-
MÙA XUÂN CÔNG ÁN
-
Hà Thượng Chi
-
--o0o--
-
-
Bấy
giờ là mùa Xuân sang, khắp vùng rừng núi Gaya. Nơi ấy, có
nhiều hành nhân nhìn thấy Xuân về với vạn hoa đơm bông nẩy
lộc. Các khe suối nước trong vắt, lặng yên không tiếng động.
Có những hồ lắng sâu in bóng mây trời tơ nõn tuyệt đẹp. Đạo
nhân xuống núi đi vào nhân gian, thấy đâu đâu cũng linh đình
ăn uống vui chơi, bày cuộc chơi giỡn khắp nơi. Đạo sĩ hỏi các
anh đang làm gì đó? Phía trước có tiếng đáp rằng: Mùa Xuân
đang tới, nhà kia sinh con trai, có nhiều lễ hội vui nói không
hết. Nghe vậy, đạo nhân tự nói: Mùa Xuân đến, vạn vật lớn lên
lan tràn từng ngày. Ta hãy về núi vắng, lặng yên mà tu hành.
-
Rồi mùa Thu tới, vị hành nhân lại xuống núi. Nhìn đâu Ngài
cũng thấy cây cối trụi lá tiêu điều, lá rụng đầy, đất trời như
cái mền lớn phủ trùm. Các khe lạnh khô cạn, đất cứng hết sức.
Khi ấy, vị hành nhân suy nghĩ: Hiện nay bên ngoài vạn vật đang
suy tàn rơi rụng. Hoa xinh tươi không còn trở lại sum sê. Ông
thấy nơi này chốn nọ trong thôn xóm có nhiều cảnh buồn bã như
tang ma với tiếng kêu khóc buồn thương ấm ức. Sau đó, ông trở
về núi, ngồi kiết già suy tư sâu sắc, không bị loạn động xen
vào. Thấy trong, ngoài đều là vô thường. Ông đi vào công án:
Nhựt Chuyển, nghĩa là không có cái gì ngừng lại. Nhựt chuyển
là gì? Là tính từ mùa Xuân đến mùa Thu. Từ mùa Thu đến năm. Từ
năm đến tháng. Từ một tháng đến nửa tháng. Từ nửa tháng đến
ngày. Từ ngày đến giờ, từ giờ đến ngày đêm. Từ ngày và đêm đến
sự chuyển động. Từ chuyển động đến hơi thở ra vào. Từ hơi thở
ra vào là chỗ tận cùng chấm dứt. Không còn sót cái gì nữa. Từ
chỗ dứt hết ấy mới biết là hết sạch trơn, vạn vật tan biến
hình hài, qua một chu kỳ khác. Khi đã biết không còn hình hài
thì biết được cái gì khởi lên từ cái gốc diệt. Ông nhớ lại lời
đức Thế Tôn nói: Mọi cái không thường còn thì là khổ, và khi
ấy, Phật nói giữa đại chúng bài kệ rằng:
-
- Đi mãi không trở về
-
Vậy, đêm ngày gắng sức
-
Cá lên giàn nướng cháy,
-
Khổ sinh tử cũng vậy.
-
Trong kinh nói chỉ có Phật, Bồ tát, bậc đắc đạo mới nhìn thấy
chúng sinh ra đi mãi mà không ai trở về, tức đi theo đường
sinh tử quay mãi mãi. Người tỉnh biết thì nhìn lại hiện trạng
sinh tử thật khổ não như cá lên giàn nướng nên các Ngài khuyên
ai nấy cố gắng đạt tâm không nhiễm chấp đeo níu trần tục tham
đắm để có cơ hội ra khỏi vòng quay bất tận của sinh tử. Công
án là đề mục chú, đổ trút cả bình sinh vào nó là có cơ may
bừng ngộ bản tâm.
