-
Lịch Sử Đức Phật Thích Ca
-
Tỳ Kheo Thích Minh Châu
-
--- o0o ---
-
-
1- Thái Tử Tất Đạt Đa Ra Đời.
-
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn
Lumbini (Lâm Tỳ Ni) gần thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), một
nơi hiện nay là vùng biên giới giữa Nêpan và Ấn Độ, Đức Phật
Thích Ca đã giáng sinh, làm Hoàng tử con vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) và Hoàng hậu Maha Maya (Ma Da). Vua Suddhodana trị vì
một vương quốc nhỏ của bộ tộc Sakya (Thích Ca).
-
Vì Hoàng hậu Maha Maya qua đời bảy ngày sau khi Thái tử sinh
ra, cho nên Thái tử được bà dì Maha Pajapati Gotami (Maha Ba
xà ba đề), trực tiếp nuôi nấng, dạy dỗ, còn người con trai của
Bà dì là Nanda thì được giao cho các bảo mẫu nuôi dưỡng.
-
Tên riêng của vị Phật tương lai là Si Đác Ta (Tất Đạt Đa), tên
giòng họ Ngài là Gotama (Cồ Đàm). Vì giòng họ nầy thuộc bộ lạc
Sakya (Thích Ca), cho nên sau nầy có danh hiệu Sakya Muni
(Thích Ca Mâu Ni). Muni là bậc Thánh, Sakya Muni là bậc thánh
thuộc bộ lạc Thích Ca.
-
2- Đạo Sĩ A Tư Đà Và Thái Tử
-
Ngày Thái Tử Si Đác Ta đản sanh là ngày hội vui lớn của toàn
vương quốc. Dân chúng xa gần kéo về kinh đô Kapilavastu ăn
mừng. Một vị Đạo sư già tên là Asita (A Tư Đà) cũng từ nơi ông
tu hành trên núi
Himalaya
(Hy mã lạp sơn) đến cung vua để chào mừng và xem tướng Thái
tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ Asita bỗng nhiên chắp tay vái chào với
thái độ hết sức cung kính. Đạo sĩ tuy cuời mà vẻ mặt thoáng
buồn. Được hỏi vì cớ sao, Đạo sĩ Asita trả lời là ông mừng vì
Thái tử tương lai sẽ thành Phật, bậc giác ngộ và thượng, nhưng
ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời mà không được
vị Phật tương lai trực tiếp giáo huấn, giác ngộ.
-
Trong kinh Sutta-Nipata (Kinh Tập, 101), có kể truyện đạo sĩ
Asita đang tu trên núi Tuyết sơn, được chư Thiên mách bảo, bèn
xuống núi, đến thành Kapilavastu xem tướng cho Thái tử.
-
- "Thấy Thái tử chói sáng
-
Rực rỡ như vàng chói,
-
Trong lò đúc nấu vàng,
-
Được thợ khéo luyện thành
-
Bừng sáng và rực rỡ,
-
Với dung sắc tuyệt mỹ...
-
Sau khi thấy Thái tử,
-
Chói sáng như lửa ngọn,
-
Thanh tịnh như sao Ngưu,
-
Vận hành giữa hư không,
-
Chói sáng như mặt trời,
-
Giữa trời thu mây tạnh.
-
Ấn sĩ tâm hân hoan
-
Được hỷ lạc rộng lớn".
-
Và đạo sĩ Asita nói là Thái tử tương lai sẽ tu chứng Phật quả,
vì lòng từ thương xót chúng sanh mà truyền bá chánh pháp trên
thế gian nầy.
-
- "Thái tử này sẽ chứng,
-
Tối thượng quả Bồ đề
-
Sẽ chuyển bánh xe Pháp,
-
Thấy thanh tịnh tối thẳng
-
Vì lòng từ thương xót,
-
Vì hạnh phúc nhiều người,
-
Và đời sống phạm hạnh,
-
Được truyền bá rộng rãi".
-
Nhưng vì nghĩ mình đã già, không còn sống được bao lâu nữa, để
có thể trực tiếp nghe Đức Phật thuyết pháp, cho nên đạo sĩ
buồn và nói:
-
"Thọ mạng ta ở đời,
-
Còn lại không bao nhiêu,
-
Đến giữa đời sống Ngài
-
Ta sẽ bị mệnh chung.
