-
Năm Tỵ Nói Chuyện Rắn
-
Hương Giang Thái Văn Kiểm
-
--o0o--
-
Năm
Rồng vừa chấm dứt thì năm Rắn liền tới với chúng ta. Cảnh
tượng quen thuộc ngày xưa vẫn còn lai vãng tâm trí mọi người:
-
Rồng chầu ngoài Huế
-
Ngựa tế Đồng Nai,
-
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
-
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
-
Tới đây thì ở lại đây
-
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về!
-
Rồng xanh, rồng vàng tạm lánh mình trong thời gian 12 năm,
nhường chỗ cho rắn với năm Tân Tị khởi đầu ngày Nguyên Đán,
mồng một tháng Giêng, tức là ngày 24.1.2001. Chúng ta biết
rằng Âm lịch khai dung từ năm 2,637 trước Kitô, nhằm năm 61
đời Hoàng đế bên Trung Quốc. Như vậy Âm lịch đã xuất hiện cách
đây: 2,637 năm cộng 2001, vị chi: 4,638 năm. Năm nay, 2001
thuộc vào "Vận niên lục giáp" thứ 78, khởi đầu từ năm 1984 và
sẽ chấm dứt vào năm 2,043. Biết rằng mỗi giáp trên nguyên tắc
chỉ có 10 năm mà thôi (chẳng phải là 12 năm), thì lục giáp là
10 x 6 = 60 năm, tức là một thế kỷ của Lịch đại Á Đông. Chu kỳ
60 năm này, người Tây phương gọi là Cycle sexagésimal. Chu kỳ
này luôn luôn khởi đầu với năm Giáp Tý, cho nên quyển lịch
chính thức của ta, được gọi là Hoàng Việt Giáp Tý Niên Biểu,
do cụ Nguyễn Bá Trác, Quan Lộc Tự Khanh, Tá Lý Bộ Học (Huế)
biên soạn, và do Bộ Học ấn hành năm Khải Định thập niên, tam
nguyệt nhựt (1925).
-
Nếu đại chu kỳ là 60 năm, thì tiểu chu kỳ là 12 năm, khởi đầu
với năm Tý, mà biểu tượng là Chuột.
Chu
kỳ này, Tây Phương gọi là Cycle duodénaire. Trong một đại chu
kỳ 60 năm, có năm tiểu chu kỳ 12 năm (12 x 5 = 60), biết rằng
60 là tối thiểu bội số chung của 10 và 12 (10 là phần Giáp
(Thập can), còn 12 là phần Tý (Thập nhị chi).
-
Những Điều Nên Biết Về Loài Rắn
-
Nói tới loài Rắn, chúng ta phải chia ra hai loại: rắn hiền và
rắn dữ. Cả hai đều thuộc ngành Bò sát (Raptiles), họ
Ophidiens. Rắn hiền như rắn nước, rắn học trò... bơi lội thong
thả nơi hồ ao, kiếm ăn tôm cá, ếch nhái. Loại rắn này dễ lầm
lẫn với giống lươn (anguille), mà chúng ta tìm thấy trong câu
đối lạ lùng, lửng lơ và lắt léo sau đây:
-
Le lội lung lăng lay lá lách
-
Lươn lo lòn lỏi lọt lùm lau.
-
Trong loài rắn dữ, tức là rắn độc, chúng ta không khỏi rùng
mình khi nhắc tới: rắn hổ mà Tây phương gọi là Cobra, Naja
tripudians, rắn hổ mang mà họ gọi là Bongare, Bungarus
fasciatus, rắn lục mà họ gọi là Serpent vert, Serpent
bananier, Trimeresurus, rắn đẻn mà họ gọi là Vipere
lachesis... Nhưng mà con rắn dễ sợ và nguy hiểm nhất, dài tới
4 thước, là con Ophiophagus elaps, hay là Naja hamadryas, sinh
sản khá nhiều bên Ấn Độ. Rắn này có khả năng rượt theo người
để cắn chết. Nhà văn Maurice Maindron có nói tới giống rắn này
trong quyển tiểu thuyết La Gardienne de I' Idole Noire. Tuy
thế, cũng con rắn đó đã tự ý quấn thân nhiều vòng, để làm
thành một cái bệ cao, chịu cho Đức Phật an tọa lên trên, mà
tham thiền nhập định, tránh cho Ngài khỏi bị bệnh tê thấp và
đồng thời tỏ ra sự quy thuận hoàn toàn đối với thần lực vô
lường của Ngài.
