thoát. Ngài viết:
- "Thu phong ngọ
dạ nhất thiềm nha,
- Sơn vũ tiêu
nhiên chẩm lục la.
- Dĩ hĩ thành
thiền tâm nhất phiến,
- Cung ma tức
Phật vị thùy da."
- Dịch:
- - "Gió thu chao
động bức rèm khuya,
- Nhà núi đìu hiu
núp bóng cây.
- Thiền đạt thôi
rồi tâm một phiến,
- Dế mèn rên rỉ
gọi ai đây?"
- Đây là giai đoạn tâm
linh đạt đến chỗ tột cùng của Thiền sư Huyền Quang qua câu: "Dĩ hĩ
thành thiền tâm nhất phiến"mà thuật ngữ thiền gọi là "Tâm vật nhất
như." Giờ đây, không còn là chủ thể và đối tượng, không tâm và
vật, không còn bất cứ chướng ngại ngăn cách nào giữa Thiền sư và
cuộc sống, và ngược lại giữa cuộc sống và thiền sư, chúng đã trở
thành một phiến. Cũng từ đó thiền sư Huyền Quang thỏng tay vào chợ
phiêu bồng, và dường như ông đã quên hết tất cả mọi thứ trên đời
này, cứ theo duyên mà sống. Trong bài hoa cúc có đoạn ngài viết:
- - "Vong thân
vong thế dĩ đô vương (vong),
- Tọa cử tiêu
nhiên nhất pháp lương.
- Tuế vãng sơn
trung vô lịch nhật,
- Cúc hoa khai xứ
tức trùng dương."
- Dịch:
- - "Quên mình
quên hết cuộc tang thương,
- Ngồi lặng đìu
hiu, mát cả giường.
- Năm cuối trong
rừng không có lịch,
- Thấy hoa cúc nở
biết trùng dương."
- (theo Phan-Võ,
Lược Thảo Lịch Sử Văn Học Việt Nam, thơ văn Lý-Trần)
- Đây là nếp sống
ĐƯƠNG-NIỆM theo nhà Thiền, ở đây ngài Huyền Quang chỉ biết sống
trong hiện tại ngay trước mắt, còn những cái đã qua thì không còn
nhớ nữa, hay việc gì chưa đến thì không khởi lên, và một đoạn khác
ngài viết:
- - "Hoa tại
trung đình nhơn tại lâu,
- Phần hương độc
tọa tự vong ưu.
- Chủ-nhơn dữ vật
hồn vô cạnh,
- Hoa hướng quần
phương xuất nhất đầu.
- Dịch:
- - "Hoa ở trước
sân người trên lầu,
- Đốt hương ngồi
lặng bỗng quên sầu.
- Hồn nhiên người
vật không tranh cạnh,
- So với muôn hoa
cúc đứng đầu.
- (Huệ Chi dịch,
Thơ Văn Lý-Trần)
- Cái đạt của Thiền sư
là ở chỗ hồn nhiên trong cuộc sống, đó là lối thể hiện tâm vô phân
biệt. Ở đây, chúng tôi xin mở ngoặc một tí. Nếu chúng ta đứng bên
ngoài mà nhìn, thì tuy chúng ta thấy cai hôn nhiên do tâm vô phân
biệt của các Thiền sư thể hiện, cũng giống như tánh hồn nhiên của
tuổi thơ, nhưng thật sự cốt tủy bên trong chúng khác nhau xa. Cái
hồn nhiên do tâm vô phân biệt của các Thiền sư thể hiện ra bên
ngoài chúng câu hữu với giaỉ thoát, còn cái hồn nhiên của tuổi thơ
chúng câu hữu với vô minh. Thế nên khi chúng ta đề cập đến vấn đề
đó, thì phải hiểu chúng thể hiện theo chiều hướng nào, về hiện
tượng hay bản chất? Kẽo không chúng ta sẽ bị ngộ nhận ngay về lối
sống của các vị thiền sư. Đó là chúng tôi đề cập về phía chúng ta
thôi, còn đối với các ngài thì chả can hệ chi. Ngài viết:
- - "Ổi dư cốt
đột tuyệt phần hương,
- Khẩu đáp sơn
đồng vấn đoản chương.
