-
Hoa Mai Trong Thơ Việt
Nam
Cổ Điển
-
Trần Ngọc Tính
-
--o0o--
-
-
Hoa
mai trong thơ cổ nước ta và nhiều quốc gia khác ở Á Đông,
chính là hoa mai màu trắng. Như giống mai mù u, tên khoa học
là Ochrocarpus siamensis thuộc họ Guttiferae (họ măng cụt),
hiện còn một cây trong chùa Gò ở Phú Lâm (Sài Gòn). Cây mai
này đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ Minh Hương Trịnh Hoài
Đức (1725-1825) và các cây bút cùng thời viết nên tập "Mộng
mai đình". Cây mai này cũng là biểu tượng của Thi xã Bạch Mai
quy tụ nhiều tên tuổi "vang bóng một thời" ở Nam Bộ vào thế
kỷ trước : Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Trần Thiện Chánh, Hồ
Huấn Nghiệp, Huỳnh Mãn Đạt, Nguyễn Thông,...
-
Có lẽ, nụ mai nở sớm nhất trong thơ ca Việt Nam lại là đóa hoa
nở... muộn. Ấy là cành mai cuối mùa của một đại sư thuộc phái
Vô Ngôn Thông : đại sư Mãn Giác (1052-1096). Nguyên văn được
chép trong "Thiền Uyển Tập Ánh" như sau :
-
- Xuân khứ bách hoa lạc
-
Xuân đáo bách hoa khai
-
Sự trục nhãn tiền quá
-
Lão tòng đầu thượng lai
-
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
-
Tạm dịch :
-
Xuân đi, trăm hoa rụng
-
Xuân về, trăm hoa tươi
-
Trước mắt, việc đời ruổi
-
Trên đầu, già đến rồi
-
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng cả
-
Đêm qua sân trước nở nhành mai.
-
Một thiền sư khác sống sau đó hơn 2 thế kỷ có pháp hiệu Huyền
Quang (1254-1334), là vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm Yên Tử,
từng tôn mai lên ngôi vị "ngự sử đài" - chức quan giữ trọng
trách giám sát và can gián vua chúa :
-
- Ngự sử mai hai hàng chầu chắp
-
Trượng phu tùng mấy rặng phò quanh
-
Ngự sử mai, trượng phu tùng và quân tử trúc hợp thành "tam ích
hữu" (3 người bạn có ích). Khái niệm này xuất phát từ thiền
"Quý thị" trong sách "Luận ngữ". Ích giả tam hữu : hữu trực,
hữu lượng, hữu đa văn (Bạn có ích gồm 3 hạng : ngay thẳng,
rộng lượng và hiểu biết nhiều). Sách "Nguyệt lệng quảng nghĩa"
gọi hình tượng ước lệ bộ ba tùng - trúc - mai là Đông thiên
tam hữu, Tuế hàn tam hữu hoặc Đông xuân tam hữu. Đây là đề tài
có vị trí đặc biệt trong thơ ca cổ điền của Á Đông nói chung,
của nước ta nói riêng.
-
Thi hào Nguyễn Trãi (ngôi sao sáng chiếu rọi từ bầu trời văn
học thế kỷ XV) thường xuyên khai thác đề tài Đông thiên tam
hữu. Riêng mai chiếm tần số xuất hiện khá cao trong các sáng
tác của Úc Trai. Đọc 21 bài "Ngông chí", đã thấy 8 bài đề cập
đến mai với những câu "tuyện diệu hảo" như :
-
- Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng
-
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
-
(Ngôn chí 2)
-
- Quét trúc, bước qua lòng suối
-
Thưởng mai, về đạp bóng trăng
-
(Ngôn chí 15)
-
Đối với mai, Nguyễn Trãi hết sức ưu ái. Tại sao ? Qua bài thơ
chữ hán "Đề Hoàng ngự sử mai tuyết hiên", nhà thơ đã giải
thích : Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà ? Ái duyên tuyết bạch,
mai phương khiết (Yêu mai, yêu tuyết vì đâu ? Vì tuyết trắng,
mai thơm và trong sạch). Trong phần thơ "Hoa mộc môn", ngoài
các bài "Mai" và "Lão mai", bài thất ngôn pha lục ngôn viết về
mai làm theo thể ô thước kiều phối hợp liên hoàn của Nguyễn
Trãi là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ quốc âm
thời ấy :
-
- 1. Xuân đến hoa nào chẳng tốt tươi
-
Ưa mi vì tiết sạch hơn người
-
Gác đông ắt đã từng làm khách
-
Há những Bô tiên kết bạn chơi ?
-
-
2. Tiên Bô kết đã bấy thu chầy
-
Ngâm ngợi nhường bằng mếch trọng thay
-
Lại có một cành ngoài ấy lẻ
-
Bóng thưa ánh nước động người vay !