-
Rắn Trong Lịch Sử Việt
Nam
-
Trong lịch sử ta có biết bao nhiêu là truyện rắn. Chúng ta chỉ
nhắc lại một truyện điển hình nhất là Thị Lộ mà người đương
thời cho là hiện thân của loài rắn độc, có thể toát lược như
sau:
-
Năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (con vua Lê Lợi) đi
tuần du phương đông, duyệt võ ở Chí Linh. Nguyễn Trãi lúc bấy
giờ đã về trí sĩ tại Côn Sơn, bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà
vua. Lê Thái Tông bèn đến viếng chùa Côn Sơn là nơi có ẩn am
của Nguyễn Trãi. Nhìn thấy tì thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn
Thị Lộ nhan sắc lộng lẫy, lại có biệt tài về văn chương, vua
Lê Thái Tông bèn phong cho chức Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu
bên cạnh nhà vua. Đến khi Đông tuần, xa giá về tới Trại Vải
(Lệ Chi Viên), thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia
Bình, thình lình nhà vua nhuốm bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Thị
Lộ phải hầu hạ, thang thuốc suốt đêm, rồi nhà vua băng hà. Các
quan hốt hoảng, vội vã và bí mật phụng giá về Kinh, nửa đêm
vào cung mới làm lễ phát tang. Tất cả triều thần đều buộc tội
Thị Lộ đã âm mưu giết vua, liền đem nàng ra giết chết.
-
Có sách nói rằng Thị Lộ đã bỏ thuốc độc vào chén cho vua uống.
Có sách nói vua bị cắn lưỡi mà chết. Riêng phần Nguyễn Trãi,
ông chỉ nói rằng: "Nếu có tội thì cứ chiếu pháp luật mà nghiêm
trị".
-
Thảm trạng này xảy ra đúng lúc trong triều có nhiều võ quan
theo phe Lê Sát, sinh lòng đố kỵ vì thấy ngày trước Nguyễn
Trãi được Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) trọng dụng, đem lòng oán
ghét, nhân cơ hội này, liền nghi Nguyễn Trãi là chủ mưu sát
đế. Thế là sau đó, quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển Đại thần
Nguyễn Trãi đã bị giết và cả ba họ bị tru di.
-
Truyền thuyết cho rằng: lúc lập vườn tại Côn Sơn, lính hầu của
Nguyễn Trãi đã giết chết một ổ rắn gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn
mẹ tái sinh, bò lên trần nhà nhìn Nguyễn Trãi đọc sách. Rắn
nhỏ xuống một giọt máu đào, xuyên thấm qua ba tờ giấy, nhằm ám
chỉ là ba họ. Về sau, cũng con rắn đó đã hiện thân nơi Thị Lộ
làm ả bán chiếu gom ở Tây Hồ, gặp Nguyễn Trãi, có xướng họa
như sau:
-
Ả! ở đâu, bán chiếu gom?
-
Chẳng hay chiếu đã hết hay còn?
-
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
-
Đã có chồng chưa? Được mấy con?
-
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gom
-
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
-
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
-
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
-
Sau đó thì Thị Lộ đã trở thành tì thiếp của Nguyễn Trãi, nhập
được gia đình ông ta, để âm mưu phục thù, trả nợ máu ngày xưa
là mấy mẹ con đã bị giết oan nơi bụi rậm.
