Xuân & Lăng
Kính
Bát Nhã
Nhất Quán
Xuân Lại đến với mọi người tất cả
Xuân lại cho ta thêm một tuổi đời
Xuân lại về với bao nỗi đầy vơi
Nhưng ý nghĩa nhất mùa xuân miên viễn.
I- Hoa & Ngày Xuân Theo Quan Niệm Nhân Thế
Như chúng ta đã biết, hoa
thì mùa nào cũng có hoa, tuy nhiên đối với mùa xuân, có lẽ khí trời
ấm áp sau những cơn lạnh khủng khiếp của mùa Ðông, và cũng có lẽ cây
cối vừa đâm chồi nẩy lộc nên hoa cũng đẹp, cành lá cũng tươi non, và
mịn màng hơn tất cả các mùa. Ðó là lý do khiến cho mọi người biết
chơi hoa, chơi cảnh lúc nào cũng yêu thích hoa và cây cảnh của mùa
Xuân. Quả thật, mỗi độ Tết đến Xuân sang là muôn hoa tưng bừng khởi
sắc. Nói như nhà văn Toan Ánh:
- Phải chăng Tết với Hoa có
duyên tao ngộ, Hoa với Tết có nợ tao phùng, mùa Xuân là mùa của trăm
hoa đua nở. Chúng ta thử tưởng tượng mùa Xuân mà không có hoa, cảnh
Xuân sẽ buồn bã, lạnh tẻ khô cằn. Vì thế vai trò của hoa và cảnh là
tô điểm cho ngày Tết ngày Xuân. Tết mà không có hoa, có lẽ cũng
không ai nghỉ đó là ngày Tết. Như vậy vai trò của Hoa và Cảnh không
phải chỉ có mang hương thơm đến cho Tết, cũng không phải chỉ đem cái
sắc đẹp tô điểm cho mùa Xuân, mà nó còn có vai trò quan trọng khác
đó là: Báo hiệu Ðông sắp tàn Xuân sắp đến, và đồng thời nó cũng kích
thích mọi người liên tưởng đến Tết như có nhà thơ đã từng nói khi
mỗi lần thấy:
- Mỗi độ mai vàng khoe sắc
thắm
Là ngày Tết đến chắc không
xa.
Tập tục đó không biết có tự
bao giờ, đối với dân tộc Việt Nam, Hoa và Cảnh Xuân đã tượng trưng
cho một cái gì thanh thoát, tinh khiết. Bởi vậy mỗi lần Tết đến,
chúng ta thấy không có một ai hờ hững với cây cảnh, dù cho đó là
người nghèo, người không biết chơi hoa ngắm cảnh. Người dân miền
thôn dã ở miền Nam, mặc dầu không biết những ý tứ cao xa như các nhà
học giả, văn nhân, thi sĩ, nhưng cứ mỗi độ Xuân về, Tết đến là họ
nhất định vào rừng để mai, đốn về cắm trong nhà, trang hoàng nhà
cửa, hoặc trồng thêm trong vườn cho đẹp, chưng trên bàn thờ cúng
Phật, cúng tổ tiên. Còn người dân miền Bắc thì trong dịp Tết về nhất
định phải tìm cho được dăm ba cành hoa đào cho ba ngày Tết.
Hoa và ngày Xuân còn là đề
tài gây nhiều cảm hứng cho văn nhân thi sĩ, cho dù những cảm xúc đó
vui tươi thăng hoa có, mà buồn rầu chán nản cũng có. Ðối với khách
tha phương trong dịp Xuân về, giữa cảnh người nao nức, một mình tư
lự trước kiếp người thăng trầm, thịnh suy mà lòng không khỏi buâng
khuâng trước trăng, sao, hoa, cảnh. Ai là người đã điểm tô nên hương
sắc trong dịp Xuân về như Nguyễn Công Trứ đã từng buâng khuâng:
- Ngồi thử ngắm trăng hoa
ai nhuốm
Một hoa là riêng một sắc
hương
Khi chúa Xuân cón khép nép
trên đường
Còn phong nhụy đợi Ðông về
cáng đáng.
