|
- Thư Xuân
- Biết Gởi Về
Ðâu
- Nhất Quán
- --o0o--
-
- Sau biến cố 1975,
mọi sinh hoạt trong gia đình có liên hệ với chính quyền cũ gần
như bế tắc. Một trong những khó khăn đó là con em của sĩ quan
thuộc chế độ cũ không có quyền ưu tiên đi học. Gia đình Phượng
cũng cùng chung trong số phận đó. Vì tương lai các con nên mẹ
Phượng quyết định vượt biển, trong lúc ba Phượng con đang kẹt
trong trại cải tạo.
- Ðưọc định cư ở Mỹ là
một sự may mắn, mọi người thường nói như thế. Tuy nhiên đối với
Phượng lại khác, Phượng cảm thấy cô đơn lạc lõng trong xã hội
vật chất nầy, mặc dầu Phượng được đi học và tương lai sẽ xán
lạn hơn. Phượng thích cuộc sống ở tại quê nhà, vì dầu sao đi nữa
cũng là nơi chôn nhau cắt rún, nhất là những lúc về chiều, trên
bến Ngự mọi người tấp nập, duới sông Hương nước lững lờ trôi.
Hình ảnh đẹp của Huế, nơi chào đời của Phượng thật mộng mơ, dễ
thương yêu nhung nhớ.
- Một phần vì để khỏa
lấp nếp sống cô lẻ nơi xứ lạ quê ngưới, một phần vì sự giúp đở
của nhà thờ, nên mẹ Phượng thường dẫn gia đình đi lễ vào sáng
Chủ Nhật. Cũng từ đó Phượng bắt đầu biết đạo.
- Thói quen của Phượng
là mỗi buổi chiều đi học về, Phượng thường ra đứng trước cửa sổ
rũ tóc, chải tóc và ngắm mây trôi. Ðồng thời cũng để nghe tiếng
tụng kinh gõ mõ vang vọng từ một ngôi chùa bên cạnh nhà Phượng.
Âm điệu là lạ khác hẳn với lối đọc Thánh Kinh ở nhà thờ, nơi
Phượng thường đi lễ. Ban đầu âm điệu khác lạ đó không làm cho
Phương mấy thích thú, nhưng có lần Phượng đi học về trễ, thời
tụng kinh cũng đã xong, nên Phượng chỉ đứng rũ tóc chãi tóc mà
trong tâm tư dường như có một cái gì thiếu vắng. Cũng từ đó
Phượng mới biết thói quen và lời kinh cầu đã thâm nhập vào tiềm
thức của Phượng từ bao giờ mà Phượng không hay biết.
- Như mọi buổi chiều,
tiếng kinh cầu vang vọng trong tai, trong cuộc sống hiện tại của
Phượng. Nhưng hôm nay một âm điệu mới lạ trẻ trung hơn, ngân nga
trầm bổng hơn. Có những lúc âm vang cao vút như rồng thiên cuộn
gió, có những khi trầm hẳn vào hư vô như gió thoảng mây bay. Có
những lúc tha thiết như lời nguyện cầu gọi người sớm quay đầu vể
nẽo giác. Có những khi nhẹ nhàng như mẹ hiền ru con ngủ. Ban đầu
Phượng ngạc nhiên vì lời kinh cầu huyền diệu đó, tuy nhiên cũng
làm Phượng thích thú. Vì lời kinh cầu làm cho Phượng cảm thấy
nhẹ nhàng thanh thản trong tâm hồn. Dòng thời gian cứ âm thầm
trôi chảy, và lời kinh cầu của những lúc về chiều ấy, cũng đã
thâm nhập vào tiềm thức của Phượng. Một động cơ vô hình thúc đẩy
tính tò mò sẳn có, và cuối cùng Phượng đã biết lời kinh cầu
huyền diệu đó là tiếng đọc kinh của một Chú Tiểu độ khoảng 18
hoặc 20. Thấy người quen tiếng, nhưng không biết tên, vì lẽ dễ
hiểu là Phượng chưa một lần tiếp xúc. Phượng không dám gần gũi
vì nghĩ mình là phận con gái, con nhà có giáo dục, đã vậy lại
thường theo mẹ đi nhà thờ, dầu cho là không phải ý của Phượng.
Nhưng dẫu sao đi nữa đó cũng là một khoảng ngăn cách đủ để
Phượng khó mà tiếp xúc, mặc dầu trong thâm tâm của Phượng rất
muốn làm quen với Chú Tiểu ấy để tìm hiểu sự tu học trong nếp
sống của thiền môn.
