|
Ba Ngày Giải Phóng Thăng Long
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
- Núi
dậy sấm cho sông lòe chớp
- Cờ
Tây Sơn bay rợp Bắc Hà.
-
(Trả Ta Sông Núi - Vũ Hoàng Chương)
-
-
Nói đến sự kiện lịch sử ba ngày giải phóng Thăng Long là phải
nói đến tài dùng binh thần tốc của Hoàng Ðế Quang Trung và chiến
lược của mưu thần Ngô Thời Nhiệm.
-
Năm
Ðinh Mùi (1787), hay tin Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở Thăng
Long (Hà Nội), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra giết
đi. Lê Chiêu Thống thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người thân tín bị thảm
sát, vội bỏ kinh đô, chạy lên Bắc Ninh rồi tìm đường sang Tàu cầu
cứu. Ðược ít lâu, Vũ Văn Nhậm lại cũng chuyên quyền, Bắc Bình
Vương lập tức lên đường. Mười ngày sau tới Thăng Long (1788), hồi
canh tư, Vương ập vào tổng hành dinh giữa lúc Nhậm còn đang ngủ
say. Vương cho võ sĩ đâm chết ngay trên giường rồi trở về Phú Xuân
(Huế), giao Bắc Hà cho Ðại tư mã Ngô Văn Sở coi việc quân sự; và
Tả thị lang Ngô Thời Nhiệm đảm trách việc chính trị.
-
Ngô
Văn Sở là tướng tâm phúc, theo Vương từ lâu; còn Ngô Thời Nhiệm
đậu Tiến sĩ năm 23 tuổi (1769), vốn là cựu thần nhà Lê, nay được
Bắc Bình Vương tin dùng. Nhiệm gặp Vương đem lòng mến phục và mang
hết sở học uyên bác ra để tận trung báo quốc. Vương bảo với chúng
tướng:
-
-
Trong bọn nhân sĩ Bắc Hà ngày nay ta nhận thấy duy có Nhiệm là tài
thông hiểu tường tận mọi việc. Nhiệm chính là cánh tay phải giúp
ta làm nên đại sự sau nầy.
-
Nhiệm
tổ chức lại guồng máy chính quyền ở Thăng Long, mời một số người
có tài đức ra giúp nước như Phan Huy Ích, Ngô Duy Lưu, Dương
Hành... Trường hợp danh sĩ Ðặng Trần Thường muốn ra cộng tác với
Tây Sơn, nhưng bê tha rượu chè nên không được mời, Thường bất mãn
bỏ đất Bắc vào Nam theo Nguyễn Ánh. Trong khi sự cải tổ đang tiến
hành tốt đẹp thì Lê Chiêu Thống sang Tàu báo cáo mọi việc xảy ra ở
Bắc Hà cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị (Qing Gao Zong):
-
- Họ
Lê là công thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự
quân sang cầu cứu, tính cũng nên thương. Vả, nước Nam vốn là đất
cũ của Tàu. Nếu sau khi cứu được nhà Lê; và lại lấy đất An Nam,
thật là lợi cả đôi đường.
-
Vua
Càn Long chấp thuận luôn đề nghị, rồi huy động binh mã bốn tỉnh
Vân Nam (Yun Nan), Qúi Châu (Gui Zhou), Quảng Ðông( Guang Dong) và
Quảng Tây (Guang Xi) dưới quyền tổng chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị. Ðại
quân gồm 200 ngàn dân công, chia ra làm 3 đạo sang đánh nước ta
vào đầu tháng 11(ta), năm 1788. Lê Chiêu Thống cũng theo gót quân
Thanh về nước.
-
Ðạo
thứ nhất do chính Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh (Hsu Shih
Heng)theo đường Lạng Sơn, qua cửa Nam Quan(Nan Guan) đánh vào.