-
Ta sẽ không nghe Pháp,
-
Bậc tinh cần vô tỷ,
-
Do vậy ta sầu não,
-
Bất hạnh và khổ đau..." (Kinh Tập, 103)
-
3- Cuộc Sống Của Thái Tử Trong Thời Niên Thiếu
-
Thái Tử Si Đác Ta được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách
toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ.
-
Khi Thái tử lên bảy tuổi, những thầy giáo giỏi nhất trong xứ
được mời đến hoàng cung dạy cho Thái tử các môn học thế gian
như Thanh minh (ngôn ngữ học và văn học), Công xảo minh (Công
kỹ nghệ học), Y phương minh (môn học chữa bịnh), Nhân minh
(Luận lý học), và Nội minh (Đạo học). Về Đạo học, Thái tử được
dạy về 4 sách Thánh Veda, là các sách Thánh của Bà la môn
giáo. Sách kể rằng: chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12
tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên và 4 sách Thánh
Veda. Đến năm 13 tuổi, Thái tử học võ thuật, theo truyền thống
giòng giõi đẳng cấp võ tướng (Ksatryas, Sát đế lỵ). Nhờ có sức
khỏe phi thường, Thái tử học môn võ gì cũng giỏi; về môn bắn
cung, sách kể rằng, trong một cuộc hội thi, Thái tử đã bắn một
mũi tên xuyên 7 lớp trống đồng, trong khi người giỏi nhất tại
cuộc thi chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng.
-
Vào tuổi 16, Thái tử cưới công chúa Yasodhara (Da du đà la),
đồng lứa tuổi với Thái tử. Và trong gần 13 năm, sau ngày cưới,
Thái tử sống một cuộc đời hạnh phúc trong nhung lụa, vô tư,
không biết gì tới mọi nỗi khổ và bất hạnh ở đời. Về quãng đời
ấy của Ngài, Đức Phật kể lại như sau với các Tỷ kheo, đệ tử
của Ngài:
-
- "Này các Tỷ kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, quá mức tế nhị.
Trong cung của Phụ vương Ta, các hồ nước được xây lên, trong
một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả
đều phục vụ cho Ta. Không một hương chiên đàn nào Ta dùng, này
các Tỳ kheo, là không từ Kasi đến. Bằng vải Kasi là khăn của
Ta, này các Tỳ kheo, bằng vải Kasi là áo cánh, bằng vải Kasi
là áo lót, bằng vải Kasi là áo khoác ngoài. Đêm và ngày, một
lọng trắng được che trên đầu Ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng,
bụi, cỏ hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu đài được xây dựng
cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho
mùa mưa. Và Ta, này các Tỳ kheo, tại lâu đài mùa mưa, Ta được
các vũ nhạc công đờn, múa hát xung quanh Ta..." (Tăng Chi 1,
161 - 162).
-
4. Quyết Tâm Xuất Gia Tầm Đạo
-
Thế nhưng, với thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng
thương người bẩm sanh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình
sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế
giới đau khổ. Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm
thường của hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia
cầu đạo giải thoát, tìm ra con đường cứu vớt chúng sanh ra
khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.
-
Một ngày nọ, Thái tử đi ra ngoài thành dạo chơi và lần đầu
tiên trong đời được tiếp xúc với những sự thật đen tối và đáng
sợ: Thái tử lần lượt gặp một người già yếu, một người bệnh
tật, một xác chết và cuối cùng là một vị tu sĩ với dung sắc
giải thoát, khoan thai đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình
dù là Thái tử con vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già,
đau, và chết; những hình ảnh siêu thoát của vị Tu sĩ đã giúp
Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến giác ngộ, vĩnh viễn
khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con đường
dẫn tới cõi Niết bàn bất tử.
-
Từ đó, Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia
cầu đạo. Nhưng, một tin đến, khiến Thái tử không vui: công
chúa Yasodhara mới hạ sinh một con trai. Thái tử nói: "Một trở
ngại (ràhu) đã được sanh, một ràng buộc đã xãy ra". Nhân đó,
ông nội, vua cha Suddhodana đặt tên cháu là Ràhula (La hầu
la).
