-
MÙA XUÂN CỦA THANH VĂN
-
HT.Thích Trí Quảng
-
--o0o--
-
-
Đức
Thích Ca, một con người toàn thiện toàn mỹ đến mức loài người
tôn Ngài là bậc siêu nhân, một bậc Thánh trên thế gian. Tuy
nhiên bằng tuệ giác túc mạng minh, Ngài thấy không phải chỉ
riêng Ngài mà tất cả mọi người đều có khả năng thành Phật, có
khả năng chuyển mê lầm thành sáng suốt nhưng chúng ta không
biết vận dụng tiềm năng sẵn có để cam chịu sống mãi với tà vạy
khổ đau. Vì vậy Ngài khởi tâm từ bi, trở lại với xã hội loài
người, dìu dắt chúng ta đến thế giới an lạc tự tại giải thoát
hoàn toàn. Trong suốt 300 pháp hội của Đức Phật từ Lộc Uyển
đến Ta La song thọ, theo Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, Đức
Phật đã sử dụng nguyên tắc Tứ Tất Đàn đưa ra hàng loạt cách
gợi ý, suy tư và hàng loạt cách giải quyết mà trong kinh
thường gọi là 84.000 pháp môn tu tùy theo khả năng, trình độ
nhận thức, tùy hoàn cảnh thời gian không gian, tùy đối tượng
tu học để sau cùng tất cả đạt đến cứu cánh giải thoát hoàn
toàn như Đức Phật. Và trong quá trình hoằng hóa độ sanh, thí
dụ Tam Xa Hỏa Trạch hay ba xe của Phẩm Nhà Lửa trong kinh Pháp
Hoa Đức Phật nêu lên cũng không nằm ngoài nguyên tắc Tứ Tất
Đàn, trong đó Ngài đã vẽ ra cảnh nhà lửa và ba xe dụ cho giáo
pháp Tam Thừa dùng để thoát khỏi nhà lửa.
-
Trong Tam Thừa giáo Đức Phật dạy, chúng ta tự lượng sức mình
có thể sử dụng xe nào để ra khỏi sanh tử là vấn đề quan trọng,
chúng ta cần suy nghĩ vì tu sai pháp tất phải đọa thôi. Nếu
chúng ta vừa khỏe, vừa thông minh, lại có đồ chúng và đầy đủ
phương tiện trong tay, bấy giờ chúng ta thừa sức dấn thân giáo
hóa chúng sanh theo con đường Bồ Tát. Nhưng nếu chúng ta không
đầy đủ phước đức nhân duyên của hàng thượng căn mà chỉ được
phần nhân duyên và trí tuệ của hàng trung căn, chúng ta phải
tu theo Duyên Giác Thừa. Và thượng căn, trung căn vì đạo đức
còn kém, trí tuệ tài năng yếu ớt, người đời khó kính trọng
được, về mọi phương diện ta không hơn họ mà làm thầy họ, điều
này không phù hợp thực tế, không thể chấp nhận. Trên cuộc đời
này còn nhiều người hơn ta, nếu ta mang hoài bão giáo hóa họ,
ta liền chạm trán với bao nhiêu phiền lụy khó khăn. Vì vậy
chúng ta chấp nhận sự tầm thường này ẩn nhẫn tu hành, miệt mài
làm những việc trong tầm tay của mình để tạo trạng thái an
lạc, giải thoát cho bản thân.
-
Đối với hàng đệ tử tu theo Thanh Văn Thừa, trước tiên Đức Phật
thuyết Tứ Thánh Đế. Người nào có khả năng nghe, tin, tu theo
Tứ Thánh Đế mới nương theo Thanh Văn Thừa ra khỏi sanh tử.
Trong Tứ Thánh Đế, Đức Phật dạy chúng ta phương pháp diệt khổ
hay Đạo Đế là 37 trợ đạo phẩm, bỏ 37 trợ đạo phẩm, hành giả
không bao giờ đoạn trừ phiền não được. Ba mươi bảy trợ đạo
phẩm là phương cách giúp cho hành giả thăng tiến trên con
đường Thánh đạo, khởi đầu từ pháp tu Tứ Niệm Xứ cho đến Tứ
Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc. Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần,
trải qua quá trình từ ngoài đi lần vào tâm, thành tựu 29 phần
trợ đạo, cuối cùng đưa đến thành quả thể hiện cuộc sống theo
Bát Chánh Đạo hay đó là mô hình sống chân chánh Đức Phật đề ra
cho Hiền Thánh tỏa sáng ở thế gian này.
