-
LỤC TẶC VÀ LỤC THÔNG
-
HT Thích Thanh Từ
-
--o0o--
-
-
Đề
tài chúng tôi sẽ trình bày cho quý Tăng Ni và Phật tử hôm nay
là lục tặc và lục thông. Thường người thế gian có điều gì giận
dỗi hay nói "nổi tam bành lục tặc". Vậy lục tặc là gì ? Chữ
tặc là kẻ cướp, kẻ giặc. Trong kinh Phật luôn luôn dạy, mỗi
chúng ta có đủ sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu
căn đó nếu mê lầm bị sáu trần lôi cuốn thì sáu căn biến thành
lục tặc. Còn nếu chúng ta khéo tu, khéo gỡ, không cho dính
nhiễm sáu trần thì sáu căn liền thành lục thông.
-
Như vậy thì mắt, tai, mũi, lưỡià của chúng ta là lục tặc mà
cũng là lục thông. Chỉ khác một bên không biết tu để cho dính
nhiễm, còn một bên biết tu gỡ bỏ không cho dính nhiễm. Như mắt
chúng ta thấy vật gì đẹp liền trầm trồ khen ngợi rồi sanh tâm
ưa thích. Đó gọi là dính, là nhiễm. Như vậy con mắt là một đứa
giặc. Vì dính nhiễm với sắc trần cho nên nó phá hoại công đức
lành của mình, do đó gọi nó là giặc, là kẻ cướp. Các vị nào tu
mà thấy người đẹp, đồ vật đẹp, hoa đẹp liền chú ý, khen ngợi,
chính là bị một đứa giặc dẫn đi rồi.
-
Kế đến lỗ tai nghe lời khen, tiếng chê. Nghe lời khen trong
lòng chúng ta vui mừng, bị chê chúng ta phiền não, đó là đứa
giặc thứ hai. Bởi vì vui mừng là hiếu danh, phiền não là bệnh
hoạn nên nó cướp mất công đức lành của chúng ta.
-
Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ có hoa thơm, có mùi
ngọt ngào thì ưa thích, còn qua những chỗ có mùi hôi thối thì
không ưa. Như vậy lỗ mũi đã phá hoại công đức của chúng ta. Đó
là đứa giặc thứ ba.
-
Đến lưỡi của chúng ta. Khi món ngon chúng ta thấy thích, ăn
món dở chúng ta bực bội. Thích món ngon mà không được ăn, ghét
món dở mà bị ăn hoài đâm ra bực bội. Vậy cái lưỡi thích ngon,
chán dở đó là đứa giặc thứ tư.
-
Thứ năm là xúc chạm. Xúc chạm những gì êm ái ta có cảm giác
thích thú, xúc chạm những gì thô nhám khó chịu thì chúng ta
ghét. Những xúc chạm đó làm chúng ta đắm mến, say mê hoặc làm
chúng ta khó chịu chán ghét, nên nó là đứa giặc thứ năm.
-
Đứa thứ sáu là ý. Ý chúng ta tiếp xúc với pháp trần, trần này
hơi thầm kín một chút. Khi chúng ta nhớ hình ảnh người phá
hoại mình thì bực bội, nhớ hình ảnh người thương mến mình liền
dễ chịu. Đó là đứa giặc thứ sáu.
-
Chúng ta hãy thật thà xem xét có phải sáu căn là sáu đứa giặc
không ? Nếu phải thì chúng ta còn công đức hay mất công đức ?
Nuôi sáu đứa giặc phá phách này thì công đức chúng ta tiêu tan
hết. Như vậy chúng ta tu là phải làm sao đừng để sáu căn dính
nhiễm với sáu trần. Đó là đuổi được sáu đứa giặc hay còn gọi
là lục tặc, nếu không bọn chúng sẽ làm hư hoại các công đức
của chúng ta. Mỗi vị hãy tự kiểm lại mình để cố gắng khéo tu.