Khi đến Lạng Sơn đón sứ
thần nhà Thanh, cụ Tố Như đã thấy một sự âm thầm thay đổi của kiếp
người. Nghĩ đến mái tóc hoa râm của mình mà lòng ngán ngẩm sự đời,
trên đường danh lợi, tuy vậy Xuân lúc nào cũng đẹp nơi quán trọ:
- Phơ phơ mái tóc rối phong
trần
Lặng lẽ thầm kinh vật biến
tân
Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm
mông
Thềm mai đã đổi một năm
xuân
Anh hùng dạ lấp đường rong
ruổi
Danh lợi ê chân bước nhọc
nhằn
Người dẩu điều lưu xuân vẫn
đẹp
Thành đoàn thơ thẩn lệ dầm
khăn.
Xuân còn là cơ hội để cho
mọi người đi lễ Chùa, các em bé nhân đây mà mặc quần áo mới, là đề
tài cho các cụ uống rượu làm thơ. Xuân là cả cơ hội thuận lợi để cho
mọi người đoàn tụ bên mái ấm gia đình. Theo thơ xuân Nguyễn Bính
nói:
- Ðây cả mùa xuân đã đến
rồi
Từng đoàn mở cửa đón vui
chơi
Từng cô em bé so màu áo
Ðôi má hồng lên nhí nhảnh
cười.
Có những ông già tóc bạc
phơ
Rượu đào đôi chém bút đề
thơ
Những bà tóc bạc hiền như
Phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội
chùa.
Pháo nổ đâu đây khói ngợp
trời
Nhà nhà đoàn tụ dưới hoa
tươi
Lòng tôi như cánh hoa tiên
ấy
Một áng đề thơ nét chẳng
phai.
Qua đi rồi mùa Ðông lạnh
lùng ảm đạm, khí trời trở nên ấm áp, hoa bướm lại rộn ràng với ý
Xuân của Ngô Chi Lan cho chúng ta thấy lòng thanh thản, duyên lại
mặn mà:
- Khí trời ấm áp đượm hơi
sương
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác
vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót
gió
Dậu hoa phất phới bướm chân
hương.
Trong cái lạnh thấu xương,
da của mùa Ðông mà mai vẫn can trường nở rộ, nên Cung Oán Ngâm Khúc
đã nói:
- Cành Xuân hoa chúm chím
chào
Gió Ðông thổi đã cợt đào
ghẹo mai.
Ngày Xuân còn là đề tài cho
các cụ đồ Nho viết đối, viết liễn để bán. Một nhà thơ trào lộng như
Cao Bá Quát cũng đã viết:
- Nhập thế cục bất khả vô
văn tự
Chẳng hay ho cũng nghỉ một
vài bài
Huống chi mình đã đỗ tú tái
Ngày Tết đến cũng một vài
câu đối.
Theo Chu Mạnh Trinh một tâm
hồn lãng mạn và ái tình, mùa Xuân quả thật vui nhộn cho những ai có
gia đình, và được đoàn tụ, tuy nhiên nó cũng tạo những nỗi buồn ray
rứt cho những ai kém phước, bạc phần như ông đã từng khai thác trong
truyện Kiều:
- Mùa Xuân ai khéo vẽ nên
tranh
Nô nức đua nhau hội đạp
thanh
Phận bạc ngậm cười nơi chín
suối
Duyên may run rủi khách ba
sinh
Xuân còn tiêu biểu sự trong
trắng hồn nhiên của thời thơ ấu đầy mộng mơ và tình ái:
- Em như cô gái hãy còn
Xuân
Trong trắng em chưa lấm bụi
trần
Xuân đến hoa mơ, hoa mận nở
Gái Xuân giữ lụa trên phong
vân.
Ðịnh luật tuần hoàn luôn
xoay chuyển. Xuân qua, Hạ lại..v..v.. Nhưng đó chỉ là sự vô thường,
để tìm cái thường còn trong kiếp người theo Phương Trời Viển Xứ:
- Xuân lại đến với mọi
nguời tất cả
Xuân lại cho ta thêm một
tuổi đời
Xuân tuần hoàn với bao nổi
đầy vơi
Nhưng ý nghĩa nhất Mùa Xuân
Miên Viễn.