-
Mùa Xuân giàu có vạn bội là giàu có sự thảnh thơi giải thoát,
đó là mùa Xuân chân chính lồng lộng trong tâm hồn người tu
học. Đó là mùa Xuân quý giá bởi nó khó được, nhưng lại ở ngay
tâm mình. Trong kinh nói chúng sinh nghèo mạt pháp tài, nên
sống đời hom hem tăm tối, nợ nần lỗ lã, mắc nợ mãi mãi không
còn đồng xu dính túi với mụ già vô minh. Tài sản vinh quang
của ta bất diệt chính là kho pháp. Mùa Xuân về ta phải kiểm
kho pháp, kho tâm mình coi có những khối tỉnh sáng nào chăng.
Ta giàu có là giàu có tỉnh sáng thấy lại cơ ngơi tâm hồn mình,
có lòng thương, hiểu biết, giải trừ mọi tăm tối của cố chấp
hận thù nhỏ nhen, mà sống đời thảnh thơi giải thoát ngay tại
đây. Biên giới và tiếp cận thời gian vật lý và thời gian tâm
hồn là ở chỗ kể tuổi đạo. Tỷ kheo bắt đầu kể tuổi đạo vào ngày
Tự tứ hằng năm, sau ba tháng An cư không khuyết điểm, Phật vui
mừng, từ đó kể là lớn lên trên đường đạo một tuổi, không kể
theo tuổi thế gian tức đầu Xuân. Do vậy, mùa Xuân đất trời là
vật lý chuyển quay tự nhiên thay đổi cho đẹp vạn vật, mùa Xuân
là ba tháng trạm đầu của hy vọng trong xanh và vui mừng chế ra
nhiều lễ hội, kể tuổi sống bắt đầu từ đó. Mùa Xuân của đạo là
mùa Xuân sáng dậy tâm hồn, giàu có bởi thấy lại cơ ngơi vĩ đại
của tâm mình. Mùa Xuân tâm hồn giải thoát là mùa Xuân không
mất, bất diệt. Mùa xuân đất trời có biến dạng qua mùa Hè. Bất
thời giải thoát chính là mùa Xuân bất diệt của tâm hồn lúc nào
cũng lồng lộng, không phải đợi chờ điều kiện mới có thể giải
thoát. Thế giới bao la nhưng chỉ có tâm ta là vĩ đại chi phối,
cho nên mùa Xuân giải thoát, mùa Xuân tâm hồn giàu có thanh
tịnh mới là mùa Xuân chân chính mà ta đi tới, bước vào biên
thùy nó ngay đây trong mọi thời tiết, chở mùa Xuân ấy đi mười
phương, gọi là Bồ tát thừa Niết bàn du chư phương sở. Ta đứng
lên cỡi Niết bàn đi chơi trong mười phương. Ta chở mùa Xuân là
chở thế gian bao la kia làm cho nó thanh tịnh, tịnh quốc độ là
đưa mùa Xuân giải thoát đến cho nhân gian. Đó là nguyên tắc.
Ta có an lạc thảnh thơi, giải thoát, có nguồi suối mùa Xuân vĩ
đại thì mới đem tặng cho đời được. Do vậy, lo kiến tạo mùa
Xuân giải thoát là lòng thanh tịnh không lạnh giá của mọi cố
chấp tù hãm nhỏ nhoi, ta phát dậy biên cương vô hạn của mùa
Xuân Akalika (ngoài thời gian vật lý tháng năm hạn hẹp ước lệ
trong hệ thống thái dương hệ). Nói về trẻ và mùa Xuân, thì ai
cũng muốn mình trẻ mãi, xinh đẹp mãi như mùa Xuân, nhưng đó
chỉ là mơ ước hão huyền, không có ai nộp hồ sơ cho mùa Xuân
xin như thế cả, bởi mùa Xuân thoáng chốc đi qua, bản thân mùa
Xuân cũng lo dọn dẹp gấp cửa hàng, có thì giờ đâu mà lo cho
đông đảo với trăm nghìn nguyện vọng, thôi thì mùa Xuân ngồi
trên cao ban phát ánh sáng tơ trời gió nhẹ, và mọi êm dịu cho
vạn vật là ra đi ngay, để mãi mãi tạo hy vọng cho nhân gian.