-
Tôi dẫn một hình ảnh mà mọi người đều dễ thấy, dễ nhớ. Khi vào
chùa chúng ta thường thấy thờ một vị Bồ-tát hình tướng mập
mạp, miệng cười toe toét. Đó là Bồ-tát Di Lặc. Có tượng Bồ-tát
ngồi với sáu đứa trẻ, đứa móc con mắt, đứa chọc lỗ tai, đứa
khều lỗ mũi, đứa thọt vào miệng v.và Sáu đứa chọc phá như vậy
nhưng Bồ-tát vẫn cười, không bực bội, không rầy rà gì hết. Sáu
đứa trẻ đó tượng trưng cho lục tặc. Mặc dù chúng nó chọc phá
nhưng Ngài vẫn thanh thản tự tại. Sáu đứa giặc tức là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý, dù bị quấy nhiễu nhưng Bồ-tát vẫn
tươi cười, chứng tỏ Ngài đã thắng được lục tặc. Chiêm ngưỡng
hình tượng Ngài chúng ta phải học theo gương của Ngài. Một vị
Bồ-tát lúc nào cũng thong dong tự tại, không buồn phiền, bực
bội. Như vậy lục tặc đối với Ngài đã thành lục thông rồi.
-
Chúng ta tu phải làm sao chuyển lục tặc thành lục thông mới là
người thắng trận. Còn nếu bị lục tặc nhiễu loạn thì thành
người thua trận. Trong kinh A Hàm chư Phật có kể câu chuyện
một đàn khỉ đi ăn. Khỉ chúa ra lệnh tất cả khỉ con phải đi
chung đàn, theo sau khỉ chúa không được đi tản mát. Trong đó
có một khỉ con thấy khỉ chúa đi trước, gặp thức ăn ngon khỉ
chúa lượm ăn hết, nên nó tách đàn đi riêng lẽ để kiếm ăn. Khi
thấy miếng mồi thơm ngon nó liền dùng chân trước chụp lấy,
không ngờ đây là bẫy của thợ săn đã gài chất nhựa xung quanh
nên nó bị dính tay. Dính tay này nó lấy tay kia gỡ nên cũng
dính luôn. Kế lấy chân sau gỡ cũng bị dính, còn lại một chân
cố bươi cũng dính. Như vậy dính hết bốn chân nó dùng cái đuôi
ngoe ngoe móc cũng bị dính. Sau cùng nó lấy cái miệng quặp gỡ
nên bị dính luôn. Bốn chân, đuôi, miệng, cả sáu thứ bị dính,
hết cục cựa. Chú thợ săn đến lượm bỏ vô giỏ quảy về.
-
Phật mượn ví dụ này để nói chư Tăng, chư Ni tu hành nương các
bậc đạo đức. Nhưng khi thấy Phật tử cúng dường các Hòa thượng,
không cúng cho mình thì cảm thấy buồn vì nghèo thiếu, nên muốn
ra riêng để được người ta quý trọng hơn. Cũng như chú khỉ con
còn trong đàn, thấy khỉ chúa hưởng hết những thức ăn ngon nên
bất bình mới bỏ đàn. Vì thiếu kinh nghiệm không biết đâu là
mồi người ta bẫy, đâu là thật nên gặp gì lượm nấy mới dính tay
chân cho đến sáu căn, không còn dẫy dụa được nữa. Vì vậy bị
thợ săn lượm bỏ vô giỏ.
-
Đức Phật dụ miếng mồi là sáu trần. Một tay bị dính rồi thì cả
sáu bộ phận bị dính hết. Bẫy nhựa của thợ săn dụ cho sáu căn
dính với sáu trần. Khi sáu căn dính với sáu trần rồi thì thợ
săn (dụ cho Ma vương) xách đi đâu cũng phải chịu. Chúng ta tu
nếu khôn ngoan thì như con khỉ đi theo đàn, có người bảo hộ.
Khỉ con không dính bẫy nên được tự do dù ăn ít một chút cũng
không sao. Còn muốn ăn ngon, đi riêng lạc đàn thì bị mắc bẫy
rất là tai hại.
-
Như vậy sáu căn dính với sáu trần tức chúng ta bị Ma vương dẫn
đi. Nó biểu chúng ta làm gì chúng ta đều phải nghe theo, không
chạy đâu được hết. Chư Tăng Ni tu bao nhiêu năm gỡ được mấy
trần, còn lại mấy trần ? Nếu dính hết thì thôi coi như đầu
hàng Ma vương, còn nếu dính một hai căn thì còn dẫy dụa được,
Ma vương chưa dám nắm cổ lôi đi. Hiểu như vậy chúng ta mới
thấy sự tu quan trọng. Hằng ngày mắt đối sắc, tai đối thanh,
mũi đối hương, miệng đối vị, thân đối xúc, ý đối pháp trần
không bị dính kẹt, đó là chúng ta giải thoát. Nếu còn dính kẹt
thì chúng ta bị Ma vương dẫn đi trầm luân trong lục đạo luân
hồi. Như vậy giải thoát là không dính mắc, còn dính mắc là
không giải thoát.