-
Ðạo
thứ nhì do Ðề đốc họ Ô (Wu) thống lĩnh quân đội Vân Nam và Qúi
Châu từ Tuyên Quang tới (khi xưa đất Hà Giang, Lào Kay, Yên Bái
thuộc tỉnh Tuyên Quang)
-
Ðạo
thứ ba do Ðiền Châu tri phủ Sầm Nghi Ðống (Cen Yi Dong) từ Cao
Bằng đổ xuống.
-
Ngô
Văn Sở được tin quân Thanh xâm phạm lãnh thổ bèn họp các tướng
lãnh để tính kế cự địch. Hầu hết các võ tướng Tây Sơn đều muốn đem
quân chận đánh vì theo cách suy diễn của họ thì quân ta nghỉ ngơi
mà quân Thanh đang nhọc mệt. Lấy quân nghỉ ngơi mà đánh quân mệt
nhọc(dĩ dật đãi lao) thì nhất định phải thắng. Ngô Thời Nhiệm tính
kế rút lui vào đèo Tam Ðiệp là chỗ hiểm yếu để đợi quân Phú Xuân
của Bắc Bình Vương. Ông bảo :
-
-
Ðánh bây giờ là như trứng chọi đá, chi bằng cứ cho chúng ngủ trọ
một đêm rồi mai đuổi nó đi.
-
Ngô
Văn Sở phục là cao kiến, nhưng tỳ tướng của Sở là Phan Văn Lân xin
đánh một trận để thử sức. Sở cấp cho Lân 1000 quân. Trời bấy giờ
rét buốt. Quân Tây Sơn vuợt sông Nguyệt Ðức đánh vào quân Thanh
đang đóng ở núi Tam Tầng. Ðạn của giặc bắn ra như mưa. Quân của
Lân chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn
thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Lân cả sợ, đem
tàn binh chạy về Thăng Long; rồi nhập với đoàn quân của Ngô Văn Sở
đang rút lui.
-
Sau
trận ở Tam Tầng thì Thăng Long bỏ ngỏ. Ba đạo quân Thanh tiến vào
mà không tốn thêm một mũi tên, viên đạn. Tôn Sĩ Nghị nghĩ ngay tới
việc lập đồn lũy bốn phía chung quanh để phòng thủ Thăng Long.
-
Phía
Ðông Thăng Long có sông Hồng như một chướng ngại thiên nhiên. Nghị
còn lập đại bản doanh ngay trên bãi cát giữa sông rồi bắc cầu phao
để tiện việc đi lại.
-
Từ
phía Bắc Thăng Long, chạy ôm vòng sang phía Tây rồi bọc xuống phía
Nam, Nghị cho đắp những chiến lũy như Tây Long Cung, Ðống Ða, Văn
Ðiển, Quỳnh Ðô, Ngọc Hồi, Hà Hồi... Như vậy, Thăng Long nằm trong
khu tứ giác phòng thủ. Sự phòng thủ chặt chẽ và kỹ lưỡng chưa từng
thấy so với thời quân Nguyên, Minh... Nghị vốn là danh tướng của
Thanh triều, văn võ toàn tài, đậu tiến sĩ triều Thanh Thế Tông
(Ching Shih Tsung). Lập được nhiều chiến công trong khi bình định
Ðài Loan (Tai Wan) và dẹp được nhiều cuộc nổi loạn trong nước.
-
Những
kẻ theo giặc, những bọn Khách trú thì yên trí, hớn hở sắm tết. Họ
tin vào tài điều binh của Nghị. Nhưng những người quan tâm đến
tiền đồ đất nước thì lo âu, sợ rằng đất nước ta lại rơi vào vòng
nô lệ.
-
Mấy
năm gần đây, Bắc Hà bị thiên tai, mất mùa ba năm liền. Bây giờ
phải nuôi thêm 300 ngàn quân dân Tàu, nên nhiều nơi dân chúng bị
đói. Ðã vậy, một số quân Thanh ỷ thế làm bậy, hàng ngày kéo nhau
vào nhà dân chúng đánh người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái,
không còn kiêng nể một thứ gì.