II- Hoa Và Ngày Xuân Theo
Quán Chiếu Bát Nhã
Như trên chúng ta thấy cảnh
thay đổi của thời tiết, sự vận chuyển của bốn mùa. Mọi người vui, và
nhiều cảm hứng, hy vọng khi lúc Xuân về, mọi người buồn khi Xuân đã
qua. Sự sống còn của kiếp người nó giống như ngày Tết, mùa Xuân,
hoa, bướm. Khi nào Xuân về cây đâm chồi nẩy lộc, hoa nở, bướm bay.
Hoa nở hay tàn, bướm đi hay ở, bao giờ cũng đúng kỳ, vũ trụ kiếp
người có thành, có hoại. Tất cả đều là duyên, cảnh huyển giả, không
có thực tướng tồn tại, do đó dưới cặp mắt của Giác Hải Thiền Sư đắc
đạo ngài nói:
- Xuân lai hoa điệp thiện
tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa Ðiệp bản lai giai thị
huyễn
Mạt tu hoa điệp hướng tâm
trì.
Nghĩa là:
- Xuân sang hoa bướm khéo
quen thì
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng
kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyển
ảo
Thây hoa mặc bướm để lòng
chi.
Trong chiều hướng đó của
Ngài Hương Hải Thiền Sư, chúng ta có
những nhận định: Cuộc sống có ý nghĩa,
có giá trị là cuộc sống hiểu rõ hư dối, tạm bợ mâu thuẫn của kiếp
người. Muốn đi sâu vào cuộc sống có ý nghĩa, sự xét nghiệm, phê phán
và tự giác là những yếu tố rất cần thiết. Tôn giáo có ở đời nhằm đáp
ứng mục đích nầy. Mục đích đưa mọi người đến chỗ hiểu rõ thế nào là
chân, thế nào là giả, để rồi chúng ta lần lần đi đến chỗ bỏ giả tìm
chân. Muốn như thế điều quan trọng trước tiên là phải xét kỹ Thủ và
Xả(lấy hoặc bỏ) để chọn cái chân, cái đẹp và bỏ đi cái mê lầm. Sự
tích cực của Thủ-Xả là quyết định ở trong tâm, nhưng mầm mống của sự
an nguy lại đặc định ở bên ngoài. An không an một ngày, nguy cũng
không có nguy một ngày, mà nó hình thành đều từ chỗ gom góp dần, vì
vậy mà chúng ta không thể không xét kỹ. Dùng đạo đức để đối đãi
trong cuộc sống thì phải gom góp đạo đức. Dùng lễ nghĩa để hành xử
thì cần phải học hỏi và gom góp lễ nghĩa. Còn trái lại nếu dùng
phương pháp bóc lột, giết hại, mạ lỵ, vu khống để duy trì công đạo
thì không thể được và đương nhiên phải gom góp oán hận. Nhưng nếu
gom góp oán hận thì trong ngoài trái nhau, trong khi đó gom góp đạo
đức thì trong ngoài cảm phục, niềm vui được lan rộng. Ðó là ý nghĩa
tôn giáo học, vì thế mà ông Windelband đã nói:
- Tôn giáo là phương tiện
đưa người đến đời sống thánh thiện siêu việt. Ðời sống ấy phải là
đời sống vượt ra ngoài những kinh nghiệm tầm thường để thể nhập vào
thế giới nội tâm.
Tôn giáo mà ông Windelband muốn nói đây
là Phật Giáo, và nhất là Thiền một phương pháp trở về nội tâm.
Thật vậy, phật pháp là
phương pháp chỉ dẫn cho mọi người hiểu rõ những hư vọng, giả dối của
cuộc đời và là phương pháp đoạn trừ những dục vọng, chấp ngã, tham,
sân, đố kỵ..v..v.. Bởi vì dục vọng tạo nên sự mê mờ, cho nên con
người cứ mãi sống trong cảnh túy sanh mộng tưởng và như thế cuộc đời
sẽ vô nghĩa và vô giá trị. Ðời mà vô giá trị thì chẳng khác nào con
người tự đào huyệt chôn mình trong mê mờ đau khổ. Chư Phật, chư Tổ
cũng là con người như bao nhiêu con người khác, nhưng các ngài đã
hiểu rõ cuộc đời, hiểu rõ nguyên nhân của khổ vui..v..v.. một cách
thấu triệt. Biết rõ những đau khổ phiền toái sẽ đến với mọi người,
mà không chừa bất cứ một người nào. Nó sẽ đến từng gia đình, từng
hoàn cảnh. Như trong một gia đình nghèo khổ, thì lẽ dĩ nhiên họ phải
sống với cuộc sốngÕ nghèo túng, khổ sở. Một gia đình giàu có sang
trọng, họ cũng có cái khổ tâm của họ. Một ông kỹ sư, hay một ông bác
sĩ cũng thế. Có ai dám nói rằng: Giàu có sang trọng, là sung sướng
hạnh phúc, không khổ não, nghèo cùng đói rách là hèn hạ không?