- Chiều nay như thường
lệ, phơi tóc, chãi tóc xong, đáng lý Phượng vào trong phụ mẹ để
nấu bếp, nhưng không hiểu tại sao Phượng cứ chần chờ, nôn nóng
đi qua lại trước hành lang như trông ngóng, chờ đợi một cái gì?
Phải, Phượng nôn nóng chờ đợi một âm điệu của lời kinh cầu
nguyện nồng ấm, thân thiết, trìu mến từ một Chú Tiểu mà Phượng
hằng ao ước muốn được làm quen. Phượng tiếp tục chờ đợi. Phượng
tự hỏi:
- - Quái lạ, hôm nay
đã 6:30 rồi mà vẫn chưa thấy Chú ấy tụng kinh, tại sao?
- Trong lúc Phượng còn
đang thắc mắc, thì ánh mắt của Phượng chợt sáng rực vì từ sau
hậu điện của Chùa, một bóng áo vàng thấp thoáng tiến về chánh
điện. Phượng đứng lặng lẽ hồi hộp, chờ đợi để thưởng thức tiếng
kinh cầu huyền diệu quen thuộc. Cũng như mọi lần, tiếng chuông
mõ ngân vang, và sau đó lời kinh cầu, nhưng hôm nay âm điệu lại
khàn khàn chứ không thảnh thót như mọi ngày. Ban đầu Phượng cứ
ngỡ là nhà sư nào đó đã thay thế cho Chú Tiểu để phụ trách buổi
lễ chiều nay. Nhưng nhìn kỷ, thì ra vẫn Chú Tiểu quen thuộc mà
Phượng đã biết. Phượng đoán có lẽ Chú ấy đau thì phải? Tâm tư
còn đang suy nghĩ thực hư về con người mà Phượng chưa từng tiếp
xúc, thì đột nhiên tiếng kinh cầu dứt hẳn, tiếp theo đó là một
tiếng bịch, một bóng người ngã dài trong chiếc áo vàng trước
chánh điện. Phượng hoảng hốt kêu lớn.
- - Trời ơi! Chú Tiểu ấy đã té,
tại sao vậy?
- Phượng đứng run rẩy như cành
liễu trước gió, vì không biết làm sao để cứu người trong lúc
hoạn nạn. Nhìn trước nhìn sau trong chùa không có một bóng
người, Phượng muốn vượt rào chạy qua để giúp Chú. Tuy nhiên từ
khi nhà dời về đây hơn một năm, Phượng chưa từng đặt chân đến
cửa Chùa vì Phượng theo đạo Chúa, một phần vì gia giáo nghiêm
ngặt, cho nên Phượng không biết gì nhiều về người bạn láng
giềng, một phần Phượng không dám ra ngoài giờ nầy vì sợ mẹ la
ham chơi, nên Phượng hết sức e ngại. Suy tới nghĩ lui, mắt nhìn
bóng người rũ dài trên điện Phật, Phượng cảm thấy xót xa, rối
loạn. Cuối cùng lương tâm nhân đạo của con người không cho phép
trước hoàn cảnh nguy khốn, nên Phượng quyết định phải cứu người
trong lúc cần phải hy sinh danh dự của chính mình. Thế là Phượng
vượt rào chạy bay vào điện Phật, đến bên cạnh Chú Tiểu, Phượng
cảm thấy lòng mình xao xuyến, tay chân run rẩy khi nhìn thấy đôi
mắt của Chú Tiểu nhắm nghiền, mặt xanh ngắt không còn một hột
máu. Sợ quá, một lần nữa Phượng lại chạy lui chạy tới, tìm kiếm
trước sau coi có người nào khác có thể giúp Chú không? Nhưng
khung cảnh Chùa vắng, không có một bóng người, nên Phượng đành
quay trở lai chánh điện, dùng hết sức mình để dìu Chú vào một
góc tường bên cạnh. Thân hình của Chú không lớn lắm, nhưng sức
con gái, nên Phượng phải chật vật, khó khăn lắm mới đặt Chú vào
góc tường như ý định. Sau đó Phượng vội vã chạy vào bếp mở nước
nóng và dùng khăn tay của mình hấp nóng để đắp lên trán cho Chú,
với hy vọng Chú sẽ sớm tỉnh lại. Trong lúc ngồi chờ đợi, nhìn
khuôn mặt hiền hậu nhưng thông minh của Chú, Phượng chợt cảm
thấy trong lòng có một sự cảm mến lạ lùng. Như có lần Phượng đã
suy đoán, có lẽ Chú ấy cũng vào tuổi của Phượng hoặc lớn hơn hai
ba tuổi là nhiều, nhưng có lẽ Chú sống trong nếp sống thiền môn
lâu ngày, và được sự huấn luyện của sư phụ nên Chú có vẻ đạo mạo
quá.