-
Như chúng tôi vừa kể, hình ảnh con khỉ bị dính nhựa nên mất tự
do. Nếu không dính thì được tự do, đó là lục thông. Ngược lại
còn dính mắc là lục tặc. Tăng Ni tu đừng để cho căn dính với
sáu trần thì chúng ta được tự tại giải thoát. Còn bị dính
nhiễm thì mất hết tự do, đó là gốc của sự tu.
-
Tôi xin dẫn thêm chuyện của Lục tổ Huệ Năng với Ngũ tổ Hoằng
Nhẫn, Ngũ tổ đem kinh Kim Cang ra giảng cho Ngài nghe. Kinh
Kim Cang có hai câu hỏi của tôn giả Tu Bồ Đề. Câu thứ nhất:
"Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm thế
nào để hàng phục được tâm ấy ?". Câu hỏi thứ hai: "Người phát
tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm thế nào để an trụ
được tâm ấy ?". Phần an trụ tâm, Lục tổ nghe giảng tới câu
"Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc,
pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", Ngài liền đại
ngộ và thốt to lên: "Đâu ngờ tánh mình xưa nay thanh tịnh, đâu
ngờ tánh mình vốn không sanh diệt v.và". Ngũ tổ biết Ngài đã
ngộ nên truyền y bát và Ngài trở thành vị Tổ thứ sáu.
-
Như vậy Phật dạy muốn tâm yên ổn, an trụ thì không nên sanh
tâm dính kẹt nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn
không bị dính kẹt sáu trần là an trụ tâm. Có nhiều vị tu hoặc
ngồi niệm Phật hoặc tọa thiền nhưng tâm cứ chạy hoài. Chạy
theo sáu trần, nhớ người này, nhớ việc kia v.và nên tâm bị rối
loạn. Nếu biết giữ tâm không cho dính với sáu trần thì tâm an
trụ. Mà tâm an trụ thì tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác không khó. Do đó chúng ta mới thấy ý nghĩa của kinh
Kim Cang đã khai ngộ cho Lục tổ là vậy.
-
Kế đây, tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm:
-
Tôn giả A Nan hỏi Phật:
-
- Bạch Thế Tôn, cái gì là căn bản của luân hồi sanh tử, cái gì
là căn bản của Bồ-đề Niết-bàn ?
-
Khi Ngài hỏi câu này đức Phật Thích Ca chưa trả lời thì mười
phương chư Phật ứng thinh đồng nói rằng:
-
- Này A Nan, cội gốc của căn bản phiền não, luân hồi sanh tử
là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn
của ông.
-
Rõ ràng không riêng gì đức Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc
sanh tử, sáu căn là gốc Bồ-đề Niết-bàn, mà mười phương chư
Phật đều "Dị khẩu đồng âm" (khác miệng đồng lời) phát ra lời
như thế.
-
Do đó chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết luân hồi
sanh tử, để đạt được Bồ-đề Niết-bàn. Đó là gốc của sự tu. Còn
nếu chúng ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi
sinh tử thì sự tu đó không có công hiệu. Như vậy là uổng cơm
của đàn na thí chủ. Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm của
đàn na tín thí thì phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sanh
tử, đừng để cho nó dính, đừng để cho nó nhiễm. Có thế chúng ta
mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử.
-
Sáu căn từ đâu mà ra ? Nó sẵn nơi chúng ta, mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý ở ngay thân mình chớ có xa đâu. Chỉ cần đừng để
dính nhiễm là đã khéo tu. Chớ nếu chúng ta ăn chay khắc khổ,
tụng kinh rất nhiều mà ai động tới liền nổi sân, cái gì đẹp
thì ưa thích, tu như vậy có kết quả không ? Mắt thấy sắc đẹp
lòng mê thích, tai nghe tiếng chê trong bụng bực bội, như vậy
là chưa gỡ được các căn dính với các trần. Chưa gỡ được thì
làm sao chúng ta giải thoát sanh tử, cho nên trên đường tu
chúng ta phải cố gắng nỗ lực, làm sao gặp cảnh vui, cảnh buồn
v.và chúng ta vẫn tự tại. Đó là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có
hình thức, không giữ được sáu căn của mình thì khó giải thoát.