-
Ngày
22 tháng 11, Sĩ Nghị làm lễ tại điện Kính Thiên để tuyên đọc tờ sớ
của vua nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
-
Sau
khi được sắc phong, Chiêu Thống nghỉ ngay đến việc đền ơn, trả
oán. Những người trước kia giúp ông, nay được trọng thưởng. Những
kẻ theo Tây Sơn đều bị hành hạ hoặc bị giết. Ðàn bà trong tôn thất
lấy tướng sĩ Tây Sơn đã có mang thì Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy
bào thai quăng đi để cho chết cả mẹ lẫn con. Hoàng đệ Lê Duy Lưu,
phò mã Dương Hành bị chặt chân quăng giữa chợ. Thậm chí tấm bia
tiến sĩ của Ngô Thời Nhiệm dựng ở văn miếu cũng bị đục bỏ.
-
Thấy
Lê Chiêu Thống tàn ác như vậy, bà Thái Hậu là mẹ ruột cũng bất
bình:
-
- Ta
cay đắng mới xin được quân(Tàu) đến cứu. Nay đền ơn, mai trả oán,
phá hại thế nầy, nước nhà phỏng còn gì nữa? Việc hỏng đến nơi rồi!
-
Còn
việc quân, đáng lẽ phải thúc đẩy gấp thì thầy trò Chiêu Thống
chẳng hề nghĩ đến, khiến nhiều đạo quân cần vương chán nản rồi bỏ
đi.
-
Ngày
24 tháng 11 năm Mậu Thân(1788), quân Tây Sơn vào đến đèo Tam Ðiệp.
Ngô Văn Sở cho quân giữ vững vị trí, đồng thời đưa tin cấp báo vào
Phú Xuân việc Tôn Sĩ Nghị dưới danh nghĩa Cứu Lê đem quân vào
Thăng Long, khí thế rất mạnh mẽ.
-
Ðược
tin nầy, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem
binh ra đánh. Các tướng đến xin Ngài chính ngôi tôn, để yên lòng
người rồi hãy khởi binh.
-
Bắc
Bình Vương sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn (gần phi trường Phú Bài, Huế
bây giờ) ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân. Vương làm lễ lên ngôi
Hoàng Ðế; rồi thống lĩng thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh. Ðến
Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh. Cả thảy 100 ngàn
quân và 100 con voi trận.
-
Vua
Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền ba quân phải cố gắng đánh
giặc cứu nước. Ðoạn kéo quân ra Bắc. Ðến ngày 20 tháng 12 thì đến
đèo Tam Ðiệp. Ngô văn Sở, Ngô Thời Nhiệm ra tạ tội. Nghe Sở, Nhiệm
tâu trình xong, nhà vua mỉm cười rồi bảo chúng tướng:
-
- Kế
hoạch rút quân của Nhiệm là có mưu lược, thật hợp ý ta.
-
Ðể
cho quân Tàu thêm kiêu căng, Nhiệm viết một lá thư, rồi cử một sứ
đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị ngỏ ý
cung thuận với thiên triều, đồng thời trả bọn tuần dương binh của
nhà Thanh gồm 40 người bị Tây Sơn bắt khi còn ở Thăng Long.
-
Sĩ
Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân viên sứ
đoàn, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và bảo với tướng sĩ
là sau khi ăn tết Kỷ Dậu(1789), định ngày mồng 6 tháng Giêng sẽ
xuất quân, bắt vua tôi Tây Sơn cùng đánh Quảng Nam để quét sạch cả
gốc lẫn ngọn.
-
Vua
Quang Trung cũng truyền hịch cho tướng sĩ ăn Tết nguyên đán trước.
Ðịnh ngày mồng 7 tháng giêng Kỷ dậu thì vào thành Thăng Long mở
tiệc ăn mừng.
-
Ngày
30 Tết, quân Tây Sơn tới bến đò Giản Thủy, tức Gián Khẩu, Ninh
Bình bây giờ(khoảng 80 cây cố phía Nam Tây Thăng Long). Tướng nhà
Lê là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Bọn quân tiền sát nhà
Thanh cũng bở vía chạy theo, nhưng tới Phú Xuyên, Hà Ðông bị bắt
và bị giết hết; vì vậy giặc mất liên lạc, không biết chiến cuộc
đang ở thế bất lợi cho chúng.