Nhìn chung, chúng ta thấy
rằng: Tất cả mọi người trên địa cầu nầy ai cũng chịu chung một số
phận là khổ ít hoặc nhiều, cho dù nghèo đói hay sang giàu. Nói như
thế đừng hiểu lầm là chúng ta phủ nhận giá trị của cuộc sống, và cõi
đời nầy chỉ là vở vụn, đau thương, đổ nát, không có một sự an lạc
hạnh phúc nào. Xin xác nhận là có hạnh phúc và đời vẫn đẹp, nếu và
chỉ nếu chúng ta biết: Giả, thật, đúng, sai..v..v.. để tích cực
quyết định Thủ-Xã trong tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt thoát ra
ngoài sự chi phối bình thường của vũ trụ thiên nhiên, sanh già, bệnh
chết...như Blaise Pascal(1623-1662) là một nhà Toán Học, Vật Lý Học,
và cũng là nhà Triết Học người Pháp đã từng nói:
- Con người vĩ đại hơn sức
mạnh mù quáng của thiên nhiên, vì lẽ cả đến nghĩ rằng con người bị
hủy diệt bởi những sức mạnh ấy, con nguời vẫn giữ được cao cả hơn
bằng sự hiểu biết các sức mạnh ấy. Lại nữa, Phật Giáo cho thấy bằng
phương thức hiểu biết, con người cũng có thể kiểm soát được mọi
trạng huống của mình. Con người có thể ngưng, thoát khỏi sự nghiền
nát bởi sức mạnh của thiên nhiên, và sử dụng những luật của sức mạnh
thiên nhiên để tự mình đứng lên chống đỡ.(Man is greater than the
blind forces of nature because even though he is crushed by them he
remains superior by virtue of his understanding of them. Again
Buddhism carries the truth further: It show that by means of
understanding man can also control his circumstances. He can cease
to be crushed by them, and use their laws to raise himself).
Phương thức hiểu biết ở đây Blaise Pascal muốn nói có phải là nhận
chân được những gì mà Ngài Giác Hải Thiền Sư đã nói?
- Nên biết bướm hoa đều
huyễn ảo
Thây hoa mặc bướm để lòng
chi.
Hiểu được mùa Xuân trăm hoa
đua nở, ong bướm kéo về, hết Xuân hoa tàn tạ, ong bướm rủ nhau đi.
Mùa Xuân khác đến, trăm hoa lại đua nở, kiếp người trong cõi diêm
phù cũng vậy. Những lúc trẻ, khí lực sung mãn, công việc hằng ngày,
từng giờ từng phút trôi qua, mà con người đâu mấy ai chịu khó lưu
tâm, để rồi cái tuổi già đến với những sợi tóc bạc trên đầu lúc nào
mà mình không hay biết. Cuộc đời vô thường là như vậy. Do đó mà Ðức
Phật dạy chúng ta phải luôn luôn quán các pháp hữu vi như mộng, như
huyễn. Theo trong Kinh Kim Cang:
- Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyển bào ảnh
Như lộ diệt như điển
Ứng tác như thị quán
Nghĩa là:
- Tất cả các pháp hữu vi
Như mộng huyển, bọt bóng
Như giọt sương, như điển
chớp
Nên khởi quán như vậy.