Ý nghĩa Phật dạy hết sức rõ ràng.
-
Trong nhà Thiền có câu chuyện này:
-
Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thuộc hệ Quy Ngưỡng. Lúc còn đi tham
vấn, Ngài đến hỏi Thiền sư Trung Ấp - Hồng Ân:
-
- Bạch Hòa thượng, thế nào là Phật tánh ?
-
Ngài Trung Ấp nói:
-
- Như có một con khỉ bị nhốt trong chuồng có sáu cửa. Bên
ngoài có con khỉ tới cửa số một kêu chéo chéo. Rồi đến cửa thứ
hai kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đứng dậy kêu chéo
chéo, cứ như vậy tiếp tục hết sáu cửa.
-
Khi ấy ngài Ngưỡng Sơn thưa rằng:
-
- Nếu con khỉ bên trong nó ngủ thì sao ?
-
Ngài Trung Ấp từ trên tòa bước xuống nắm đứng nói:
-
- Chúng ta thấy nhau rồi.
-
Qua câu chuyện, chúng ta thấy cái gì ? Thường người ta cứ
tưởng rằng Phật tánh ở đâu xa, khó tìm, khó biết. Nhưng Thiền
sư nói con khỉ nhốt trong lồng nghe con khỉ bên ngoài kêu liền
đáp lại. Như vậy Ngài ví con khỉ bên ngoài là trần, con khỉ
bên trong là căn. Bên ngoài có sắc trần thì nhãn căn dính, bên
ngoài có thanh trần thì nhĩ căn dính, nghĩa là sáu căn, đụng
tới căn nào thì căn đó dính liền. Nhưng khi ở trong đã yên
lặng thì bên ngoài tới kêu chọc nó vẫn im lìm, lúc đó Phật
tánh hiện tiền chớ không có gì khác. Vì vậy nên nói khi con
khỉ bên trong ngủ yên thì bên ngoài dù có kêu mấy nó cũng
không cựa quậy, vì nó không có tiếp xúc nữa. Cũng vậy khi nội
tâm của chúng ta yên lặng sáng suốt thì Phật tánh hiện tiền,
không tìm kiếm ở đâu xa. Chúng ta tu vì muốn thành Phật, tức
là giác ngộ. Mà giác ngộ ngay nội tâm mình, nếu chúng ta hằng
tri hằng giác không chạy theo sáu trần thì đó là Phật tánh
hiển lộ rồi.
-
Tu như vậy khó hay dễ? Có xa xôi gì đâu. Hiểu được ý nghĩa này
chúng ta mới thấy chuyện tu hành không phải chuyện xa vời mà
rất gần, ở ngay trước mắt chúng ta, ngay bản thân chúng ta.
Tuy nhiên lời Phật, Tổ dạy, nghe rất gần nhưng đụng sự thật
thì chúng ta quên mất tiêu. Chỉ như lỗ tai, khi chúng ta đang
bình tĩnh đang an ổn, nếu có người đến chỉ mặt nói rằng anh
hay chị ngu như con bò. Lúc đó chúng ta thế nào ? Cười hay
muốn tát tai người ta ? Nghe nói ngu như con bò liền nổi tức
lên, mà nổi tức thì muốn cự lộn. Như vậy lỗ tai chúng ta có
dính nhựa phiền não chưa ? Nếu dính rồi thì Ma vương chuẩn bị
dẫn chúng ta đi thôi. Lỗ tai dính rồi thì các căn khác cũng
dính theo, như mắt đỏ, tay muốn cựa quậy, các cơ quan đều muốn
hoạt động theo cả. Vì vậy chúng ta phải dè dặt khéo tu.
-
Giả sử có người nói chị là con bò, điều đó có nhục không ? Tôi
thấy đâu có gì nhục. Nếu ai nói tôi là con bò, tôi cười thưa
phải, vì tôi có uống sữa bò. Quý vị có uống sữa bò không ?
Thưa có ! Có thì người ta nói mình là con bò cũng phải quá, có
gì đâu lỗi lầm. Có gì đâu để giận. Chuyện đó rất bình thường.
Thân của chúng ta được kết hợp bởi rất nhiều thành phần. Mỗi
một thứ vật chất đều giúp cho mình sống còn. Nhờ thế, tế bào
chúng ta tăng trưởng. Như vậy chúng ta sống được là có phần
con bò trong đó nữa chớ. Người ta nói mình con bò là phải quá
rồi. Cớ sao lại giận ? Nhưng ở đời có ai lại chịu như vậy đâu.