-
Bát Chánh Đạo, một quy luật sống trong xã hội mà hầu hết giáo
lý đạo Phật giảng dạy trong 49 năm đều nhắc nhở, là thềm thang
căn bản tất yếu người đệ tử Phật phải tuân theo, dù chưa làm
được lợi ích gì lớn lao cho đời như các Bồ Tát, cũng phải là
con người mô phạm hoàn thiện sống an lạc giải thoát, một con
người mẫu mực về trí tuệ, đạo đức hoàn mỹ. Điều này không có
gì viễn vông xa vời, chính Đức Phật và hàng bao thế hệ đệ tử
của Ngài đã đi trên con đường Bát Chánh, đã thể hiện nếp sống
mẫu mực hoàn thiện, hoàn mỹ. Thật vậy, hàng Thanh Văn khởi đầu
xuất gia học đạo được Đức Phật khai tâm thấy rõ cuộc đời ngắn
ngủi, không bền chắc nên không ham ưa. Thanh Văn không quan
tâm đến vui buồn của cuộc đời bằng cách đóng kín 5 giác quan
hay 5 cửa tiếp xúc với bên ngoài. Ngăn chặn 5 tiền trạm này
xong, còn lại phần tinh thần thọ, tưởng, hành, thức theo đó bị
xóa sạch vì 6 căn không tiếp xúc 6 trần nên vấn đề không được
đặt ra, chuyện thế tục danh lợi, thị phi do mắt thấy tai nghe
bị cắt đứt, tâm hồn hành giả trở thành lắng yên. Cách nhìn đời
không vướng bận thế gian của hành giả ở giai đoạn này được ví
dụ một cách sâu sắc bằng hình ảnh người gỗ mà ngắm chim vẽ.
Trong thế giới đau khổ của chúng sanh, hành giả không khổ vì
đang vui với thế giới nội tâm của mình, tám ngọn gió trần
không còn khuấy động, lòng hành giả lúc nào cũng nở hoa, tìm
được niềm vui trong sự an tịnh giải thoát nhờ từng bước diệt
trừ vô minh, loại bỏ phiền não. Chánh hạnh của Thanh Văn là
thể hiện Bát Chánh Đạo trong cuộc sống, quay trở về chính mình
tu tạo thiện nghiệp của thân khẩu ý, loại trừ những hành động
bắt nguồn từ tam độc tham sân si. Sau khi ý căn hoàn toàn
thanh tịnh, hành giả thấy tất cả vật theo cái thấy của Như Lai
phát xuất từ thiền định, không kẹt trong phiền não nhiễm ô
tham chấp, hoàn toàn khách quan không dựa trên tình cảm con
người, nói khác đã tận diệt nhận thức sai lầm của khối óc và
con tim (kiến hoặc, tư hoặc). Từ con người mê lầm bị trói buộc
bởi tâm lý, hành động tha hóa, giáo pháp Phật trong sáng hóa
tình cảm của con người, giúp con người thoát khỏi mọi trói
buộc của tánh tham lam, ích kỷ, những hành vi độc ác thù hận,
kiêu căng xung đột để hành giả xây dựng một cuộc sống an lành
nội tâm và an lạc cho tha nhân. Được soi sáng bởi thấy biết và
suy nghĩ đúng như pháp, hành giả sắp xếp một cuộc sống đơn
giản nhất không tổn hoại sức lực và phá sản tinh thần, hành
giả thường niệm tri túc, sống với thực tế trong tầm tay nên
thân tâm hoàn toàn tự tại an vui. Giải thoát của Thanh Văn
trước nhất là giải thoát chính mình khỏi những khổ đau phát
xuất từ sự cám dỗ của tham dục vì họ biết rõ tham dục nhận
chìm ta trong bể sanh tử. Nói khác, đời sống của hàng Thanh
Văn bỏ tục xuất gia hưởng thụ của đời ít hơn là phần lợi lạc
họ mang đóng góp cho đời. Trên bước đường tu học, ngoài việc
xây dựng cuộc sống đạo hạnh, Thanh Văn còn nỗ lực phát huy trí
tuệ vì trí tuệ hay tánh sáng suốt đóng vai trò then chốt tác
động như ngọn đèn soi sáng sự sống con người. Đối với Thanh
Văn, giới thân huệ mạng mới chính là thân mạng quí báu cần
nuôi dưỡng phát huy, bằng mọi cách phát triển trí tuệ vô lậu.