-
Quân
Thanh và bọn vua tôi Lê Chiêu Thống đang vui chơi ăn Tết thì Tây
Sơn cũng đang âm thầm tiến đến Thăng Long.
-
Nhìn
vào hệ thống đồn lũy của quân Thanh, ta phải công nhận Nghị là
người có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Những đồn lũy vừa kiên cố
vừa có sự liên lạc chặt chẽ với nhau. Thật khó phá quá! Chính vì
vậy mà ta mới thấy tài dụng binh tuyệt vời của vua Quang Trung.
Lúc thì tập kích bất ngờ, khi thì tấn công vũ bão dứt điểm để gây
tâm lý hoảng hốt tạo thành thế sụp đổ dây chuyền.
-
Mục
tiêu đầu tiên là đồn Hà Hồi(phía Nam Thăng Long 20 km). Ngày mồng
3 Tết, năm Kỷ Dậu(1789), nữa đêm khoảng giờ Tý. Quân Thanh đang
ngủ say sưa, bỗng một tiếng pháo lệnh; rồi tiếng loa nổi lên,
tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng; nhất là tiếng trống trận Tây
Sơn càng khủng bố tinh thần. Quân giặc tưởng như có thiên binh vạn
mã, đang ào tới, khủng khiếp như trời long đất lở. Quân giặc không
còn hồn vía, liền kéo cờ hàng. Quân ta không tốn một mũi tên, một
viên đạn, vào tiếp thu quân nhu và khí giới.
-
Chiếm
xong Hà Hồi, đại quân tức tốc tiến đánh Ngọc Hồi(phía Bắc Hà Hồi
3km). Ðêm mồng 3 Tết, trời tối đen như mực, quân Tây Sơn phải đốt
đuốc. Ðàn voi trận gồm 80 con do vua Quang Trung dẫn đầu. Ðoàn
tượng binh nầy được huấn luyện kỹ càng, tiến lui khớp nhịp với bộ
binh. Sự huấn luyện voi vào việc chiến đấu có từ thời các chúa
Nguyễn Ðàng Trong, nay quân Tây Sơn được thừa hưởng cái truyền
thống đó. Nguyên, tại làng Nguyệt Biều(đối ngạn chùa Thiên Mụ) là
nơi mà xưa kia, nhà Chúa có một đấu trường gọi là Hổ Khuyên để cho
voi đấu với hổ. con hổ bị nhổ hết móng vuốt rồi cho đánh nhau với
voi, sau trận đấu, thường là hổ bị voi đạp chết. Mục đích đấu Hổ
Khuyên là để huấn luyện voi trận (trận đấu sau cùng là năm 1904).
-
Quân
Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa thấy voi hoảng sợ rống
lên rồi chạy tán loạn. Ðịch bị tan vỡ ngay hàng ngũ, vội rút vào
cố thủ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Ðạn trong đồn bắn
ra như mưa. Quân ta vẫn cảm tử tiến tới. Ðể ngăn tên đạn, quân ta
đã chuẩn bị trước, lấy 60 tấm ván gỗ, cứ 3 tấm xếp lại thành một
bó, ngoài phủ rơm nhào với bùn; rồi 10 người khiêng một bó đi
trước, lưng giắt đoản đao, theo sau là 20 khinh binh tiến thành
hàng chữ nhất. Quân Thanh đốt thuốc súng, bắn hỏa pháo, khói mù
mịt bốc ra để theo gió Bắc thổi tới. Quân ta mờ mắt, không tiến
được nữa và bắt đầu lâm vào thế bất lợi. Bỗng gió đổi hướng, khói
lại thổi ngược về phía địch. Dưới ánh đuốc chập chờn đám quân có
ván rơm liền lăn xả vào tiền tuyến, quăng ván xuống để đè lên
chông sắt. Bọn có đoản đao ùa theo, lướt qua lằn đạn, phá cửa lũy
tràn vào đồn như nước vỡ bờ.