Nghe nói con bò thì nổi giận, la hét rồi đưa tới đánh đập
nhau. Chúng ta bị đau khổ là vì chúng ta không nhận ra lẽ thật
ở con người. Như vậy không biết chừng nào hết bị dính mắc, mới
giải thoát sanh tử.
-
Thêm một điều nữa, lâu nay Phật tử chúng ta cứ nghĩ rằng mình
có cái gì buồn, cái gì giận, khi giận nói tôi giận người đó
quá, khi buồn nói tôi buồn người đó quá. Như vậy quý vị cho
rằng cái giận, cái buồn là tôi, là mình. Nếu giận là mình thì
khi hết giận mình mất luôn phải không ? Nếu hết giận chúng ta
vẫn còn nguyên thì làm sao nói giận là mình được. Như vậy,
giận không phải thật mình, buồn không phải thực mình. Đó chỉ
là một phần nhỏ trong tâm ta thôi. Nó sinh rồi nó diệt mà
chúng ta lại đồng hóa nó với mình. Từ cái mê lầm này nên chịu
khổ, cứ nghĩ mình thế này, mình thế kia. Sự thật giận không
phải là mình, đó chỉ là phản ứng của tâm sân mà thôi. Còn cái
ta chân thật thì lúc nào cũng trùm khắp, không phải cái sân đó
đâu. Nếu nói sân là mình thì phải bảo vệ cái sân, nên khi giận
ai dù có người khuyên: "Huynh tu hành rồi mà giận làm chi" thì
cũng bảo vệ cái giận của mình: "Tại vì người đó làm dễ giận
quá nên tôi mới giận". Bởi nghĩ thế nên cho cái giận của mình
có lý, chấp và giữ cái giận của mình là đúng. Buồn, thương,
hờn, ghét cũng như thế.
-
Chúng ta suy nghĩ xem, nếu giận là mình thì buồn không phải
mình, thương không phải mình, ghét không phải mình. Nhưng
buồn, thương, giận, ghét, cái nào chúng ta cũng cho là mình
cả. Như vậy có mấy chục cái mình, đó là điều sai lầm. Nên biết
buồn, thương, giận, ghét là những tâm sở tạm thời dấy động rồi
mất. Biết rõ như vậy mới có thể hàng phục nó, thắng nó. Còn
cho nó là mình thì thôi hết hàng phục, bởi vì nó chính là mình
thì hàng phục cái gì. Đó là nói về nội tâm.
-
Đến phần thân, khi chúng ta bị đau chỗ nào thì nói tôi đau
quá. Nói như vậy là cho đau đó là tôi, nhưng khi hết đau thì
tôi làm sao ? Nên biết cái đau chỉ là đau ở một bộ phận trong
cơ thể, hoặc chân hoặc bụng đau chớ tôi không có đau. Vì vậy
khi thân đau chúng ta vẫn thấy thảnh thơi, không khổ. Nếu đau
chân nói tôi đau quá, đau bụng nói tôi đau, đau chỗ nào cũng
tôi hết thành ra quằn quại rên la. Thấy chân đau còn tôi không
đau mới là thấy chân thật. Cái thấy chân thật ấy biết được cái
đau, biết được chân đau, biết được bụng đau. Hiểu như vậy thì
trong cuộc sống này chúng ta đã làm chủ được phần nào. Ngược
lại, chúng ta cứ đồng hóa giận thì tôi giận, đau thì tôi đauà,
cứ đồng hóa như thế thì chúng ta không làm sao điều khiển được
chúng, không làm sao đuổi chúng được. Thế nên người tu phải
sáng suốt, nhận cho thật kỹ, khi gặp bệnh hoạn mới có thể làm
chủ.
-
Ngày xưa khi các vị Thiền sư bị bệnh, có người hỏi: Hòa thượng
bệnh, có cái chẳng bệnh chăng ?
-
Các Ngài đáp: Có.
-
Hỏi: Cái gì không bệnh ?
-
Các Ngài nói: Ui da ! Ui da !