- Ngồi bên cạnh Chú
Tiểu trong một ngôi Chùa vắng người vào lúc hoàng hôn, nhưng
Phượng cảm thấy ấm áp lạ thường. Chính Phượng cũng không hiểu
tại sao, một con người ngoan đạo như Phượng, vả lại là thân gái
mà có thể chăm sóc một người xa lạ dưới mái Chùa cổ kính nầy.
Con người nầy là ai, tên gì, từ đâu đến, cho đến giờ phút nầy
Phượng vẫn chưa biết lai lịch của Chú? Còn đang đăm chiêu suy
nghĩ, chợt nghe tiếng thảng thốt của Chú Tiểu:
- - Ủa cô là ai, sao
lại đến đây giờ nầy?
- Nghe tiếng nói
Phượng giật mình trở về với thực tại. Thì ra Phượng còn đang
miên man suy nghĩ thì Chú ấy tỉnh lại lúc nào mà Phượng không
hay. Tuy mừng rở nhưng Phượng vẫn giữ vẻ bình tĩnh đáp lại:
- - Nhà Phượng ở bên
kia kìa, vừa nói Phượng vừa đưa bàn tay chỉ về hướng nhà mình,
nơi của sổ nho nhỏ, chỗ Phượng thường đứng phơi tóc và nghe tụng
kinh. Nuốt xong nước bọt Phượng nói tiếp:
- - Thấy Chú đang tụng kinh đột
nhiên ngã lăn ra, Phượng thấy không có ai nên mới mạo muội qua
đây để giúp Chú. Nói đến đây Phượng chợt nhớ đến lúc nãy, khi
đẩy, khi lôi kéo..v..v.. chợt nhiên mặt Phượng đỏ lên vì hổ thẹn
và không nói ra lời, nên cứ ấp a ấp úng mãi.
- Như không để ý đến
thái độ ấp úng của Phượng, Chú Tiểu gật đầu nói:
- - À, thì ra là như
vậy, tôi thành thật cảm ơn cô nhé.
- - Ở đây đâu có cô
nào, chỉ có mình Phượng thôi. Chú đừng xưng hô như vậy Phượng
không chịu đâu.
- - Cô tên là Phượng
à, tên đẹp quá nhỉ?
- - Phượng thì tên
Phượng còn Chú thì tên gì, tại sao lại ở Chùa có một mình, trong
lúc Chú đau yếu lại không có ai giúp đỡ Chú hết vậy?
- Phượng liến thoắng
ngồi bên cạnh hỏi han trò chuyện, và quên đi những sợ hãi ban
đầu, quên đi mình đang nói chuyện với một người xa lạ, khác phái
trong khung cảnh hoang vắng, cổ kính nhưng ấm áp.
- - Tôi tên T.
T. Theo thầy vượt biển qua đây cũng hơn năm năm, nhưng vì bận
một vài chuyện nên phải ở lại Nữu Ước một thời gian, trong lúc
Thầy tôi về California trước. Xong chuyện rồi tôi mới về đây với
Thầy tôi, đến nay cũng hơn sáu tháng. Cha mẹ anh em tôi còn ở
lại Việt Nam.
- Biết Chú Tiểu
qua đây chỉ có một mình nhưng Phượng vẫn hỏi:
- - Vậy Chú qua
đây chỉ có một mình phải không?
- - Vâng , tôi
qua đây chỉ có một mình.
- - Chú có cảm
thấy buồn, và nhớ cha mẹ chú không?