-
Cái án oan này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét
lại. Đó là vụ án lịch sử Lệ Chi Viên. Vua thấy có nhiều điều
hàm hồ, oan ức cho một đại công thần khai quốc, liền truyền
hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức cho Nguyễn Trãi, tức
Lê Trãi, con cháu ông được tìm kiếm và đưa ra làm quan, lại
cấp tư điền để con cháu lo việc tế tự hàng năm (1).
-
Sở dĩ vua Lê Thánh Tông đã duyệt lại bản án là vì vợ nhà vua
tên Nguyễn Thị Hằng (1445-1505) là cháu gái 4 đời của bà Châu
Thị, vợ nhất của Nguyễn Trãi, đã trốn thoát được bản án tru di
tam tộc 1442, chạy vào Nam Hà ẩn náu và sinh sống. Bà Châu Thị
đem theo được nhiều con, trong đó có Nguyễn Công Duẫn, rồi
Duẫn sinh ra Nguyễn Đức Trung, rồi Trung sinh ra Nguyễn Văn
Lãng, Lãng sinh ra Nguyễn Hoằng Dụ, Dụ sinh ra Nguyễn Hoằng
Kim, tức là Nguyễn Kim (1500-1545), Kim sinh ra Nguyễn Hoàng
(1525-1613), tức là chúa Tiên, chúa đầu tiên của nhà Nguyễn.
-
Như thế, Nguyễn Kim là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Còn hơn thế
nữa, ông tổ xa xưa của Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Kim là Nguyễn
Bặc, khai quốc công thần đời nhà Đinh và nhà Lý, từ thế kỷ XI.
Ngoài ra gia phả của Nguyễn Du, tác giả Kim Vân Kiều, cũng ghi
dòng họ lên tới Nguyễn Bặc. Gần đây hơn trong lịch sử cận đại,
tiểu sử của đại thần Nguyễn Hữu Độ, Kinh lược Bắc Kỳ, cũng có
ghi là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Chúng tôi căn cứ trên hai tài
liệu sau đây:
-
Quyển Chrestomathie Annamite (Quảng Tập Viêm Văn) của Edmond
Nordemann (Ngô Đề Mân), ấn hành ở Hà Nội năm 1898, trang
26-27.
-
Bài Les Familles Illustres de l' Annam: S.E.Nguyễn Hữu Độ của
L.Sogny, đăng trong Bulletin des Amis du Vieux
Hue,
năm 1924, trang 169-204.
-
Còn như sự kiện Nguyễn Du thuộc dòng họ Nguyễn Trãi thì các
nhà văn học sử Dương Bá Cung, Lê Thước, Bùi Văn Nguyên, căn cứ
trên nhiều bổn gia phả họ Nguyễn ở miền Bắc và miền Trung, đã
xác nhận nhiều sự trùng hợp, mà nhà báo Cô Thần đã đúc kết và
nêu lên trong báo Tự Do số 1056, ấn hành ở Sài Gòn ngày
22.11.1960, trang đầu: Công việc tra cứu của cụ Lê Thước cho
biết Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng một dòng họ và chung một
ông tổ. Ông tổ này là Nguyễn Bặc, mà vua Bảo Đại cũng có nhận
là ông tổ của mình, trong quyển sách "Le Dragon d' Annam",
Editions Plon, Paris 1980, trang 36-37.
-
Rắn Trong Văn Học Sử Việt
Nam
-
Trong văn học sử của ta, mà cũng có liên hệ sử Tàu, chúng ta
còn nhớ giai thoại bà Đoàn Thị Điểm (sinh năm Ất Dậu 1705, mà
người ta cho là tác giả Chinh Phụ Ngâm, mà cũng có người cho
là của Phan Huy Ích) đã đối đáp tài tình với ông anh là Đoàn
Doãn Luân. Một hôm ông này muốn thử tài cô em gái, bèn lấy một
câu chữ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên nói về Lưu Bang (Hán Cao
Tổ) làm đề tài để cho bà đối đáp. Câu ấy như sau:
-
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi
-
Nghĩa là con rắn trắng đón đường, ông Quý (Lưu Bang) liền rút
gươm ra chém (con rắn bị đứt làm hai khúc, chết liền).