-
Cái biết rên đó, cái ấy không bệnh. Như vậy để thấy rằng các
Ngài không đồng hóa như chúng ta. Do chúng ta lầm lẫn nên từ
đó sanh ra những chướng ngại khác. Tôi dẫn bài kệ của một
Thiền sư đời Trần, tức vua Trần Nhân Tông. Lúc Ngài giao ngôi
lại cho con lên làm Thái Thượng Hoàng, cố vấn cho nhà vua cai
trị đất nước. Thời gian này Ngài làm bài phú "Cư trần lạc
đạo", tức bài phú nói ở trong cõi đời mà vui với đạo. Kết thúc
bài phú đó có bốn câu thơ chữ Hán như thế này:
-
- Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
-
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
-
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
-
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
-
Tạm dịch:
-
- Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
-
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
-
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
-
Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.
-
Tôi giải thích từng câu ở đời vui đạo hãy tùy duyên, người ở
trong cuộc đời thế tục mà luôn luôn vui với đạo thì phải khéo
tùy duyên. Khéo là sao ? Đói đến thì ăn mệt ngủ liền, khéo
tùy duyên là như thế. Nhưng câu đó nhiều người hiểu lầm
lắm. Giới tu sĩ trẻ nghe nói thế thích lắm. Tu khỏe quá, có gì
nhọc nhằn đâu. Đói ăn, mệt ngủ thật sướng. Có một Thiền sư tu
ở trên núi, khi gặp người hỏi Hòa thượng tu hành thế nào, Ngài
đáp "đói ăn, mệt ngủ". Vị cư sĩ ấy nói đói ăn, mệt ngủ thì dễ
quá, tôi cũng đói ăn, mệt ngủ, vậy Hòa thượng có gì hơn tôi
đâu ? Ngài đáp: Nói đói ăn, mệt ngủ nhưng người đời đói không
chịu ăn, mệt không chịu ngủ.
-
Chúng ta có như vậy không ? Như hôm nào đi làm về có cơm nóng,
canh nóng đàng hoàng thì ngồi ăn vui. Hôm nào về mệt mà gặp
cơm nguội, thức ăn nguội nữa thì dằn mâm, xán chén một hồi rồi
mới ăn. Đó là nói trường hợp nguội lạnh, chưa kể những vị quen
ăn ớt, ăn cay. Tới bữa ăn nếu gặp món hơi tanh lại không có ớt
thì sao ? Phải chờ kiếm ớt rồi mới ăn. Như vậy đói có chịu ăn
đâu ?
-
Rồi đến ngủ. Ngài nói người đời mệt mà không chịu ngủ lại suy
nghĩ cả trăm việc. Cứ nằm lăn qua lộn lại, nhớ chuyện năm
trên, năm dưới hoài không chịu ngủ. Như vậy mệt có chịu ngủ
đâu. Đó là người đời đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ. Mà
đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ là chưa biết tùy duyên.
Tùy duyên là đói đến thì ăn, mệt đến thì ngủ, không có suy gẫm
gì cả. Nếu được tùy duyên thì ở trong đời mà vui với đạo.
Người không khéo tùy duyên sẽ thấy trong đời khó tu quá,
chuyện này chuyện kia phiền hà. Người khéo tu thấy không khó,
việc gì đến thì tùy duyên, giải quyết liền, không phải bận tâm
lo lắng suy gẫm hay sợ sệt gì cả.
-
Hai câu ấy mới nghe dễ như trở bàn tay nhưng xét kỹ không phải
dễ đâu. Đến câu thứ ba trong nhà có báu thôi tìm kiếm, mỗi
người chúng ta đều có sẵn hòn ngọc quý bên trong, đừng tìm
kiếm đâu xa. Thường Phật tử chúng ta có bệnh đi tìm Phật bên
ngoài. Giả sử trên núi có hòn đá nào na ná tượng Phật thì tìm
đến lạy lê mê, hoặc có gò mối nào na ná giống hình người cũng
hô toáng lên là Phật, rồi áp nhau lạy. Tìm Phật như thế biết
bao giờ mới gặp Phật. Chúng ta tu, đừng bao giờ lệ thuộc những
hình ảnh hư ảo đó, vì nó chỉ là sự tưởng tượng. Tôi đã từng đi
núi, cũng từng vô những hang động. Trong hang có những cục đá
na ná đức Quan Âm thì người ta cho rằng đức Quan Âm hiện về
rồi ráp nhau lạy. Thật ra đó là chỉ do sự tưởng tượng vậy
thôi, có thật đâu. Chính ông Phật ngay nơi mình lại không nhớ,
không biết. Khi sáu căn không dính sáu trần là Phật tánh hiển
lộ rồi. Phật ngay nơi ta lại không chịu tìm, cứ lo tìm trên
núi trên non, trong hang trong động nên suốt đời cứ chạy ngược
chạy xuôi, rốt lại khổ vẫn hoàn khổ. Bởi vì chúng ta đã quên
mất của báu trong nhà thì tìm kiếm bên ngoài cách mấy cũng
không có được. Đó là một lầm lẫn lớn của hàng Phật tử chúng
ta.