-
-
3. Bóng thưa ánh nước động người vay
-
Lịm đưa hương, một nguyệt hay
-
Huống lại bảng xuân sơ chiếm được
-
So tam hữu chẳng bằng mày !
-
So với tùng và trúc, mai giống ở khí tiết. Nhưng mai còn có ưu
điểm mà hai bạn không sao có được : sắc hương.
-
Sắc, ai ai cũng dễ dàng nhìn thấy, dù ngồi gần hay đứng xa, kể
cả qua "bóng thưa ánh nước" chập chờn : Mai hoa như tuyết
chiếu tình xuyên (Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông buổi
trời nắng - thơ Trần Quang Khải). Song, hương thì "khách tục"
làm sao nhận ra. Chỉ tri âm tri kỷ mới đủ khả năng tương thức.
Đó là vầng trăng. Lịm đưa hương, một nguyệt hay : câu thơ lục
ngôn thầm kín đáo quá, kín đáo như hương mai vậy.
-
So với nhiều hoa khác, mai lại là loài "anh hoa phát tiết" sớm
nhất, ngay từ tiết lập xuân còn nhiều giá lạnh. Do đó cổ nhân
đã phong tặng mai danh hiệu Bách hoa khôi - ví như người đỗ
đầu khoa thi, người con trai ưu tú nhất hoặc con gái xinh đẹp
nhất.
-
Nhắc đến Bách hoa khôi, tôi chợt nhớ giai thoại liên quan đến
một bài tuyệt bút về mai gắn liền với tên tuổi của nhà ái quốc
lừng danh : Phan Bội Châu. Năm đó (1883), Phan mới 16 tuổi.
Sau khi thi hương, bài được chấm ưu hạng, chàng trai quên Nam
Đàn ấy phải dự kỳ sát hạch cùng 6 sĩ tử khác để xếp vị thứ cao
thấp tại phủ Anh Sơn. Đích thân quan phủ là Hoàng Giáp Phạm
Như Xương trực tiếp ngồi ghế chánh chủ khảo. Các thí sinh nhận
đề và cắm cuối làm bài hồi lâu thì Phan mới đến. Quan phủ hơi
bực mình nhưng vẫn cho Phan vào và buộc chàng làm bài với một
đề thi riêng. Đang tiết cuối xuân, trông thấy cây mai bên hiên
chỉ còn lưa thưa dăm đóa, quan Hoàng Giáp bèn ra đề : "Hoa
khai bất cập xuân" (Hoa nở không kịp mùa xuân). Đề thi ngụ ý
phê bình cái tội trễ tràng của chàng trai nổi tiếng thông
minh. Phan Bội Châu phóng bút ngay :
-
- Đông hoàn tằng bước nhãn
-
Dĩ hứa bách hoa khôi
-
Chỉ vị khiêm khiêm ý
-
Phiên giao tiệm tiệm khai...
-
-
Tạm dịch :
-
- Nhờ chúa Xuân ưu ái
-
Xếp đúng đầu trăm hoa
-
Chỉ vì lòng khiêm tốn
-
Nên hẵng nở tà tà...
-
Liếc mắt qua, Hoàng Giáp Phạm Như Xương sững sờ, không cho
Phan Bội Châu làm bài nữa. Ông bảo : "Chỉ cần 4 câu mở đầu thế
này là dư sức đỗ đầu xứ rồi".
-
Nói đến mai, Nguyễn Trãi và các nhà thơ khác thuở trước thường
nhắc đến "tiên Bô", "lão Bô". Nhân vật này là ai ? Ấy là Lâm
Bô, tức Lâm Hòa Tĩnh (967-1028), một hiền sĩ ở Cô Sơn (Hàng
Châu, Trung Quốc) vào đời Tống. Họ Lâm không vợ con, chỉ thích
trồng hoa mai và nuôi chim hạc, nên người đời nói về ông :
"Cưới mai làm vợ, nuôi hạc làm con". Lâm Bô có để lại bài thơ
"Mai hoa" được nhiều thế hệ truyền tụng. Đây là 4 câu đầu :
-
- Chúng phương hoa lạc động huyên nghiêm
-
Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên
-
Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiên
-
Ám hương phù đông nguyệt hoàng hôn...
-
Nghĩa: Các hoa rụng hết, chỉ còn hoa mai tươi đẹp dưới bóng
nắng ; chiếm cả vẻ đẹp của mảnh vườn con ; bóng cành thưa nằm
ngang giữa làn nước trong nơi cạn ; hương thoảng đưa nhè nhẹ
dưới ánh trăng buổi hoàng hôn...
-
Cặp thực của bài thơ trên lại được cô đúc thành một câu :
-
- Ánh hương phù động, ảnh hoành tà.