-
Bà Đoàn Thị Điểm nhanh trí, cũng dùng một câu trong Sử Ký đời
vua Nghiêu Thuấn, nói về ông Vũ (tức là vua Hạ Vũ, sau này nối
ngôi vua Thuấn), để đối lại như sau:
-
- Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết
-
Nghĩa là:
-
- Con Rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ nhìn trời mà than!
-
Cũng trong Văn học sử của ta, Lê Quý Đôn (1726-1784) đã sáng
tác một bài thơ thất ngôn bát cú trong một trường hợp khá ly
kỳ như sau: Thuở nhỏ, cậu bé Lê Danh Phương (tên đầu tiên của
Lê Quý Đôn) rất cứng đầu (rắn đầu) và biếng học. Cha Phương
quở trách, ông phải làm một bài thơ "Rắn Đầu" để tạ tội, với
điều kiện mỗi câu trong bài bát cú phải có một tên rắn. Phương
vâng lời và đọc ngay như một thần đồng:
-
- Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
-
Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha
-
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
-
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
-
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
-
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
-
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học.
-
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
-
Đặc điểm của bài thơ này là: nếu ta bỏ hai chữ ở đầu mỗi câu,
ta sẽ được một bài Ngũ ngôn bát cú:
-
- Liu điu vẫn giống nhà
-
Biếng học, chẳng ai tha
-
Hổ lửa đau lòng mẹ,
-
Mai gầm rát cổ cha.
-
Chỉ quen tuồng nói dối,
-
Cam chịu vết roi tra.
-
Trâu Lỗ chăm nghề học.
-
Mang danh tiếng thế gia.
-
Xin lưu ý: Nước Lỗ là quê quán Đức Khổng Tử mà thiên hạ gọi là
Vạn Thế Sư Biểu, hay là Sinh Dân Vị Hữu, nghĩa là từ khi có
loài người thì chưa có ai (bằng ông ta)! Còn nước Trâu là quê
hương của Thầy Mạnh Tử. Tôi còn nhớ một câu xướng độc đáo:
-
- Nước lỗ trâu chảy ra Khổng Mạnh
-
Nghĩa là:
-
- Dòng nước nhỏ từ lỗ chân trâu ra thì không có (khổng) mạnh
mẽ.
-
Câu này khó quá chưa ai đối được cả!
-
Đã nhắc tới Bảng Nhỡn Lê Quý Đôn (tục danh Lê Danh Phương), tự
là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ra trong niên hiệu Bảo
Thái thứ 7 (1726), đời vua Lê Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương ở
xã Diên Hà, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình), con của ông
Lê Phú Thứ và bà họ Trương. Thân sinh đã từng đỗ Tiến sĩ năm
1724 và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư. Thuở bé Lê Danh
Phương đã nổi tiếng thần đồng về trí thông minh và óc nhớ dai:
Hai tuổi đã biết đọc chữ "Hữu" là có, và "Vô" là không. Năm
tuổi đã đọc nhiều thiên trong Kinh Thi. Mười một tuổi đã học
Sử (Sử Ký của Tư Mã Thiên, Bắc Sử, Nam Sử v.v...), học thuộc
lòng tám chín chục trang, đồng thời học luôn cả Kinh Dịch.
Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, sử truyện và sách vở
của Bách Gia Chư Tử, mỗi ngày có thể cảm tác mười bài phú mà
không cần viết nháp.
-
Ngọc Rắn Trong Nhân Gian
-
Người ta thường nói về Nọc Rắn của loài rắn độc, ít ai nói tới
Ngọc Rắn. Đây là một câu chuyện có thực ở nước ta. Chúng ta
hãy trở về Đèo Hải Vân thời tiền chiến, để nghe một người ở
địa phương kể như sau:
-
Thời đó người ta đang xây con đường xe lửa Xuyên Đông Dương,
gọi là Transindochinois. Thật ra là Xuyên Việt, vì nước mình
rộng lớn và quan trọng, tiêu biểu cho cả hai nước Lào Miên.