Như thế, Ðức Phật muốn dạy
chúng ta rằng, tất cả những hình tướng trên thế gian đều là mộng
huyển nó không thực mà lâu nay chúng ta tưởng là thực. Theo tinh
thần đó trong Kinh Bát Nhã, Ðức Quán Thế Âm khi thực hành sâu xa về
trí Bát Nhã thì Ngài thấy được Năm Uẩn(Sắc, Thọ Tưởng, Hành, Thức)
đều không. Hành trình đi vào nội tâm, và muốn hiểu rõ theo quan điểm
của Bát Nhã, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu Năm Uẩn của con
người, rồi từ con người đến các loài động vật và thảo mộc, như vậy
chúng ta sẽ dễ dàng nhận thức hơn.
Sắc Uẩn: Sắc gọi cho đủ là
Sắc Uẩn, nói cho dễ hiểu là cái thân con người. Cái thân nầy, xưa
nay mọi người cứ lầm tưởng là có thật, bất biến. Nhưng kỳ thật thân
nầy do các yếu tố như: Ðất, Nước, Gió, Lửa tạo thành. Trong Ðất
chúng ta thấy có các loại như: Các tế bào, da, thịt, gân, xương,
lông, tóc..v..v.. Nước như: Mồ hôi, máu, nước mắt, nước miếng, nước
tiểu..v..v.. Gió như: Sự hô hấp không khí, thở ra hít vào bằng đường
hô hấp, hoặc các lỗ chân lông. Lửa như: Nhiệt độ ấm áp trong cơ thể.
Như vậy thân con người là do sự cấu tạo giả tạm của Tứ Ðại mà thành,
nếu Tứ Ðại phân ly thì thân nầy cũng không còn nữa.
Như vậy, từ con người cho
đến động vật và thực vật cũng thế. Tuy nhiên theo quan niệm của nhân
thế, thì từ thân tứ đại cho đến ngoại vật như: Cây, cảnh, bông hoa,
tươi đẹp..v..v.. rồi chấp chặt vào đó để rồi tạo ra những cảm hứng
đa sầu, đa cảm, hoặc là hân hoan, hoặc là buồn thảm. Nhưng nếu quán
chiếu theo tinh thần của Trí Bát Nhã thì chúng ta cũng sẽ thấy tất
cả từ con người đến động thực vật đều sống một cuộc sống vay mượn
tạm bợ. Như con người khi uống nước vô thì giúp cho sự tuần hoàn lưu
chuyển dễ dàng, nhưng nếu không có nước thì khát nước và sẽ kiệt
quệ. Cây cối cũng vậy, có nước thì cây cối sẽ xanh tươi, tốt đẹp,
không nước thì sẽ khô héo tàn tạ. Như thế chúng ta thấy, dù cho là
con người, động vật hay thực vật cũng vậy, nếu thiếu đi một trong
các yếu tố của tứ đại thì sẽ chết và sự giả hợp đó sẽ tan rã. Người
học phật, hay bất cứ một người nào đó, khi thấy rõ Sắc Uẩn nầy không
thiệt, không phải là sở hữu của mình thì là mình đã giác. Giác tự
nơi bản thân mình, thấu suốt đến cỏ cây cũng thế. Khi chúng ta quán
thấy thân của chính mình và hoa cảnh đều do nhân duyên Ðất,
Nước..v..v.. thì biết được nguyên của nó là không. Có là do duyên
hợp mới có. Chính khi có sự góp mặt của Ðất, Nước, Gió, Lửa mà chúng
ta biết nó không có thật. Cái biết nó không thật, tánh nó là không
thì cái biết đó là Trí Bát Nhã.
Thọ Uẩn: Là sáu căn tiếp
xúc với sáu trần như:
- Mắt tiếp xúc với Sắc
- Tai tiếp xúc với Thanh
- Mũi tiếp xúc với Hương
- Lưỡi tiếp xúc với Vị
- Thân tiếp xúc với Xúc
- Ý tiếp xúc với Pháp
Rồi từ đó mới có sự nhận
chịu khổ, vui, hoặc không khổ, không vui. Sự nhận chịu khổ, vui, gọi
đó là Thọ. Như lỗ tai nghe nhạc, lỗ tai là Nhĩ Căn, nhạc là Thinh
Trần. Khi Căn và Trần tiếp xúc nhau thì khởi sanh Thọ, rằng đây là
nhạc dở, nhạc hay..v..v.. rồi khởi tâm ưa thích. Khi mà chưa mở máy
thì nhạc không có. Khi mở máy thì có âm thanh va chạm vào tai, từ đó
mới có sự hân hoan hoặc là phiền muộn. Tiếng nhạc tự tánh nó không
có vui buồn, nhưng khi tai nghe mới có sự phân biệt, và từ đó mới có
sự yêu ghét..v..v.. Do đó, có Trần mà không có Căn thì không có Thọ.