- - Buồn thì có
buồn vì đã xa gia đình và quê hương, lúc muốn quay về thăm thì
cũng hơi khó. Nhưng cũng có một phần an ủi vì tôi ở Chùa từ thuở
bé, cho đến lớn và trưởng thành đều nhờ cơm áo của thập phương
bá tánh, cho nên dù ở đây hay ở Việt Nam thì thân bằng quyến
thuộc của tôi cũng là bá tánh. Còn về phần Cha Mẹ, thì tôi theo
Thầy từ lúc nhỏ nên tình gia đình, Cha Mẹ tôi coi như là một đại
ân nhân, vì người đã sinh ra tôi. Do đó nhớ thì không có nhớ, vã
lại trong thời Công Phu Sáng Ðức Phật cũng có dạy:
- - Tương thử
thâm tâm phụng trần sắc
- Thị tắc danh vi báo Phật ân.
- Theo ý nghĩa nầy tôi
cố gắng tu và học hỏi cho giỏi, làm cho cha mẹ tôi mừng là báo
đền công ơn sanh thành của người rồi. Hơn nữa cha mẹ biết tôi
đang sống gần thầy hay, bạn tốt chắc ông bà cũng yên tâm, nên
tôi cũng không có gì lo lắng cả.
- Phượng ngồi lắng
nghe Chú Tiểu nói về đạo lý, mặc dầu Phượng không hiểu cái gì
là: Tương thử thâm tâm phụng trần sắc, cái gì là thị tắc danh vi
báo Phật ân, tuy nhiên Phượng cũng biết Chú Tiểu ở Chùa lâu năm
nên am hiểu về Phật Pháp nhiều, và những gì mà Chú đang nói tất
nhiên phải hay. Có lẽ là Phượng có nhiều thiện cãm với Chú, nghĩ
như vậy Phượng gật đầu tán thưởng. Chờ cho Chú Tiểu nói dứt lời,
Phượng tiếp theo:
- - Chú học với ai mà
nói hay quá vậy? Thế nào tôi cũng phải học hỏi đạo lý với Chú
đó, Chú có bằng lòng dạy cho tôi không?
- Phượng liến thoắng
mà quên đi mình là người đạo Chúa.
- - Thầy Bổn Sư tôi
dạy. Việc dạy thì tôi không dám, nhưng nếu Phượng không chê tôi
dốt, tôi biết gì thì chỉ cho Phượng cái đó.
- - À Chú, Thầy của
chú ở đâu mà nãy giờ tôi không thấy?
- - Thầy tôi đi làm
phật sự ở tiểu bang khác đã hơn ba hôm rồi, có lẽ cũng sắp về
nay mai. À, cô Phượng, cô thích học giáo lý, có lẽ gia đình của
cô phải là một Phật Tử thuần thành, vậy sao tôi không thấy cô và
gia đình đi về Chùa lễ Phật?
- Nghe Chú Tiểu
hỏi đến đây Phượng mới giật mình, vì gia đình Phượng là Ðạo Chúa
chứ không phải là đạo Phật. Phượng là con người thông minh và
thầm kín, nên Phượng không muốn cho người bạn trẻ mới gặp biết
được sự khác biệt giữa hai đạo, vì rất có thể đưa đến sự ngăn
cách bởi vách tường tôn giáo. Nếu đem so sánh giữa hai tôn giáo,
thì Phượng thấy tôn giáo nào cũng tốt, vì mục đích cả hai đều
cứu nhân độ thế. Nhưng nếu bảo Phượng lựa chọn vào khoảng thời
gian trước đây thì chắc chắn Phượng sẽ chọn Ðạo Chúa. Theo Ðạo
Chúa, trên dưới có hệ thống, có tổ chức hẳn hoi, điều nầy cũng
làm cho Phượng rất thích thú. Bởi vì rất ít khi có một tổ chức
tôn giáo có tầm vóc ảnh hưởng như một quốc gia nằm trong một
quốc gia, và có khả nămg chi phối cả thế giới. Như vậy bảo sao
Phượng không tự hào về tôn giáo mà Phượng đang theo cho được.
Còn trong lúc nầy, tức là sau khi nói chuyện với Chú Tiểu thì
chắc chắn Phượng sẽ chọn Ðạo Phật, vì Phượng thấy Ðạo Phật không
có một hệ thống tổ chức quy mô về hình thức như Ðạo Chúa, nhưng
nó lại bàng bạc khắp nơi theo tinh thần tự nguyện, tự phát của
mỗi con tim yêu đạo và vì đạo. Từ lúc được nói chuyện với Chú
Tiểu đến giờ, điều làm cho Phượng phải suy nghĩ đó là:
- - Nếu Ðạo
Phật không phải là một tôn giáo có đạo đức vững chãi, thì không
thể đào tạo một con người trẻ mà có cái phong độ như người lớn,
và tài ăn nói lưu loát, hoà nhã khiêm tốn như vậy. Trong tâm tư
của Phượng lúc nầy đã có chủ ý, và thái độ dứt khoát là học hỏi
và tu tập theo đạo Phật. Tuy nhiên Phượng là người cơ trí lanh
lẹ, nên Chú Tiểu không dễ gì thấy được điều khác biệt về sự
quyết định mau lẹ đó, nghĩ như thế nên Phượng nói:
- - Vì nhà Phượng mới
dọn tới, do đó việc lễ lạy phải chờ đợi thời gian.