Để trợ giúp cho trí tuệ mau được trong sáng, hành giả luôn
tinh tấn kiểm tra từng niệm tâm, theo dõi xem trong lòng có
khởi ý ác không, có còn ham muốn không vì sau mỗi ham muốn
thường tiếp nối theo muôn ngàn điều ác khác. Thanh Văn tu phải
gạn lọc từng điều một như vậy vì biết rõ tịnh là thiện, động
là ác nên thường xuyên gạn lọc tội lỗi và đem pháp lành vào
tâm, rút ngắn con đường ra khỏi ngục tù tam giới. Tâm trong
sạch, bình tĩnh mới quyết định được những vấn đề khó khăn một
cách sáng suốt. Dù đời có vui buồn thăng trầm đến đâu chăng
nữa, chúng sanh có tệ ác khen chê cũng mặc, hành giả vẫn giữ
trạng thái tâm bình thường như hư không, không cho khởi bất cứ
niệm nào dù là niệm trái hay niệm phải và lời nói xuất phát từ
tâm hồn thanh thản giải thoát chắc chắn phải êm dịu đúng chánh
pháp làm vơi phiền não cho tha nhân. Sống trong chánh định tụ
thường được lý giải là đức hạnh mà phải giả thể hiện trong
thiền định, người ngoài không thấy biết nhưng nó có khả năng
tác động trên thực tế rất cao. Điều này được chứng minh rõ rệt
qua trường hợp Mã Thắng độ Xá Lợi Phật. Đức Phật sai Mã Thắng
là một người ít nói đến độ Xá Lợi Phất thuộc hạng người nổi
tiếng biện bác giỏi của ngoại đạo. Trạng thái tâm hồn thanh
tịnh lắng yên của Tỳ Kheo Mã Thắng ở trong thiền định như thế
nào chúng ta không thấy biết nhưng đức độ trầm tĩnh của ông
tỏa ra tác động mãnh liệt đến tâm hồn Xá Lợi Phất nên vừa nhìn
thấy Mã Thắng, niềm kiêu hãnh cùng nỗi ray rứt của nhà hùng
biện bậc nhất Xá Lợi Phật bỗng nhiên tan biến như mây khói và
ông xin theo làm đệ tử dù Mã Thắng chẳng nói lời nào. Tám việc
của một bậc thánh thiện kết lại chỉ nhằm mục đích làm phát
sinh và hoàn thiện ba khía cạnh căn bản trong việc tu tập phát
triển trí tuệ là giới, định, tuệ. Trong quá trình tu Bát Chánh
Đạo, nâng tình cảm cho trong sáng và phát huy trí tuệ cao tột
là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Đạo đức và trí tuệ hay
con tim và khối óc đều thăng hoa đến độ nhập làm một, sẽ giúp
cho hành giả nhận thức các pháp đúng như thật, hành động phù
hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tình cảm trong sáng
của con người.
-
Con đường Bát Chánh, con đường dẫn đến an lạc giải thoát cho
biết bao hàng đệ tử, chắp đôi cánh cho con người vươn tới đời
sống cao cả, giúp cho con người trở thành bậc Thánh trên thế
gian, một hoa sen trong nhà lửa tam giới. Đó là chức năng của
đạo Phật chúng ta. Và chức năng đó, nhiệm vụ đó, trước hết
chúng ta phải thực sự thể hiện ngay trong cuộc sống, trong
từng suy tư, từng niệm tâm, từng hành động. Mỗi chúng ta, Tăng
ni và Phật tử hãy là một gương sáng, một mẫu mực của đạo giải
thoát, tỏa ảnh hưởng tốt lành và tích cực vào đời sống xã hội.
Từng đóa hoa Bát Chánh Đạo của mỗi chúng ta kết thành vườn hoa
đạo hạnh bát ngát hương thơm từ bi trí tuệ dâng lên cúng dường
Đức Từ Thị trong ngày đầu Xuân, đóa hoa Bát Chánh Đạo mãi mãi
là mùa Xuân bất diệt làm sáng đẹp cuộc đời của những tâm hồn
tha thiết thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
-
Source:
LotusNet home page
|