Tự lỗ tai, hoặc tự thanh trần thì không có tác dụng gì cả. Tóm lại,
các nhân duyên trong có Căn, ngoài có Trần tiếp xúc mới có Thọ. Cái
Thọ nguyên nó là không, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp, đó là
huyển có, vì thế chấp chặt vào cái huyễn là sai lầm. Như thế nếu
chúng ta quán cái Thọ của Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân Ý cũng đều không
thiệt, nguyên nó là không, duyên hợp như huyển. Người trí khi biết
được như thế thì không nên lệ thuộc vào nó. Ðó là nói về con người.
Còn nói về động vật, loài có vú thì biểu lộ những cái vui, buồn, ưa
thích, nó cũng gần tương tự như con người theo Sáu Căn, Sáu Trần.
Còn về loài thảo mộc mặc dầu nó không có Sáu Căn tiếp xúc với Sáu
Trần rõ ràng như loài người và loài động vật có vú, tuy nhiên không
phải vì vậy mà nó không có những tâm tình vui buồn..v..v.. Theo khám
phá mới của các nhà khoa học cho biết: Hai cây cùng loại, nhưng nếu
một cây có cho nghe nhạc, thì cây đó sẽ phát triển mau hơn, và màu
sắc cũng tươi hơn cây không nghe nhạc. Lẽ dĩ nhiên, cây được tiếp
xúc với ánh nắng mặt trời, tưới phân bón đầy đủ..v..v.. thì đương
nhiên nó phải khác với cây không được tiếp xúc với ánh nắng mặt
trời, và thiếu phân bón. Ðiều đó chứng tỏ là nó có đủ nhân duyên
trong Căn, ngoài có Trần tiếp xúc, và nó cũng có Thọ. Cái Thọ nguyên
chính nó là không, mà có là do duyên hợp lại như huyễn có giống như
con người và động vật có vú.
Tưởng Uẩn: Tức là tâm tưởng
của chúng ta nhớ nghĩ một hình ảnh thân thương mến yêu, hoặc đáng
ghét nào đó, tất nhiên sẽ khởi ra tưởng trạng. Như chúng ta ngồi đây
mà tâm tư nhớ ở nhà, rồi thì hình ảnh của gia đình, nồi cơm đang
nấu, bếp lửa chưa tắt..v..v.. Mặc dầu nồi cơm đã chín, bếp lửa đã
tắt, nhưng sự sợ hãi lo âu cho việc cháy nhà nên sầu lo bừng bừng
khởi dậy. Ðó là nương nơi Tưởng mà tưởng tượng ra hình ảnh chưa xảy
ra, hoặc tưởng tượng nơi mà mình chưa biết. Như vậy cái tưởng tượng
đó không thật có, thành thử cái tưởng vốn không, duyên khởi huyễn
có.
Hành Uẩn: Là cái suy gẫm
của chúng ta. Khi vừa nghĩ cái nầy chưa xong là tiếp theo cái kia,
liên tục không ngừng, trong trường hợp nầy gọi là suy tư. Dòng suy
tư đó gọi là Hành, nó giống như sóng biển, sóng sau đè sóng trước.
Cứ mỗi lần sóng sau chờm tới, là sóng trước mất đi, dòng suy tư của
con người cũng vậy. Nghĩ tới cái mới thì cái cũ mất đi cứ thế mà
liên tục, đã liên tục sinh diệt thì nó không thật. Cho nên Hành Uẩn
nguyên thể là không, duyên hợp huyễn có.
Thức Uẩn: Thức là sự phân
biệt của mình. Thí dụ như khi mắt thấy hoa hồng màu đỏ đẹp..v..v..
thì cái phân biệt của con mắt gọi là Nhãn thức. Tai nghe tiếng nhạc
sanh tâm phân biệt hay dở..v..v.. thì đó là Nhĩ Thức. Tương tự các
thức kia cũng đều như thế. Khi chúng ta hiểu được Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành Uẩn đã không có thật thì Thức Uẩn cũng không thật có.