-
Quân
hai bên bắt đầu đánh cận chiến. Lớp nầy ngã, lớp kia xông tới. Sắt
thép đụng nhau vang lên những tiếng lanh lảnh rợn người. Một thứ
võ khí mới của quân Tây Sơn là súng hỏa hổ, rất lợi hại khi đánh
gần. Súng nầy là một cây bương rỗng ruột, nhét đầy thuốc pháo ở
trong, được xử dụng như súng phun lửa ngày nay. Mùi thịt cháy khét
lẫn mùi thuốc súng và máu tanh nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực góc trời.
Lợi hại nhất vẫn là đàn voi xung kích. Chúng điên cuồng đạp chết
biết bao địch quân.
- Quân Thanh chịu
không nổi, bỏ đồn chạy thoát thân. Bọn chúng lại rơi vào các máy
ngầm, các hầm chông và những quả địa lôi do chính chúng gài đặt
trước. Những tên sống sót, quần áo tả tơi, thân thể đầy máu chạy
về phía những đồn lũy giặc ở phía Bắc. Chính đám tàn binh nầy làm
cho quân giặc ở những đồn lũy khác sợ hãi và mất tinh thần chiến
đấu.
-
Ðến
sáng, đồn Ngọc Hồi thất thủ. Ðoàn quân chiến thắng của ta hò reo
tiến thẳng lên Thăng Long. Trên đường tiến quân, hạ thêm hai đồn ở
Văn Ðiển và Yên Quyết một cách dễ dàng. Các tướng Tàu như Ðề đốc
Hứa Thế Hanh, Tả dực Thượng Duy Thăng (Shang Wei Sheng), Tiên
phong Trương Triều Long(Zang Zhao Long) bỏ mạng ngay ở chiến địa.
-
Ðồng
thời một đạo quân của Ðô đốc Long cầm đầu theo kế hoạch đã tiến
đến Khương Thượng, vây kín đồn binh của Sầm Nghi Ðống. Quân Thanh
cầm cự, nhưng khi kiệt lực mà không có viện binh và đạn dược. Họ
Sầm không chịu đầu hàng, chạy tới gò Ðống Ða (nay thuộc quận Ðống
Ða, thuộc Hà Nội) treo cổ tự vẫn trên cành đa.
-
Trưa
ngày mồng bốn Tết, Tôn Sĩ Nghị được tin các đồn lũy phía Nam và
Tây Nam đã rơi vào tay Tây Sơn. Kỵ binh đi do thám về báo cáo thêm
là quân Nam đang rầm rộ kéo vào các cửa Ô, có cả đàn voi trận hung
ác dẫn đầu. Nghị mất tinh thần, không kịp đóng yên ngựa, cùng một
số thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà, chạy sang Bắc Ninh. Quân
các doanh trại cũng chạy theo chủ tướng, xô đẩy nhau không chút gì
là trật tự. Cầu phao bị đè nặng, chịu không nổi. Cầu sập, hàng vạn
quân Tàu chết đuối. Nghị chạy đến Phượng Nhỡn lại rơi vào ổ phục
kích của Ðô đốc Lộc. Hai chục thớt voi xông ra giày dạp quân Thanh
chết vô số kể. Nghị và bọn thủ túc mất tinh thần, chạy thục mạng
làm đánh rơi cả những sắc thư bí mật của vua Càn Long gửi cho họ
Tôn những chỉ thị đánh chiếm nước ta để trở thành thuộc quốc như
xưa. Lê Chiêu Thống bám sát Tôn Sĩ Nghị theo về Tầu, sau bị triều
đình Mãn Thanh bắt phải ăn mặc và phải theo phong tục Trung Hoa
rồi chết nhục nhã ở Quế Lâm(Gui Lin), tháng 10 năm Quí Sửu (1793)
hưởng dương 28 tuổi.