- Thủ bá suy
thường hòa thác thái,
- Đồ giao nhơn
tiếu lão Tăng mang."
- Dịch:
- - "Củi tàn thôi
chẳng thắp hương thêm,
- Miệng đáp gia
đồng hỏi mấy chương.
- Bận bịu cho ai
cười chế lão,
- Liền tay ống
thổi với mo nang."
- (Huệ Chi dịch,
Thơ Văn Lý-Trần)
- Đối với Thiền sư
chuyện nhân tình thế thái, chuyện thị-phi tốt-xấu, chuyện đúng sai
của cuộc đời không là gì cả, vì chúng rốt cùng cũng chỉ là hậu quả
tất yếu của vọng tâm phân biệt, đối đãi nhân quà sinh ra, do đó
tất cả đều sai lầm; nhưng ngược lại thiền sư sống hết mình với
chúng bằng lối tùy duyên, nên không bị lệ thuộc, cho nên cuộc sống
của các ngài rất ư tự tại giải thoát. Ngài viết:
- "Dạ khí phân
lương nhập họa bình,
- Tiêu tiêu đình
thụ báo thu thanh.
- Trúc đường vong
thích hương sơ tận,
- Nhất nhất tùng
chi võng nguyệt minh."
- Dịch:
- - "Khí mát đêm
phân nhập tới mành,
- Cây sân xào xạt
báo thu thanh.
- Chòi tre quên
bẵng hương vừa tắt,
- Bủa lưới giăng
trăng mấy nhánh cành."
- Đó là một lối sống
hiện thực ngay trong lòng sự vật, tâm phân biệt không hiện hữu nơi
đây. Do đó mọi sự vật như thật chính nó, không bị bóp méo không bị
chụp mũ, không bị trang điểm, không bị biến chất; chúng trần
truồng lồ lộ, không mang bất cứ nhãn hiệu nào. Chúng tùy theo
duyên tan hợp mà hiện hữu hay biến dịch. Ở đây thiền sư Huyền
Quang đã đạt được cách sống này, nghĩa là ngài đã nắm bắt được lý
Duyên khởi và sống theo tùy duyên. Ngài viết:
- "Tổ phụ điền
viên nhậm tự sừ,
- Thiên thanh bàn
khuất nhiễu ngọ lư.
- Mộc tê song
ngoại thiên cưu tịch,
- Nhất chẩm thanh
phong trú mộng dư."
-
Dịch:
- - "Vườn rộng
ông cha mặc sức cày,
- Quanh nhà xanh
mướt ủ ngàn cây.
- Ngoài sân cành
quế chim cưu vắng,
- Gối mát chưa
tan giấc mộng ngày (ngủ trưa)."
- Tóm lại, tất cả những
trình bày ở trên, chúng tôi đã cố gắng ghi lại sự thể hiện tiến
trình tâm linh qua những bài thơ ngài Huyền Quang để lại, đã cho
chúng ta một cái nhìn đúng về ngài hơn. Nghĩa là trong con người
của ngài Huyền Quang qua thi ca chúng mang hai sắc thái: Một thiền
sư và một thi sĩ, con người thiền sư trong tư tưởng và con người
thi sĩ qua hình thức thi ca, nhưng nếu nói cho cùng thì hình thức
chuyên chở tư tưởng, và tư tưởng quyết định hình thức, chúng không
phải là hai, nhưng chúng cũng không phải khác. Đó là một trong
những đặc điểm mà ngài Huyền Quang đã sử dụng trong thi ca của
ông, nó mang tính tâm linh độc đáo của Việt nam.
-
-
---o0o---
|
|