- Như chợt nhớ là đã
đi ra ngoài quá lâu, Phượng hoảng hốt:
- - Í, xin lỗi Chú
nhé, Phượng phải về không thôi bị me mắng, vì tội đi ra ngoài
không xin phép. Chào Chú gặp lại sau nghe Chú.
- - Thành thật cảm ơn
cô đã giúp tôi, nếu không thì tôi...
- - Thôi Chú đừng nói
vậy, Phượng buồn lắm đó, vì giúp người là lẽ thường mà.
- Nói xong Phượng vội
bước nhanh ra cửa đại điện trong cảnh hoàng hôn cô tịch.
- Nhìn theo bóng dáng
thon nhỏ đầy đặn với mái tóc đen huyền phủ kín bờ vai chảy dài
xuống tới nửa lưng, mà trong lòng Chú Tiểu như có một niềm vui
mới lạ. Chờ cho bóng dáng của Phượng khuất sau mấy khóm trúc,
Chú Tiểu mới bắt đầu đứng lên chầm chậm bước về phòng riêng của
mình. Từ đó mỗi buổi chiều về, lúc tụng kinh trong tâm tư của
Chú Tiểu hăng hái lắm, nên lời kinh cầu càng ngân nga trầm bổng
hơn trước. Vì Chú nghĩ bên kia bờ rào, nơi cửa sổ nhỏ bé, đã và
đang có người bạn theo dõi, thả hồn theo tiếng kinh cầu nguyện
của mình
-
- * * * * *
- Hai năm sau trong
một lớp học Biology tại Valley College lúc 6:30 chiều trời bắt
đầu mưa. Mưa càng lúc càng nặng hột mà khoảng cách từ lớp học ra
ngoài bãi đậu xe thì quá xa, nên Phượng không dám đi ra xe vào
lúc nầy vì sợ ướt mình. Cũng may, Ái bạn của Phượng có dù nên cả
hai cùng đi ra bãi đậu xe. Phượng mừng vui vì nghĩ là ra được
đến xe rồi thì về nhà sẽ không bị trễ. Trong lúc Phượng đang hì
hục đề máy xe, thì Ái đã được người bạn trai đón đi rồi. Ðề máy
một lúc lâu không được, Phượng mới phát giác ra xe mình vì quên
tắt đèn lúc ban sáng nên đã hết bình điện. Phượng cuống quít hỏi
mọi người chung quanh để nhờ sự giúp đỡ, nhưng tất cả đều trả
lời là không có dây để câu bình. Hạt mưa vô tình vẫn rơi rơi,
bãi đậu xe càng lúc càng vắng người, và vắng đến độ khủng khiếp
giữa trời chiều mưa nhé nhem tối. Phượng ngồi trong xe giọt ngắn
giọt dài, bắt đầu thi nhau chảy dài trên má. Niềm hy vọng duy
nhất của Phượng trong lúc nầy là mong sao có người Security nào
đó chạy ngang qua đây, Phượng sẽ nhờ họ giúp đỡ. Phượng bắt đầu
niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, theo lời Chú Tiểu dặn là mỗi lần
gặp các khổ nạn mà niệm đến danh hiệu của Ngài, thì sẽ được giúp
đỡ như ý muốn. Vì thế nên Phượng thì thầm niệm rất là thành
khẩn. Trong lúc đang khấn niệm thì có tiếng còi xe vang vọng te
te dưới mưa đêm, tiếp theo đó là một giọng ấm áp quen thuộc hỏi:
- - Ủa, đã tối rồi mà
Phượng chưa về nhà sao?
- Nhìn ra cửa xe,
Phượng mừng rở trong khi mí mắt còn ướt lệ:
- - Ủa Chú, sao Chú
biết tôi ở đây mà Chú đến, Chú ngồi vào trong xe không thôi trời
mưa ướt mình.