-
Ngày
Mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), giờ Thân (khoảng 4 giờ chiều), vua Quang
Trung cùng đại quân và 80 thớt voi tiến vào Thăng Long. Dân kinh
đô bày hương án đón Ngài, họ mong quân giải phóng như đại hạn mong
mưa. Tính ra từ khi xuất quân ở Phú Xuân đến mồng 5 Tết là 40
ngày. Nhưng nếu tính từ khi bắt đầu đánh Hà Hồi lúc nữa đêm ngày
mồng 3 Tết đến chiều mồng 5; thì tất cả chỉ mất gần 3 ngày. Khi
mới xuất quân, Ngài dự trù mồng 7 tháng giêng vào Thăng Long, như
vậy là giải phóng Thăng Long sớm được 2 ngày.
-
Thanh
triều được tin Tôn Sĩ Nghị thua trận một cách nhục nhã, vua Càn
Long cử ngay Phúc Khang An(Fu Kang An) làm Lưỡng Quảng Tổng Ðốc,
định đem 500 ngàn quân đánh trả thù.
-
Phúc
Khang An ra đến Quảng Tây(Guang Xi) nghe tiếng quân Nam thế mạnh,
nên sợ và có ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi
hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.
-
Vua
Quang Trung cũng không muốn chiến tranh lúc này. Một mặt Ngài sai
Ngô Thời Nhiệm viết biểu tường trình, trong đó có đoạn:
-
-
Nước Nam vốn không giám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ
Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin
giảng hoà...
-
Một
mặt nhà vua cho một vị quan đút lót tiền bạc cho Phúc Khang An và
Hoà Thân(He Qui), một nội quan rất thân cận của vua Càn Long. Nhờ
vậy mà Thanh triều bỏ ý định đánh trả thù. Vua Quang Trung ngợi
khen Ngô Thời Nhiệm:
- - Ngòi bút của Thời
Nhiệm có sức mạnh phi thường, ngăn được 50 vạn quân sĩ nhà Thanh.
-
Ngày
26 tháng 7 năm 1789, tiếp được biểu cầu phong của vua Quang Trung,
Phúc Khang An, Hoà Thân... đề nghị Thanh Triều phong cho vua Quang
Trung là An Nam Quốc Vương. Nhưng vua Càn Long muốn biết mặt người
anh hùng đã đánh tan 30 vạn dân quân của họ Tôn trong vòng 3 ngày,
nên vời quốc vương ta sang chầu. Vua Quang Trung chọn Phạm Công
Trị có hình vóc giống mình đi thay. Tới Yên Kinh (Yan Jing), vua
Nam và phái đoàn được triều Thanh đón tiếp hết sức long trọng. Lúc
về Vua Nam được Càn Long sai thợ vẽ truyền thần để ban cho cùng
nhiều quí vật.
-
Ngô
Thời Nhiệm còn gửi Thanh triều Biểu Ðòi Bỏ Lệ Cống Người Vàng.
Biểu nầy lợi ích không những cho triều Tây Sơn mà còn tiết kiệm
bao nhiêu vàng cho ngân qủy quốc gia của những triều Nguyễn sau
nầy. Cái lệ cống người vàng có từ năm 1428 khi mà Bình Ðịnh Vương
Lê Lợi sau khi đánh đuổi quân nhà Minh, lên ngôi vua. Nhà Minh
phong cho Lê Lợi làm An Nam Quốc Vương, nhưng lệ cứ ba năm một lần
phải cống vật sang Trung Quốc. Ngoài những quí phẩm, bắt buộc phải
có 2 tượng bằng vàng nặng bằng người thiệt(Ðại Thân Kim Nhân) để
thế mạng cho Liễu Thăng(Liu Sheng) và Lương Minh (Liang Ming) bị
giết trong trận phục kích ở Chi Lăng. Các vua Lê sau này, đến Mạc
và những vua Lê đời Trung hưng cũng vẫn tiếp tục lệ cống người
vàng. Vua Quang Trung sai Ngô Thời Nhiệm viết biểu trần tình, lý
luận rằng, lệ cống người vàng để thế mạng đã trải qua hơn 360 năm,
nếu Lương Minh và Liễu Thăng không bị quân Lê giết thì cũng đã
chết lâu rồi. Vua tôi nhà Thanh thấy nước ta hùng cường đành chịu
bãi bỏ lệ đó.