Như trên chúng ta thấy
Tưởng, Hành, Thức ở nơi con người thì chúng ta dễ dàng nhận thức. Ở
các loài động vật có vú, không có ngôn ngữ để diễn tả như loài
người, nhưng không có nghĩa là nó không có Tưởng, Hành, Thức. Ðiều
nầy chúng ta có thể thấy ở các con thú được huấn luyệnÕ như: Loài
chó săn, chó trong quân đội. Trong các đoàn hát xiệc họ huấn luyện
các con thú như: Cọp, Voi, Sư Tử, Gấu, Mèo..v..v.. Sau khi huấn
luyện, họ có thể điều khiển theo ý muốn của họ. Ở các loài thực vật
hay còn gọi là vô tình, vì nó không nói, mỗi khi có người muốn cướp
mạng sống của nó, người ta không thấy nó sợ hãi chạy trốn như các
loài động vật hữu tình khác, nhưng cũng không có nghĩa là nó không
biết tham sống sợ chết, nó không biết khổ biết vui. Như Thọ Uẩn đã
được trình bày ở trên, nói về hai cây cùng một giống loại, nhưng một
cây được nâng niu săn sóc với phân bón nước non đầy đủ, lẽ tất nhiên
nó phải khác hơn một cây không được nâng niu chìu chuộng.
Nhìn chung chúng ta thấy từ
vũ trụ con người, động vật, và cây cỏ, gọi chung là các loài hữu
tình và vô tình, tất cả cũng đều do Năm Uẩn và Tứ Ðại giả hợp mà
thành. Sự sống còn hiện hữu ở đây tất cả chỉ là sự vay mượn chớ
không có gì tồn tại chắc thật. Nói theo quan niệm thông thường thì
tất cả sự vật trên thế gian đều là vay mượn để trưởng dưỡng cái ta.
Gọi là thành, thì chúng ta vui, đắc thắng, lúc Xuân về. Gọi là bại,
thì chúng ta buồn, khổ, thua thiệt lúc Xuân đi. Nói theo quan niệm
của Phật Giáo Nam Truyền. Tất cả đều do Tứ Ðại giả hợp, niệm niệm
sanh diệt. Căn cứ trên hình thức, hình thức nầy diệt, thì hình thức
khác lại sanh, nên gọi đó là Vô Thường. Trong quan niệm Vô Thường
nầy ta có thấy hết Xuân tới Hạ, hết Thu đến Ðông. Xuân đến thì cây
cối ra lá, đơm bông kết nụ..v..v.. Nhìn theo tinh thần Bát Nhã của
Ðại Thừa Phật Giáo là nhìn thẳng vào thể tánh, nên chúng ta không
nói Vô Thường mà chỉ nói Không. Vì tất cả mọi sự vật trên thế gian
nầy nguyên thể của nó là không, nhưng gọi là có vì nó do các duyên
giả hợp. Hiểu được lý không của Ðại Thừa Bát Nhã thì ngay cả sự vật
còn hiện hữu trước mắt mà ta cũng có thể nói nó là không. Nói không
mà không phá hoại cái có, nghĩa là nó không mà không đợi đến hoại
rồi mới nói không.