- Ngồi vào trong xe,
Chú Tiểu ôn tồn nói:
- - Thực ra đây là một
sự may mắn thôi. Vì cách đây không lâu có lần tôi nghe cô nói
đang học lớp Biology và một số courses để dự bị vào Trường Dược.
Chiều nay tôi định tìm cô để từ giã, vì tôi sắp phải đi học ở
xa, không dè từ Northridge về đây trời mưa, đường trơn nên không
dám chạy nhanh, vì thế nên tôi tới đây hơi trễ. Chỉ sợ không
gặp cô hôm nay, nhưng có lẽ nhờ Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ,
nên cuối cùng tôi cũng được gặp cô, thật là may mắn.
- Nghe Chú Tiểu nói
sắp đi học ở xa, Phượng ngạc nhiên hỏi:
- - Chú học về ngành
gì mà phải đi học ở xa, bộ ở đây kkhông có ngành đó cho Chú học
hay sao?
- - Không dấu gì
Phượng, tôi vừa học xong dự bị y khoa, và được một trường Y Khoa
ở ngoài tiểu bang nhận vào học tháng 9 năm nầy. Tuy nhiên vì
phải thay thế Thầy tôi làm một vài Phật sự ở các tiểu bang khác,
nên tôi phải đi sớm, và sau đó sẽ bắt đầu cho việc học.
- Phượng nói như trách
móc:
- - Vậy mà Chú dấu
Phượng, quen Chú bấy lâu nay mà có bao giờ Chú đề cập gì đến
việc học đâu, bấy giờ mới biết thì chú sắp đi xa rồi.
- - Thật ra tôi đâu có
ý định dấu cô, nhưng vì phần lớn Phật Tử của Thầy tôi, biết tôi
đi học y khoa họ phản đối không đồng ý. Vì theo họ thì tăng sĩ
không được va chạm tới thân thể đàn bà con gái, mà học y khoa là
phải va chạm, nhất là khoa nội thương và Sản Khoa. Những khoa
nầy không những chỉ có va chạm, mà còn phải biết một cách tường
tận. Do đó mà các Phật Tử họ cho rằng việc đó là một trở ngại
lớn cho giới tu sĩ, chung quy là họ sợ tôi bỏ tu. Ngay cả thầy
tôi tỏ ra cũng không đồng ý, tuy nhiên thấy tôi năn nỉ, nên
Người cũng đành chiều theo. Còn riêng về cô, tôi không biết là
người thế nào, nên không tiện nói chứ không phải tôi dấu cô.
- - À, ra là vậy, thế
thì chừng nào Chú đi làm Phật sự?
- - Có lẽ chiều mốt.
- Phương nói trong
buồn rầu:
- - Chú, bộ chú đi
thật sao? Chú đi xa rồi có còn nhớ nhỏ Phượng rắc rối nầy không?
Mỗi lần gặp Chú là Phượng thích tranh luận, chọc tức, Chú có tức
nhỏ nầy không Chú?
- - Không có đâu, có
gì mà phải tức giận. Việc tranh luận là việc của tôi mà.
- Ðể chứng minh là mình không có
giận như Phượng đã nghĩ, Chú Tiểu phân trần tiếp:
- - Cô biết
không, tôi thích tranh luận lắm đó, nhưng từ khi qua Mỹ cả mấy
năm nay tôi chưa có dịp để tranh luận một cách sôi nổi như lúc
còn ở quê nhà. Tôi có một người sư huynh, ông ta đã mất cách đây
mấy năm rồi, ông ta cũng là mẫu nguời thích tranh luận và học
hỏi. Tôi còn nhớ có lần hai huynh đệ tranh luận về đề tài Có và
Không. Cuộc tranh cãi lúc 8:30 tối, tức là sau thời Tịnh Ðộ.
Việc tranh luận càng lúc càng hăng, Thầy tôi nghe cãi cọ ồn nào,
nên ông bảo một sư huynh khác stop không cho cãi với nhau nữa.