-
Mùa Xuân ra ngoài kiếp sinh, trụ, diệt của đoản kỳ thời gian
là mùa Xuân của Phật tính hằng hữu, mùa Xuân của Tâm Bồ đề
hằng sáng lấp lánh như sông Hằng nghìn năm sông nước vẫn còn.
Kinh nghiệm này, ai cũng có thể thực hiện, ta chỉ đi chệch ra
ngoài giờ giấc thói quen là thấy có nhiều cái mới lạ khởi lên
trong tâm ý. Ta sống là ta bị đè nén thảm hại dưới sức mạnh
của thói quen. Nói về thói quen thì mùa Xuân cũng là một thói
quen với cái này thứ nọ, ta cắt giảm bớt dần thì cũng không
sao đối với những bày đặt càng rườm về sau này, không đốt pháo
chẳng hạn, rồi cũng quen. Tâm thức ta trôi chập chùng như 40
ngọn núi chập chùng trong dãy quần sơ
Himalaya.
Tất cả đều do thói quen, phù sa nó bồi đắp lâu đời mà nên, cho
nên mùa Xuân thời gian vật lý mỗi nơi có những khác nhau về
thụ hưởng, vật chất. Tu tập ta cũng phần nào có tham dự mùa
Xuân nhơn thế, theo lệ thường, kiểu bên ngoài 23 đưa ông táo,
nhà chùa cũng đưa chư Thiên, cho đạo chúng nghỉ công phu bái
sám làm cả năm đằng đẳng, nghỉ xả hơi để mùng 1 rước chư Thiên
v.v... Ta phải biết lợi dụng thời khóa biểu mùa Xuân để phát
mạnh hơn nữa kiến tạo mùa Xuân tâm hồn thanh tịnh rực sáng
trời vô nhiễm ngay đây, có vậy là ta vinh quang bước vào Phật
tính bất diệt, ngoài thời gian vật lý, sống trẻ mãi với mùa
Xuân thanh tịnh ấy, thênh thang ra ngoài tù hãm của sinh tử,
hết trôi trong biển khái niệm nên thấy thời gian là vô tận.
Xưa chư Tỷ kheo tu tập một nơi, khi Xuân sang, họ có lúc cũng
đi nơi nầy nơi khác, nên chư Thiên thấy buồn vì sự sum vầy nơi
ấy tiếng nói pháp vang lên, giờ vắng vẻ, chư Thiên băn khoăn
hỏi:
-
- Lòng ta không vui,
-
Đây không ai ngồi
-
Vị giỏi nói pháp
-
Hiện giờ ở đâu?
-
Thiên thần khác đáp:
-
Họ đi Ma Kiệt Đà,
-
Họ đi Kosala
-
Hoặc họ đi Vajja
-
Như nai thoát bẫy sập (năm dục)
-
Chạy nhảy bốn phương trời
-
Đời sống xuất gia thảnh thơi như thế.
-
Đoạn này lấy trong Samyutta bài kinh 194. Có ngoại đạo thấy
chư đệ tử Phật ngày ăn một bữa, sao thần thái tươi mát xinh
đẹp, ông ta hỏi nguyên nhân. Phật nói bởi họ không bao giờ lo
lắng tương lai hay nhớ tiếc quá khứ, còn phàm phu thì như cỏ
non bị cắt phơi ngoài nắng, bởi không biết chánh niệm như Tỷ
kheo, mà trái lại lo lắng quá nhiều. Sầu héo hết mùa Xuân
chính bởi những đường cày sâu đậm của lo lắng sầu hận quá khứ
mất mát đủ thứ. Tóm lại, nhân thời gian Xuân đất trời mà làm
tâm mình rực rỡ với mùa Xuân thanh tịnh, lắng trong của giải
thoát an lạc chánh niệm bất diệt. Hoa Xuân ấy không khô héo,
đáng tôn kính và nó là vĩnh hằng.
|