-
Giản chi dịch :
-
- Chập chờn hương thoảng, bóng cành xiên ngang.
-
Nhiều thi nhân khen rằng chỉ 7 chữ mà lột tả đầy đủ vẻ đẹp của
hoa mai, không thể thêm bớt được một chữ nào. Kiệm lời, chắt ý
đến thế thì vượt qua cả thơ tứ tuyệt Trung Hoa lẫn thơ Haiku
Nhật Bản. Gọi đây là thể gì nhỉ, "nhất tuyệt" ư ?
-
Mai thường sánh vai với trăng :
-
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm
-
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
-
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
-
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu.
-
(Chinh phụ ngâm khúc)
-
Mai cũng kề bóng chim (mai điểu), chủ yếu là chim én hoặc chim
hạc. Ví dụ đôi câu "thần bút" của nhà thơ đa tài Nguyễn Trung
Ngạn (1289-1370), đến nay vẫn khiến chúng ta giật mình kinh
ngạc :
-
- Dã mai cốt cách nguyên phi tục
-
Hải hạc phong tư tự bất quần
-
Tạm dịch :
-
- Cốt cách mai rừng nguyên chẳng tục
-
Phong tư hạc biển vốn không bầy
-
Ngoài bộ "tam hữu" như đã nói, mai còn được kết hợp với lan,
cúc, trúc tạo nên bộ "tứ quý" tượng trưng cho bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông. Và không chỉ với thực vật, động vật, mai lại
được các thi nhân cho "se duyên" với ngọc, với tuyết để ví von
tài tử giai nhân. Như bài "Lão mai" trong "Hồng Đức quốc âm
thi tập" có câu :
-
- Xuân thêm cốt cách, hương càng bội
-
Tuyết giúp tinh thần, ngọc hãy còn.
-
Hoặc như trong "Hương miệt hành", truyện thơ được sáng tác từ
đầu Lê (có sách cho là đời Trần), có câu :
-
Tuyết mai cốt cách, ngọc tinh thần
-
Câu thơ ấy buộc nhiều người liên tưởng ngay đến câu Kiều quen
thuộc :
-
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
-
Cũng cân nói thêm, trong pho Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác
phẩm được xem là "tập đại thành" của nền văn chương cổ điển
Việt Nam, mai đã xuất hiện cả thảy 15 lần, má quá nửa là đóng
vai trò mỹ từ : sân mai, song mai, trướng mai, tiên mai, giấc
mai, hồn mai...
-
Thật ra, hoa mai trong thơ cổ nước ta và nhiều quốc gia khác ở
Á Đông, chính là hoa mai màu trắng. Như giống mai mù u, tên
khoa học là Ochrocarpus siamensis thuộc họ Guttiferae (họ măng
cụt), hiện còn một cây trong chùa Gò ở Phú Lâm (Sài Gòn). Cây
mai này đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ Mih Hương Trịnh
Hoài Đức (1725-1825) và các cây bút cùng thời viết nên tập
"Mộng mai đình". Cây mai này cũng là biểu tượng của Thi xã
Bạch Mai quy tụ nhiều tên tuổi "vang bóng một thời" ở Nam Bộ
vào thế kỷ trước : Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Trần Thiện
Chánh, Hồ Huấn Nghiệp, Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Thông, ...
-
Một mùa xuân lại đến. Mai vàng lại rực rỡ mãn khai. Đón tết
bên cành "bách hoa khôi" cốt cách, thong thả thưởng thức những
áng thơ của người xưa, âu là một thú đầy tao nhã. Tùy cơ
duyên, mỗi người có thể chọn vài ba bài hay dăm bảy dòng tâm
đắc cho bản thân mình.
-
Riêng tôi, đã nhiều đêm trừ tịch lặng ngắm mai vàng, lòng cứ
hiển hiện đôi câu Cao Bá Quát:
-
Thập tải luân giao cầu cô kiếm
-
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
-
Ôi Chu thần : Mười năm xuôi ngược giao du quyết tìm thanh kiếm
cổ, suốt một đời chỉ biết cúi đầu vái trước hoa mai.
-
Bây giờ giữa Sai Gòn, bên nhành mai hương quý báu phảng phất
thơm, nhành mai mà một bạn ở Huế vừa gửi vào làm quà Tết, tôi
đang hồi hộp ngóng đợi phút giao thừa. Đúng phút linh diệu ấy,
tôi sẽ xông một lò trầm nhỏ, rồi lặng lẽ cúi đầu vái hai vái.
-
Một vái tạ hoa mai, dĩ nhiên. Một vái xin dành cho những câu
thơ tuyệt bút mà cha ông ta từng lao tâm khổ tứ ngợi ca loài
hoa cao khiết
-
(Trích Báo Giác Ngộ)
|