Sợ Thầy la, hai huynh đệ không dám ở trong nhà, nên phải dắt
nhau ra sân tranh luận tiếp cho đến 12:00 đêm cũng chưa chấm
dứt. Một lần nữa, Thầy tôi lại bắt đi ngủ sớm để sáng dậy công
phu. Vì câu chuyện chưa được kết thúc, nên một lần nữa hai anh
em lại dắt nhau ra ngoài vườn sau chùa để tiếp tục. Cuộc tranh
luận kéo dài đến 4:00 sáng, thế là hai huynh đệ dắt nhau vào đi
công phu sáng luôn. Việc cô tranh luận với tôi, so với sư huynh
thì có ăn thua gì, phải không? Bình thường trong lúc tranh luận
ai cũng cố tranh phần thắng. Tuy nhiên, điễm quan trọng là làm
sao, giữ cho mình đừng sân hận thì việc tranh luận mới có ý
nghĩa và kết quả. Nghĩa là sau khi tranh luận, cả hai cùng chấp
nhận một điểm đúng, có được như vậy thì việc tranh luận bổ ích
vô cùng, vì mình có thể học hỏi thêm. Còn nói về nhớ cô, đương
nhiên có chứ, vì cô là người đầu tiên tôi quen, lý do đó thì cô
biết tại sao tôi tìm đến đây để từ giả.
- - Thiệt hả Chú, Chú
nói thế làm Phượng sung sướng quá. Như không kiềm chế được sự
xúc động, Phượng quay qua nắm chặt lấy tay Chú Tiểu, nhưng sau
những phút giây bồng bột đó, Phượng buông tay ra và nói trong
hối hận:
- - Xin lỗi Chú,
Phượng sung sướng quá nên đã xúc phạm, và làm Chú phải phạm
giới, mong Chú thứ lỗi.
- Vẫn với giọng trầm
ấm không thay đổi, Chú Tiểu nói tiếp:
- - Không có
việc chi phải xin lỗi, chúng ta là bạn đâu có gì mà nói là xúc
phạm. Ngừng một chút để tằng hắn chú Tiểu nói tiếp:
- - Những gì mà
tôi đã làm cô vui thì tôi không sợ phạm giới. Tôi cũng là con
người trần tục như bao nhiêu con người khác, nhưng cảm thấy là
tôi được thấm nhuần giáo lý của Ðức Phật một phần nào. Cái tôi
thấy là tinh thần của Phật Giáo Ðại Thừa là một tinh thần siêu
thoát, vượt hẳn mọi phạm vi hữu hạn của trần tục. Tôi nghĩ thể
nhập được như thế thì mới lãnh hội được cái tinh thần cứu khổ
ban vui, là cửa ngõ bước vào thế giới mênh mông bát ngát của Ðại
Thừa Bồ Tát, như vậy thì làm sao lại phạm giới hay không phạm
giới. Vả lại tinh thần của Phật Giáo Ðại Thừa còn có một điểm
đặc thù nữa là:
- - Chư Ác Mạc
Tác,
- Chúng Thiện
Phụng Hành,
- Có nghĩa là:
- - Bất cứ một
việc gì được coi là ác thì đừng nên làm.
- Bất cứ việc
gì được coi là thiện thì hàng đệ tử của Phật phải làm.
- Ðó rồi chúng ta mới hiểu tại sao
chư Phật, Chư Tổ, Chư Vị Thiền Sư trên đườmg tu tập để giải
thoát phải trang trải bằng tâm nguyện, có nhiều khi phải trả giá
thật đắt bằng máu, bằng nước mắt để hoàn thành tư cách của một
bậc Ðại Thừa Bồ Tát.
- - Không ngờ
từ ngày quen Chú đến nay, Phượng đã mở mang rất nhiều về phương
diện kiến thức, nhất là Chú có một cái lối nhìn đời thật độc
đáo. Một cái nhìn không khe khắt bảo thủ như một số quan niệm:
Ði tu rồi thì không màng đến thế sự, Phải xa rời trần tục mới có
thể tu được đạo giải thoát. Ðặc biệt là hôm nay chú giúp Phượng
hiểu thêm về chiều sâu của Phật Pháp, đó là dụng tâm chứ không
phải dụng tướng, khéo xử dụng phương tiện để đạt tới cứu cánh.
Như vậy giờ đây Phượng mới hiểu tại sao Ðức Phật lại không về
cảnh Tây Phương để thành Phật, hoặc cõi Trời Ðâu Suất, hay các
cảnh giới Cực Lạc khác để thành Phật mà ngài ở cảnh giới Ta Bà ô
trọc để mà thành Phật. Có thể nói đời Ngài là một cái ô trọc
đứng vững trong muôn vạn cái ô trọc khác để giáo dục họ, để
thánh thiện hoá đời sống của họ, để rồi tất cả cùng giải thoát
thật là tuyệt diệu.