-
Câu chót đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền, sáu căn đối với sáu
trần không có dính mắc. Không tâm tức là không có các niệm,
không suy nghĩ dính mắc. Đó là Thiền rồi. Chúng ta ngồi thiền
một giờ, hai giờ thấy đau chân, chớ còn tất cả giờ, những gì ở
ngoài đến đều không dính, không mắc thì dễ quá. Thấy hình sắc
không dính hình sắc, nghe âm thanh không dính âm thanh v.và Đó
là chúng ta đang tu Thiền, như vậy thảnh thơi biết mấy. Nhưng
vì chúng ta cứ thấy thì dính, nghe thì nhiễm nên bắt buộc phải
ngồi Thiền, xếp chân ngó xuống cho bớt nghe, bớt thấy, gỡ lần
lần như vậy. Nếu được đối cảnh vô tâm thì khỏi ngồi, ở đâu
cũng Thiền hết. Người biết tu thì mọi việc rất dễ dàng, rất
thuận lợi, còn không biết tu thì thấy khổ, thấy khó.
-
Có nhiều vị tu rất đáng thương. Như nghe nói ăn chay là tu nên
bắt đầu ăn chay nhưng không đủ phương tiện thành ra xanh xao,
khổ sở. Lại nghe người ta quở ăn chay ốm quá, từ đó sanh buồn
nhưng không dám bỏ ăn chay, sợ mất công đức. Do ức chế như vậy
nên ai nói động tới liền giận, ai chọc tới liền phiền. Cứ giận
phiền hoài thì ăn chay có lợi ích gì ? Đó chỉ là giỏi ăn chay
thôi chớ không giỏi tu. Tu là đừng dính nhiễm, nghe khen chẳng
vội mừng, nghe chê không vội giận, thấy đẹp đừng ưa thích,
thấy xấu đừng ghét bỏ v.và Tất cả sáu căn không dính nhiễm sáu
trần, đó là tu kỹ, tu đúng. Nếu còn dễ dính nhiễm thì chúng ta
tu chưa đúng, chưa kỹ. Nhiều người vì việc ăn chay của mình
nên khi đến nhà ai cầm đôi đũa ngửi hơi tanh liền buông đũa
lắc đầu. Đó là còn chấp hơn thiên hạ nữa.
-
Đạo Phật không đặt ăn chay là trên hết, như các sư Nguyên thủy
đi khất thực, Phật tử cho gì nhận nấy chớ đâu có chê khen. Còn
người tu kỹ quá, đũa hơi hôi cũng chê. Đó là những điểm không
khéo, chỉ chuộng về hình thức, không phải tu ngay trong tâm
tánh của mình. Tăng Ni chúng ta được phúc duyên lớn, nên ngày
nay biết thức tỉnh vào chùa tu, bỏ hết triền phược của thế
gian để cầu giải thoát. Vì vậy cần phải nắm cho vững, hiểu cho
thấu đáo lời dạy của Phật, Tổ để ứng dụng vào đời tu của mình,
như vậy mới không uổng phí cuộc đời. Ngược lại chúng ta tu để
mà tu chớ không biết gì hết thì chỉ uổng một đời, không đi tới
đâu cả.
-
Người xuất gia cần phải tu tiến mới có thể dạy cho hàng cư sĩ
tu được. Nếu người xuất gia tu không ra gì thì dạy Phật tử tu
cũng không ra gì. Đó là mối họa lớn. Mong rằng tất cả Tăng Ni
hãy ý thức được điều đó, nỗ lực tu hành, đủ tài đức mai kia
dẫn dắt Phật tử đi đúng đường. Đó là biết lợi mình, lợi người
hay tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn. Có thế mới xứng đáng
dự vào hàng Thích tử của Như Lai.
-
Source: Tuần Báo Giác Ngộ, số Xuân Tân Tỵ 2001
|