-
DUY NGÃ HAY VÔ
NGÃ
- T. T. Thích
Minh Ðạt
-
- ---o0o---
-
Mâu Thuẫn
-
Giáo lý Phật Giáo từ đầu đến cuối mệnh danh là giáo lý vô ngã;
thế nhưng cũng có một số người bị “lướng vướng” vào câu “Thiên
thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” rồi bảo rằng giáo lý Nhà
Phật là giáo lý Duy Ngã. Thậm chí còn bảo Ðức Phật sao mà ngã
mạn quá, dám tự cho mình là người duy nhất không ai bằng. Nếu
Ðức Phật là tự tôn, tự đại và giáo lý do Ngài tuyên thuyết là
duy ngã, thì không có gì mâu thuẩn hơn. Hy vọng bài viết nhỏ
bé này sẽ giải tỏa được một phần nào thắc mắc.
- Bài
viết này được viết vào mùa Ðản Sanh của Ðức Từ Phụ; do vậy,
thiết tưởng nên dành một đôi dòng để ôn lại “tiểu sử” của
Ngài.
-
Thân Thế:
- Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni khi chưa đi tu, chưa thành đạo có tên là
Sĩ Ðạt Ta hay Tất Ðạt Ða (Siddhattha). Họ của Ngài Gotama ta
đọc dưới tên phiên âm Hán Việt là Cồ Ðàm. Thân phụ của Ngài là
vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và thân mẫu của Ngài là Hoàng hậu
Ðại Ma Gia (Mahà Màyà). Ngài sinh vào ngày trăng tròn tháng 5
năm 624 trước tây lịch, nhằm ngày Rằm tháng 4 năm Tân Dậu.
-
Sự Nghiệp:
-
Ngài là con một, con cầu và đương nhiên là Ðông cung Thái Tử.
Ngôi vua chắc chắn nằm trong tay Ngài. Thế nhưng Ngài đã từ
chối, không muốn làm Quốc Vương, Nhân Vương mà làm Pháp Vương
hay Y Vương.
-
Không có một sự nghiệp nào mà không ra công dồi mài cần khổ.
Ngôi vị Pháp Vương lại cần phải miệt mài cần khổ nhiều hơn
nữa. Vì vậy Ngài đã xuất gia để có nhiều thì giờ hơn trong sự
nghiệp “tôi kinh luyện sử”.
- Ước
nguyện càng lớn thì ý chí càng cần phải cao và phải đủ mạnh
mới mong đạt được sự thành tựu viên mãn. Thật vậy, Ngài đã
phấn đấu mãnh liệt, bất khuất mọi gian lao thử thách, chỉ 7
năm thôi, Ngài đã hoàn thành viên mãn ý nguyện cao cả của
Ngài. Ý nguyện đó là ý nguyện độ sanh hay nói rõ hơn Sự Nghiệp
của đời Ngài là Sự Nghiệp Ðộ Sanh.
-
Kinh Pháp Hoa trong phần mở đầu Ngài đã nhắc lại ý nguyện hay
mục đích của đời Ngài là phơi bày (khai) và chỉ rõ (thị)
cho chúng sanh nhận biết (ngoä) rằng mình và Phật không
khác (nhập) (Khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri
kiến). Và, trước khi xả bỏ huyễn thân, một lần nữa, Ngài
lại nhấn mạnh rằng “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh
là Phật sẽ thành”. Suốt gần 50 năm Ngài chỉ làm một việc
đó thôi.
- Sau
khi đã tuyên bày đầy đủ mọi phương pháp để giúp cho chúng sanh
thực tập hầu đạt được kết quả mỹ mãn như Ngài, Ngài đã nhập
diệt vào ngày trăng tròn tháng 3 năm 544 trước tây lịch; nhằm
ngày Rằm tháng 2 năm Tân Tỵ. Tính theo tuổi thế nhân, Ngài thọ
80 tuổi.
- Năm
1951, các quốc gia theo Phật Giáo trên thế giới nhóm họp tại
Tích Lan đã chọn ngày Niết Bàn của Ðức Phật làm Phật lịch. Do
vậy, Phật lịch tính đến Rằm tháng 2 vừa qua là 2546; và Phật
Ðản năm nay (2002) là lần thứ 2626.
-
Duy Ngã Hay Vô
Ngã?
-
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều
thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn
trong một bài kệ gồm 4 câu; mỗi câu 4 chữ, tổng cọng 16 chữ: “Thiên
thượng thiên hạ,ï duy ngã độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim tận
hỷ!”