Chặng đường thứ nhất: từ Hà Nội tới Vinh, chặng đường thứ hai:
từ Vinh tới Huế, chặng thứ ba từ Huế vào Đà Nẵng. Chặng này
công phu và khó khăn nhất, vì núi non hiểm trở. Đà Nẵng ngày
xưa mang tên Thạc Gián, tên làng xã chính của thị xã. Thạc
Gián viết nhầm và đọc nhầm là Tu Gián, vì hai chữ Thạc và Tu
viết gần như giống nhau. Từ đó, qua sự vụng về và biên chép
của các người biên chép và thông ngôn thời Pháp xâm chiếm nước
Nam, mà địa danh viết nhầm là Tu Gián đã trở thành Tourane.
Còn địa danh Đà Nẵng thì bắt nguồn từ chữ Đà, một thổ âm có
nghĩa là Sông, suối. Ví dụ: Đà Rằng ở Phú Yên, Đà Lạt ở cao
nguyên. Suối của bộ lạc Lạt Tiếng Chiêm Thành là Ea (Da), cũng
có nghĩa là sông là nước. Ví dụ như Ea Trang (Nha Trang) là
con sông tre, con sông trên bờ có mọc nhiều tre (Krưm), chữ
Krưm đọc trại thành Trang.
-
Trở lại vùng Đà Nẵng, ta lấy quốc lộ 1, trèo đèo Hải Vân quan,
đi xuống làng An Cư (Lăng Cô), đi ngang qua Truồi, lần tới Phú
Bài, Thần Phù, Dạ Lê, Thanh Thủy, An Cựu, rồi tới Huế, đường
dài 110 cây số, đúng 1 độ (degré) của Bắc Vĩ tuyến. Đường này
quanh co, lúc làm đường xe lửa, phải đục tới ba bốn cái hầm
trong núi cao, trong đó có hai cái hầm dài và hiểm trở nhất là
Hầm Sen và Hầm Chuối.
-
Dân địa phương có câu ví ngôn:
-
- Túi thui như chui vào Hầm Sen
-
Và hai câu hò để than thân trách phận:
-
- Chiều chiều gió thổi Hải Vân
-
Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân em buồn!
-
Hay:
-
- Chiều hôm dắt mẹ qua đèo,
-
Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni!
-
Thời tiền chiến, có một người cai phu lục lộ, trong lúc đi
tuần dọc đường rầy, lúc sắp chui vào Hầm Sen thì chợt thấy lóa
mắt bởi nhiều tia ánh sáng. Dụi mắt để nhìn lại lần nữa thì
thấy ánh sáng này nhúc nhích và chuyển động. Cai phu liền bật
đèn pin rọi thì nhìn thấy luồng ánh sáng đó tỏa ra từ miệng
con rắn dài ba thước, đương bò ngang qua đường rầy. Cai phu
nhìn kỹ thì thấy con rắn ngậm một hòn ngọc sáng chói. Thấy
người và ánh đèn, con rắn liền bò nhanh chui vào Hầm Sen biến
mất. Tình cờ một tiều phu già đi ngang qua đây, cai phu kể
chuyện lại thì được tiều phu chỉ về cách thức lấy được ngọc
rắn. Tiều phu bảo phải bắt một con gà, cột nó vào cái rổ lật
ngửa, rồi đặt cái rổ đó lên trên một thau nước và cột chặt gà,
rổ và thau nước lại với nhau, làm thế nào thau không bị lật
đổ. Xong rồi, cứ việc ngồi rình đừng để cho rắn thần trông
thấy.