Là người Phật Tử, học và
thực hành giáo pháp của Phật Ðà ta phải noi gương chư Phật, chư Tổ,
chư Thiền Sư đi trước để điều phục thân tâm. Phương thức hữu hiệu
nhất là chúng ta phải can trường nhìn thẳng vào thực thể của bản
thân và ngoại cảnh. Có được như vậy, chúng ta mới thấy rõ sự hiện
hữu của chúng ta và sự vật, tất cả đều do nhân duyên hòa hợp. Nhưng
điều cần nhớ là tất cả đều huyển hóa chứ không chắc thực. Chỉ có
chân tâm của chính mình mới thực sự bất sanh, bất diệt, mà xưa nay
chúng ta đã vô tình quên lãng. Giờ đây chúng ta phải quyết sống thực
với nó, cố gắng đừng để một tạp niệm nào xen vào. Bản chất của Tâm
là mọi sự mọi vật đều như như, bất động, nghĩa là thực tại không
sinh không diệt theo tinh thần Bát Nhã là Chân Không. Nếu là Chân
Tâm, thì Cảnh cũng là Chân Cảnh. Từ đây ta không cần chạy trốn hay
tìm cầu, mà sự giải thoát cũng trở thành hiện thực. Từ ý nghĩa nầy,
chúng ta thấy một khi Tâm đã không bị giao động, thì ngọai cảnh dẫu
cho như thế nào đi nữa cũng trở thành vô nghĩa. Ðiều nầy đã chứng
minh qua hình ảnh của Giác Hải Thiền Sư, ngài đã thản nhiên trước
cảnh hoa bướm rộn ràng mỗi khi Ðông tàn Xuân đến, chúng ta thấy rất
thi vị thanh thoát:
- Xuân sang hoa bướm khéo
quen thì
Bướm liệng hoa cười vẫn
đúng kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyển
ảo
Thây hoa mặc bướm để lòng
chi.
Lời tuyên bố của Giác Hải
Thiền Sư cho thấy trong muôn vàn cảnh vật đã chứa sẵn thể Kim Cang
Bát Nhã. Chỉ cần dứt sạch vọng tưởng điên đảo thì chân tánh tự nhiên
hiển hiện. Ðể đạt tới mục đích nầy, người học Phật phải làm sao đạt
tới trạng thái vô tâm. Vô Tâm thì phiền não không có chỗ nương tựa.
Vô tâm theo Hương Hải Thiền Sư là bí quyết của sự giác ngộ. Phương
thức để đạt tới trạng thái vô tâm, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
của Nguyễn Lang nói rằng:
- Giới Luật cao nhất chính
là vô tâm.
Giới luật ở đây không có
nghĩa là cấm đoán, không cho con người va chạm tiếp xúc với sự vật.
Nếu giới luật chỉ là sự cấm đoán thì đó chưa phải là phương thức căn
bản, mà còn là sự chạy trốn, tự đưa mình vào ngõ cụt. Giới luật cao
nhất là sự quan sát thường trực, để từ đây dầu cho ta ở trong môi
trường nào chăng nữa cũng không bị thanh sắc chi phối, mà trái lại
thanh sắc phải phục tùng theo mình.
Trong chiều hướng nầy, theo
tinh thần của Lục Tổ Huệ Năng:
- Khi mê thì Thầy độ, khi
ngộ thì tự độ lấy
Ở đây chúng ta cũng có thể
hiểu:
- Khi mê thì người theo
cảnh, cảnh thì thiên sai vạn biệt, mà người thì không đồng nhất với
chính mình. Khi ngộ thì cảnh đi theo người, người thì trong ngoài đã
nhất trí và dung hóa được cảnh.
Tưởng cũng cần nói rõ thêm:
Vô tâm không có nghĩa là hững hờ thiếu chú ý, mà vô tâm ở đây muốn
nói là cái thể sáng suốt không bị mắc kẹt bởi tư kiến và tư dục,
không kỳ thị phân biệt, cái thấy không còn bị khuynh hướng nhị
nguyên điều khiển. Ðối vối cái thấy không còn phân biệt chủ thể và
đối tượng, tâm và cảnh, mê và ngộ, có và không, lý và sự. Can đảm
nhìn thẳng vào tự tính của tâm, thì vô tâm ấy bất cứ ở giây phút nào
cũng là Phật. Khi sự phân biệt chủ thể đối tượng đã chấm dứt, và
chính ý niệm ấy cũng chấm dứt nữa, thì lúc bấy giờ trí tuệ có mặt.
Một khi trí tuệ chân chính có mặt thì tâm niệm nào cũng là tâm niệm
Phật, và ở đâu cũng thành đạo, và nơi nào cũng là cõi Phật. Khi đã
thấu hiểu và quán chiếu theo Trí Bát Nhã rồi thì tự chính chúng ta
đem đến cho chính mình những nụ hoa thanh tịnh, hỷ xã, trí tuệ để tự
trang điểm cho chính mình một mùa Xuân Trường Tồn Miên Viễn.
Trang Nhà /
Mục Lục Xuân / Xem Trang Kế Tiếp
|