-
“Ngã” đây phải được hiểu là chấp ngã, là dính mắc, là bị ràng
buộc đủ mọi thứ. Chấp ngã có gốc rễ từ tham, sân, si. Tùy theo
tham sân si nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thọ sanh nơi các cõi
trời (thiên thượng) hay đọa ở các cõi địa ngục (thiên
hạ). Các cõi trời được xem như ở trên, các cõi địa ngục
được xem như ở dưới; mặc dù không hẳn là vậy, nhưng chúng sanh
đã hiểu vậy, Phật tùy theo đó để khai thị. Từ đó, câu “Thiên
thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” có thể hiểu rằng : Ta từ
vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cõi trời, lắm
lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác
hơn là tham sân si đẩy đưa đến ngã chấp mà không thấy rõ bản
chất vô ngã, duyên sanh từ thân tâm đến hoàn cảnh chung quanh.
Ðó là lời khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi bình
minh của đời Ngài.
- Ðến
đây duy ngã hay vô ngã có thể đã được vơi đi phần nào.
- “Ta
đi lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi
mà chưa gặp kẻ làm nhà. Nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi đừng
hòng cất nhà thêm được nữa, những đòn tay, những cột kèo,
những rui mè... của ngươi đã bị mục rã cả rồi...” Pháp Cú
câu 154.
- Kẻ
làm nhà đây là tham lam ái dục, độc đầu tiên trong ba độc. Nhà
là chiếc thân do ngũ uẩn chung hợp. Cột kèo... là những phiền
não nhiễm ô. Mục rã rồi tức Ðức Phật đã chinh phục, đã vượt
lên trên, đã đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nói rõ hơn là
đã thành tựu tuệ giác siêu việt. Không còn bị nghiệp lực đẩy
đưa đây đó mà chỉ có nguyện lực độ sanh. Do vậy Ngài tuyên bố:
-
“Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ”
([Vì chưa tìm ra nguyên nhân], nên trải qua vô số kiếp ta phải
chịu sanh tử luân hồi. [Nay đã thấy rõ nguyên nhân và nhất là
đã có phương pháp diệt trư]ø, thì sanh tử luân hồi không còn
chi phối ta được nữa).
-
Ðể Chứng Ngộ:
- Ðức
Phật thuyết pháp là tuyên thuyết những phương pháp do chính
bản thân Ngài thực tập và chứng nghiệm kết quả với tất cả
thành tâm thiện ý là mong mỏi mọi người nổ lực thực tập như
Ngài đã thực tập để rồi đạt ngộ những điều như Ngài đã đạt
ngộ. Ngài không nhằm trình bày một thứ triết lý cao siêu chỉ
có trên lý thuyết trừu tượng mà không ăn nhập gì đến cuộc đời
dẫy đầy khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, học Phật là
học những phương pháp thực tập để được làm Phật chứ không phải
học “giáo lý” để diễn tả, để trình bày về Ðức Phật hay Ðạo
Phật. Nếu không phải vậy thì Ngài đã không tuyên bố “Ta là
Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vâng, chúng
sanh là Phật sẽ thành với điều kiện là phải thực tập những
phương pháp do chính Ngài tuyên thuyết. Thực tập một cách cần
mẫn, chăm chỉ, không gián đoạn mới mong có kết quả.
-
Thời cổ đại, người ta lấy lửa bằng cách dùng hai thanh gỗ cọ
xát với nhau. Phải cọ xát cho đến khi nào lửa bật ra, lấy lửa
được mới nghỉ chứ không thể nghỉ nửa chừng; vì nếu chỉ nghỉ
trong chốc lát thôi, thì hai thanh gỗ nguội lại và như vậy
không biết đến đời kiếp nào mới lấy được lửa. Cũng vậy, tham
sân si của chúng ta cứ liên tục bốc cháy, nếu chúng ta lơ là
thì chỉ có làm mồi cho chúng thiêu đốt oan uổng mà thôi.
- Là
Phật tử, là con Phật đã nguyện nương tựa nơi Ngài, đã nguyện
nương tựa với những lời dạy của Ngài, và đã nguyện nương tựa
vào đoàn thể đệ tử thanh tịnh của Ngài rồi, chúng ta cần làm
ba việc : học hỏi chánh pháp, thực hành chánh pháp, chứng ngộ
chánh pháp.
- Ðó
là cách báo đền công ơn hóa độ sâu dày của Phật và đó cũng là
cách làm cho chánh pháp thường trú tại thế gian.
-
-
T. T. Thích Minh
Ðạt
-
-
|