-
Năm
1792 vua Quang Trung thấy Ðại Việt đã đủ mạnh, muốn theo gương Lý
Thường Kiệt để đánh Tàu. Ngài sai Ngô Thời Nhiệm thảo liên tiếp
hai bức thư gửi cho vua Càn Long đại ý muốn kết hôn với công chúa
nhà Thanh và muốn xin lại đất Lưỡng Quảng (Liang Guang) làm của
hồi môn.
-
Những
bức thư nầy của vua Quang Trung chủ ý là khiêu khích, nếu không
được chấp thuận thì lấy cớ để khởi binh. Nhưng cả hai yêu sách đều
được chuẩn y cả: việc xin hai tỉnh Quảng Ðông(rộng 160,000Km2),
Quảng Tây(236,300 Km2) thì vua ưng cho một, tức là cho tỉnh Quảng
Tây để làm chỗ đóng đô. Việc cầu hôn được mỹ mãn hơn. Vua Càn Long
liền sai bộ lễ sửa soạn nghi lễ cưới gả. Bên nhà trai, Ngô Thời
Nhiệm cầm đầu sứ đoàn đi đón dâu. Sứ đoàn tới Yên Kinh(tức Bắc
Kinh bây giờ) được vài ngày thì được tin vua Quang Trung đột ngột
từ trần vào ngày 29 tháng 7 năm 1792, lúc đó Ngài 40 tuổi. Sứ đoàn
đổi lễ cưới thành lễ tang!
-
Câu
chuyện khôi phục Lưỡng Quảng và mối duyên Việt Thanh tan ra mây
khói. Phái đoàn ta lặng lẽ rời Yên Kinh. (Tài liệu Ðại Chính Biên
Liệt Truyện quyển 30, tờ 41b thì việc cầu hôn và đòi Lưỡng Quảng
trên đây, nhưng nhiều sách khác chép lại là khi sứ đoàn đến Yên
Kinh thì được tin vua Quang Trung mất, liền bỏ tờ Biểu Khiêu Khích
và đổi ra tờ Biểu Cáo Ai).
-
Sau khi vua Quang Trung mất, thái tử Quang Toản mới 10 tuổi lên
ngôi. Toản tin dùng người cậu là Thái Sư Bùi Ðắc Tuyên. Ðắc Tuyên
chuyên quyền, chỉ dùng những người chân tay thân tín. Những công
thần như Ngô Thời Nhiệm, Trần Văn Kỷ, Vũ văn Dũng... thì không
được trọng dụng nữa. Triều đình Tây Sơn bắt đầu xuống dốc.
-
Năm
1798, Ngô Thời Nhiệm từ quan, về mở Trúc Lâm Thiền Viện tại phường
Bích Câu(gần Văn Miếu, Hà Nội bây giờ), lấy đạo hiệu là Hải Lương
Thiền Sư và tự nhận là kế thừa phái Trúc Lâm Yên Tử. Về sách đạo
ông soạn những cuốn như Tam Tổ Hành Trạng, để ghi lại công đức của
phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tôn, Pháp Loa và Huyền Quang. Cuốn Trúc
Lâm Tông Chi Nguyên Thanh là cuốn trình bày tư tưởng Phật Giáo để
rọi sáng cho ý thức hệ Nho Giáo hầu mong diễn giải những vấn đề có
giá trị văn học.