- Như chợt nhớ
ra điều gì, Chú Tiểu nhìn đồng hồ đeo tay thảng thốt:
- - Gần 10:00
đêm rồi, Phượng về trể có bị me cô la không?
- Nhìn ra ngoài
đêm bao la, lúc nầy mưa cũng bắt đầu tạnh, vầng trăng mười sáu
cũng bắt đầu xuất hiện giữa muôn sao lấp lánh, Phượng mĩm cười
nói:
- - Không sao
đâu Chú, mẹ Phượng có la thì cũng chỉ một bữa nay thôi, ngày mốt
Chú đi rồi, Phượng sẽ đi học về sớm, thì mẹ đâu còn có lý do để
la nữa.
- Nghĩ đến cảnh chia tay trong mai
mốt tới đây, Phượng buồn nói tiếp:
- - Này Chú,
Phượng muốn mời Chú ngày mốt đi dùng cơm tối, rồi sau đó Phượng
đưa Chú ra Phi Trường luôn có được không?
- - Vậy thì tốt
quá, nhưng việc học hành của cô thì sao?
- - Chú không
biết bữa nay là Thứ Sáu à? Nếu mà hôm nay là Thứ Sáu, thì ngày
mốt là Chủ Nhật, Chủ Nhật thì đâu cần học bài phải không chú?
- Nhớ lại lúc
chiều xe hết bình, nên Phượng nói tiếp:
- - Chiếc xe
Phượng bị hết bình, Chú có dây câu bình không?
- - Có, đừng lo
để tôi giúp cô một tay.
- Thế là Chú
Tiểu lo hì hục câu bình, trong lúc Phượng liến thoắng kể lại lý
do tại sao xe hết bình, cho đến lúc Phượng thiết tha cầu nguyện
Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì Chú Tiểu đến, và Phượng kết luận: Chú
là Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đến đây để cứu độ Phượng. Thấy cái lối
liến thoắng, ví von của Phượng Chú Tiểu chỉ mĩm cười mà không
nói. Vừa lúc đó máy xe của Phượng cũng đã nổ dòn, cả hai chắp
tay búp sen chào từ giã.
- Bốn giờ chiều
ngày Chủ Nhật Phượng đón Chú Tiểu đi nhà hàng Mỹ Lệ Hoa, bữa cơm
chay hôm đó thật đơn giản, nhưng hàm chứa nhiều thâm tình đạo
vị. Sau khi trả tiền xong, Phượng lái xe chạy quanh một vòng
Downtown Los Angeles, và kế đó là đến phitrường.
- Tâm sự của mỗi người trong cảnh
chia tay chắc chắn ai cũng buồn, Phượng cũng không ngoài thông
lệ đó.
- *****
- Ngoài trời
Ðông giá lạnh, tuyết rơi. Trong một căn phòng nhỏ nhắn nhưng ấm
áp, Phượng ngồi trầm tư về dĩ vãng, những mớ kỷ niệm vui buồn
ngổn ngang trong lòng. Nhìn những thiệp chúc Mừng Giáng Sinh,
đến những lá thư Xuân của mười mấy năm qua còn nằm gọn trên bàn
viết, nay đã được phủ lên một lớp bụi mỏng bởi thời gian vô
tình. Phượng cố nhìn lại coi đã viết những gì, và rồi Phượng đã
biết mình viết:
- - Xuân 1986
- Thân Gởi Chú
Tiểu
-
.................................................
- - Xuân 1990
- Kính Gởi Ðại
Ðức Chú Tiểu
-
...............................................
- - Xuân 1994
- Kính Gởi
Thượng Tọa Chú Tiểu.
-
.................................................
- - Xuân 1999
- Kính gởi
Thượng Tọa Chú Tiểu.
- Ðến đây
Phượng thì thầm như để chính mình nghe:
- - Xuân 1999
lại đến, và rồi Thư Xuân Nầy Biết Gởi Về Ðâu? Khi mà mình không
biết người ấy ở phương trời nào...
-
- Chú Thích:
- Phượng đã
biết tên Chú Tiểu là ai, nhưng cái tánh tinh nghịch, nên cứ
thường gọi Chú hoặc Chú Tiểu. Do đó trong bài viết nầy vẫn dùng
chữ Chú Tiểu.
--o0o--
|
|