-
Cai phu y theo, làm đúng như tiều phu chỉ bảo. Chờ ít lâu, cai
phu trông thấy từ miệng hang bí mật, con rắn từ từ bò ra, đánh
hơi nhìn tứ phía, rồi bò thẳng tới cái rổ mầu nhiệm, nhờ có
con gà bên trên và thau nước phía dưới. Con rắn ngóc cổ, vươn
mình phóng tới, cắn mạnh vào cổ con gà, ngậm cứng cho gà ngộp
thở, rồi chui vào cánh, quấn mình mấy ngoai, riết chặt thân gà
cho đến nhừ tử. Tiếng gà kêu vang nơi rừng thẳm, vang dậy cả
Hầm Sen, giữa lúc hàng trăm phu phen đang cong lưng đập đá vá
đường, đem mồ hôi nước mắt đổi lấy chén cơm bát cháo! Lúc bấy
giờ, mặt trời đã ngả về tây, ánh vàng xuyên qua những đám mây
xanh xám, treo lững lờ trên những ngọn cây bao trùm đèo Hải
Vân hùng vĩ. Trong cảnh trí thiên nhiên huyền ảo đó, cai phu
chăm chú nhìn thấy con rắn, lúc sắp sửa nuốt trọng con gà, đã
tự nhiên phun ra viên ngọc vào rổ, rồi viên ngọc đó lọt rổ,
rơi xuống thau nước, óng ánh lung linh như có ánh sáng mặt
trời chiếu vào. Cai phu lập tức vác gậy đuổi đập con rắn,
khiến nó sợ hãi phải bò gấp vào Hầm Sen, chui vào hang biến
mất. Và trong lúc hốt hoảng, rắn già đành bỏ lại viên ngọc
quý.
-
Cai phu mừng rỡ như đã trúng số độc đắc, anh ta giải nghệ trở
về làng với viên Ngọc Rắn. Viên ngọc này to bằng quả nhãn, màu
thanh thiên, trong sáng tuyệt vời và phát quang trong đêm tối.
Nó lại còn có công hiệu chữa trị những người bị rắn độc cắn.
Chỉ cần áp viên ngọc nơi chỗ rắn cắn là nó hút hết chất độc,
hút hết máu đen cho tới khi nào thấy màu hồng chảy ra thì mới
rút viên ngọc. Nhờ viên ngọc quý, cai phu đã cứu được không
biết bao nhiêu mạng người.
-
Thân sinh tôi kể chuyện ngọc rắn như sau:
-
Đông Y Sĩ Trung Quốc - Công Dã Tràng là người đầu tiên đã khám
phá tính chất kỳ diệu của Ngọc Rắn. Thuở ấy, y sĩ họ Công có
nuôi một cặp rắn hổ. Một hôm thừa cơ rắn đực đi vắng, rắn cái
gian dâm với con rắn đực ở gần đó. Tình cờ Công Dã Tràng nhìn
thấy, ông tức giận, bèn lấy cây rượt đánh con rắn lăng loàn.
Rắn đực đi đâu nãy giờ, vừa bò về trông thấy gia sự đau xót
như vậy, bèn ngỏ ý cảm tạ Công Dã Tràng, bằng cách nhả viên
ngọc quý trong miệng ra, tặng ông ta và dặn như sau:
-
- Đại nhân hãy giữ kỹ viên ngọc này nó sẽ giúp ông cấp cứu
thiên hạ, nếu chẳng may họ bị rắn độc cắn. Đại nhân cứ áp viên
ngọc vào nơi thương tích, là nó sẽ hút hết chất độc. Ngọc này
không phải rắn nào cũng có, phải có sự tu luyện lâu năm, ngọc
mới kết tụ trong miệng. Vì thân hình rắn trơn tru, rắn chỉ
biết dấu ngọc vào miệng mà thôi, như thế chẳng ai trông thấy
cả. Nhưng mà có một điều bất tiện là: lúc ăn rắn phải nhả viên
ngọc ra, ăn xong lại phải ngậm vào, giữ gìn cẩn thận như cái
bùa hộ mệnh của rắn thần.