- Năm 1802, nhà Tây
Sơn sụp đổ. Chúa Nguyễn Ánh giành được đế nghiệp và thống nhất sơn
hà, lấy niên hiệu là Gia Long. Vua Gia Long giao cho Ðặng Trần
Thường xét xử những cựu thần Tây Sơn. Người đầu mà Thường nghĩ
tới là Ngô Thời Nhiệm. Những năm còn trẻ, Thường và Nhiệm là bạn
thơ. Khi bàn về thơ văn hay tranh luận về thời cuộc bao giờ Thường
cũng đuối lý, khiến Thường đem lòng đố kỵ. Có lần túng thiếu,
lương dạy học không đủ ăn, Thường đến nhà Nhiệm mượn tiền, làm bài
thơ:
-
-
Ngất ngưởng đồ Thường đã đến đây,
-
Có
tiền xin mượn lấy năm chầy.
-
Năm
chầy không được ba chầy vậy.
-
Phiếu
mẫu đền ơn cũng có ngày.
-
Ðã
không có tiền mà giọng ngất ngưởng như kẻ say rượu Nhiệm không cho
mượn, Thường giận dỗi ra về.
-
Nhưng
điều mà Thường hận nhất là khi Bắc Bình Vương giao cho Nhiệm được
quyền tuyển chọn sĩ phu Bắc Hà ra giúp nước thì Thường không được
tiến cử. Ðã mấy lần Thường tới nhà Nhiệm ngỏ ý muốn xuất chính
nhưng đều bị từ chối. Thường bỏ đất Bắc vào Nam theo chúa Nguyễn
Ánh. Sau làm tới chức Binh Bộ Thượng thư.
-
Bây
giờ trong tư thế của người thắng kẻ thua! Ngô Thời Nhiệm bị căng
nọc ở giữa sân Văn Miếu(Thăng Long). Ðặng Trần Thường chọn Văn
Miếu vì Ngô Thời Nhiệm là sĩ phu, xuất thân cửa Khổng sân Trình mà
lại đi theo giặc Tây Sơn, làm ô nhục Thánh Hiền.
-
Trước
khi đánh đòn, Ðặng Trần Thường mỉa mai ra một vế đối:
-
- Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai.
-
Ngô
Thời Nhiệm liền đáp:
-
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
-
Xuân
Thu là tên một quyển sách nổi tiếng do đức Khổng Tử san định. Ðem
chữ Xuân Thu để đối chữ Khanh Tướng để trả lời cho Ðặng Trần
Thường biết là những sĩ phu giúp Tây Sơn thật xứng đáng là học trò
Khổng Mạnh. Lẽ ra Thường là người quân tử thấy Nhiệm đáp hay như
vậy thì tha tội. Nhưng Thường vẫn ra lệnh đánh đủ 100 roi. Thường
lại có ác ý bảo thuộc hạ đánh mạnh tay cho chết. Ngô Thời Nhiệm
chết tại sân Văn Miếu ngày 16 tháng 2 năm Quí Hợi (09 tháng 03 năm
1803). Tiến sĩ Phan Huy Ích cũng bị Thường sai đánh đòn và cho về
quê làm ruộng, nhưng không được hành nghề dạy học.
-
Sau
nầy, chính Ðặng Trần Thường cũng bị Lê Chất dâng biểu tố cáo là
nhũng lạm khi ở Bắc Thành. Thường bị triều đình nhà Nguyễn nghị án
xử giảo(thắt cổ) năm 1816.
-
Ðọc
những trang lịch sử triều Tây Sơn, chúng ta không khỏi thương tiếc
vua Quang Trung, Ngô Thời Nhiệm và những chiến sĩ đã bỏ mình cho
cuộc giải phóng Thăng Long. Nếu Hoàng Ðế Quang Trung và mưu thần
Ngô Thời Nhiệm sống thêm được ít năm nữa thì cục diện nước Việt
chắc chắn đổi khác; vì với một lãnh thổ rộng lớn, bao gồm đất
Lưỡng Quảng; với một sự chuẩn bị chu đáo tới khi Thái Tử Quang
Toản lớn khôn thì chưa chắc nước Việt Nam đã bị một trăm năm nô lệ
của người Pháp và đất nước không phải chịu cái nhục như bây giờ.
-
-
--- o0o ---
-
-
Trang Nhà
/ Mục Lục Xuân /
Xem Trang Kế Tiếp
|
|