-
Bây giờ ta phải đánh dấu hỏi: Tại sao Công Dã Tràng đã hiểu
thấu ngôn ngữ của loài vật như con rắn? Thì đây là câu trả
lời. Theo Lê Quý Đôn viết trong Văn Đài Loại Ngữ, quyển 7, Thư
Tịch Loại, gồm 107 điều nói về Kinh Sử Tử Tập, từ thời Xuân
Thu Chiến Quốc cho đến các đời Đường Tống Nguyên Minh Thanh,
và căn cứ sách Luận Ngữ của Đức Khổng Tử, thì Công Dã Tràng
hiểu tiếng chim, nhà nghèo, không có việc làm, không lấy gì để
ăn. Một hôm có con chim bay trên mái nhà, kêu rằng: "Cọp ăn
thịt dê ở núi Nam Sơn, nên mau ra mà lấy về". Công Dã Tràng
nghe lời chim gọi, chạy ra núi Nam Sơn quả nhiên bắt được dê
bị cọp ăn; còn thừa. Khi người chủ mất dê đi tìm, theo vết tới
nhà trông thấy sừng dê, cho là... Công Dã Tràng ăn trộm dê,
bèn kiện lên quan. Vua nước Lỗ hạ lệnh đưa Công Dã Tràng giam
vào ngục. Còn Khổng Tử thì một mực kêu oan cho Tràng mà cũng
không được.
-
Ít lâu sau, chim sẻ lại kêu ở nhà ngục rằng: "Người nước Tề
xâm lăng bờ cõi, nên mau ra đánh đuổi". Tràng bảo người cai
ngục tâu việc ấy lên vua quan. Vua không tin nhưng rồi cũng
đâm lo, bèn sai người đi ra biên thùy thám thính thì quả thấy
quân Tề ồ ạt kéo tới thật. Vua bèn sai Công Dã Tràng đem quân
đi đánh, đuổi được quân Tề. Vua bèn tha cho Công Dã Tràng và
phong cho làm Đại Phu. Nhưng ông ta không nhận, vì ông ta nghĩ
rằng: "Nhờ loài chim mà được tước lộc là một điều nhục". Tiết
tháo vậy thay! Từ đó về sau, không ai học tiếng chim nữa.
Nhưng ngày nay, có nhiều nhà khoa học lại bắt đầu học tiếng
chim cá, thú vật, để hiểu biết thêm ngôn ngữ của loài vật.
-
Loài Bò Sát Trong Thần Thoại Việt Nam
-
Ngoài những con rắn ta thường trông thấy trên đất liền, thường
có giống Thuồng Luồng dài năm bảy chục thước, chuyên sống nơi
biển lớn, hồ rộng. Hồi đầu thế kỷ, có nhiều thủy thủ đã trông
thấy thuồng luồng nơi Vịnh Hạ Long, nơi quần đảo Bạch Long Vĩ.
Họ chỉ trông thấy cái đuôi (vĩ) mà cũng đã dài lắm rồi. Lại có
người trong thấy con thuồng luồng xuất hiện vài phen nơi hồ
Lock Ness, bên xứ Scotland. Con quái vật này (le monstre de
Lock
Ness)
trải qua nhiều thế kỷ, đã làm cho người ta mất khá nhiều thời
giờ để rình ngó, nó cũng làm cho văn nhân, sử gia tốn công
viết lách tìm tòi.
-
Riêng về dân tộc chúng ta vốn thuộc loài Giao Chỉ. Danh từ kép
nầy có nhiều nghĩa: Ngón chân cái tách ra, lúc đứng xếp chân
gần nhau thì thấy hai ngón chân cái giao đầu với nhau. Lại
thêm một nghĩa nữa là: Bờ nuớc có thuồng luồng, cá sấu, loại
sauriens như dinosaur, plésiosaures, diplocdocus v.v... thời
tiền sử sinh sống. Đó là hai ý nghĩa chính, còn nhiều cách
giải thích khác nữa không thể nói hết được.
-
Ngày xưa, giao long và thuồng luồng tranh nhau mà sống khắp
sông hồ và duyên hải Nam Hoa và Bắc Việt. Do đó mà Hàn Dũ đời
Đường (768-823) và Hàn Thuyên đời Trần Thái Tông (1225-1257)
đã được lệnh nhà vua làm bài văn tế cá sấu, để đập đuổi cá sấu
đang nhiễu hại dân chài lưới, đi ra khỏi sông Phú Lương, tức
là sông Hồng Hà ngày nay. Theo nhà văn Roger Caillois, con
rồng phát xuất từ con Giao Long mà ông dịch là Alligator, một
giống bò sát (reptile) có nhiều liên hệ với nước mây mưa gió.
Ắt hẳn con Giao Long là vật tổ của người Giao Chỉ, một sắc dân
sống miền duyên hải, chuyên sống về nghề chài lưới và có tục
lệ xâm mình, vẽ hình rồng rắn, khiến cho giống thuồng luồng,
cá sấu phải nể nang khiếp sợ mà tránh né, hoặc được xem như là
đồng loại để đừng giết hại lẫn nhau.
-
Tục lệ xâm mình này đã có từ ngàn xưa vì sách Sử Ký của Tư Mã
Thiên đời Hán đã từng ghi "Tiễn phát, văn thân, thác ti, tả
nhậm": Cắt tóc ngắn, vẽ mình, vòng tay (cung kính), cài nút áo
phía trái. Ấy là bốn đặc tính của dân Việt Giao Chỉ. Tục lệ đã
chấm dứt đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) anh ruột Công chúa
Huyền Trân, và cũng là người đầu tiên đã dám cãi lệnh vua cha,
nhất định không chịu xâm mình. Đó là một ông vua có óc tiến
bộ, đã dám quên gốc chài lưới của tổ tiên, để mạnh dạn tiến
vào thời kỳ nông nghiệp phồn thịnh của dân ta. Hơn nữa, việc
cống hiến ngọc trai, san hô (coral) cho vua Tàu không còn ràng
buộcchặt chẽ như xưa, và từ đó dân chài của ta không còn phải
lặn lội dưới biển sâu để mò trai kiếm ngọc.
-
Xem như trên, các loài rồng rắn, thuồng luồng, cá sấu có nhiều
điểm tương đồng, mà cũng có nhiều điểm dị biệt: Rồng có bốn
chân, không có cánh mà vẫn bay được lên tận mây xanh, Thuồng
luồng không chân và dài như con chình khổng lồ, có thể lật
thuyền như chơi; Cá sấu da dầy, răng như cưa, mắt trợn...
trông thấy mà kinh; Rắn không chân, bò sát đất, nhưng khéo tu
thì có ngọc! Hầu hết rồng rắn dị hình, dị tướng, đều mang nặng
tính chất kỳ bí và thần thoại, do óc quan sát tinh vi và trí
tưởng phong phú của loài người.
-
Ghi chú:
-
(1) Cũng có giả thuyết: Người vợ thứ tư của Nguyễn Trãi,
tên là Phạm Thị Mận, đang đi chợ, nghe tin dữ, vội vã bồng con
trai, trốn sang nước Bồn Man (Lào), về sau lại trở về dưới
thời Vua Lê Thánh Tông. Người con trai tên là Anh Vũ, học
giỏi, đỗ đạt làm quan to, được vua cử đi sứ sang Trung Quốc.
Lúc đi thuyền trên hồ Động Đình thì bị một con thuồng luồng ví
chận, muốn làm lật thuyền. Anh Vũ biết con rắn này là hiện
thân của Thị Lộ, bèn cầm dao nhảy xuống hồ đánh và giết được
rắn, máu trồi lên đỏ cả hồ, rồi Anh Vũ cũng biến đi đâu mất!
Từ đó về sau thì hồ êm sóng lặng, dân chúng đi lại bình an.
-
Source:
Tuần Báo Dân Việt
(Sydney,
Australia) , số Xuân Tân Tỵ
2001
|