-
5. Sự Từ Bỏ Vĩ Đại
-
Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa cho Thái
tử, lòng nặng chĩu tình thương chúng sanh chìm đắm trong bể
khổ và Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, tìm con
đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra
lệnh cho người nô bộc trong thành là Channa (Xa nặc) thắt con
ngựa Kantaka (Kiền trắc). Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc
theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Yasodhara
(Da du đà la) và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa
nhìn vào, Thái tử rất yêu thương người vợ và con trai của
mình, nhưng đối với nhân loại đau khổ bất hạnh, lòng thương
xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Sau đó, Thái tử một mình
lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau, chỉ có người
nô bộc trung thành Channa.
-
Ra đi, Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ và con,
cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một hoàng tử. Không phải là
sự hy sinh từ bỏ của một người già, đau ốm, một người nghèo,
bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của một
vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý
giàu sang. Quả thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại, có một
không hai trong lịch sử loài người.
-
Năm ấy, Thái tử tròn 29 tuổi. Khi tới bờ sông Anomà, Thái tử
dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, tóc, trao y phục và đồ trang sức
cho Channa, lệnh cho Channa trở về. Còn Thái tử một mình ra
đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, từ nay cuộc
sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Ngài không nơi ở cố
định. Khi thì ngồi dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm
trong một hang đá. Chân không và đầu để trần, Ngài đi bình
thản giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm lạnh, tất cả mọi
năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao cả tìm
ra sự thật tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân
sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát, cõi Niết bàn
bất tử.
-
6. Đến Học Hai Đạo Sĩ Alara Kalama Và Uddaka Ramaputta
-
Thời bấy giờ, tình hình chính trị tại các xứ ở Ấn Độ khá ổn
định, nhiều nhà tri thức lỗi lạc, xuất gia tu đạo, trở thành
đạo sư tâm linh với nhiều đệ tử theo học. Thái tử Si Đác Ta,
trên đường đi tầm đạo, đã tới thụ giáo với hai đạo sư danh
tiếng nhất thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta.
Cả hai người đều tu theo phép Du già và đều chứng được những
cấp thiền định cao nhất thời bấy giờ. Alara Kalama chứng được
cấp thiền Vô sở hữu xứ, còn Uddaka Ramaputta thì chứng được
cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là hai cấp thiền
thuộc Vô sắc giới, hai cấp thiền cao nhất mà tu sĩ Du già thời
bấy giờ chứng đạt được.
-
Nhưng chỉ một thời gian ngắn tu học, Thái tử cũng dễ dàng đạt
được hai cấp thiền nói trên, và được hai đạo sư mời ở lại,
cùng với họ lãnh đạo chúng đệ tử. Thái tử biết rõ, các cấp
thiền mà Ngài chứng được chưa phải là chân lý tối hậu, Niết
bàn, sự chấm dứt sanh tử và mọi khổ đau. Cho nên, Ngài từ chối
lịch sự, rồi lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình cầu đạo
của mình. Qua thực nghiệm, Ngài thấy chân lý tối hậu, Niết
Bàn, chấm dứt mọi đau khổ của sinh tử luân hồi, không thể cầu
được ở bên ngoài, ở bất kỳ một bậc Đạo sư nào. Chân lý tối hậu
đó phải chính do Ngài tự tìm lấy, tự chứng ngộ lấy ở bên trong
nội tâm của Ngài, không thể dựa vào một tha lực nào khác.
-
7. Tu Khổ Hạnh Sáu Năm
-
Thái tử đến một nơi gọi là Uruvela, thị trấn của Senàni. Ngài
tìm được một khoảnh đất đẹp và mát, có con sông nhỏ chạy qua
giữa bờ cát trắng. Gần đây, lại có làng nhỏ, có thể đi khất
thực hàng ngày. Đúng là một nơi yên tĩnh, đẹp đẽ, rất thích
hợp với trầm tư mặc tưởng và tu tập thiền định. Cùng đến nơi
đây tu tập với Thái tử còn có các tu sĩ Kondana (Kiều Trần
Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji. Kondanna vốn là vị
đạo sĩ trẻ tuổi nhất, trong số các đạo sĩ được vua Suddhodana
mời tới kinh đô để xem tướng Thái tử, lúc Ngài mới đản sanh.
-
Thời bấy giờ, ở Ấn Độ có tập tục và niềm tin rằng, người nào
cầu đạo giải thoát, đều phải kiên trì tu khổ hạnh, ép xác.
Cũng theo truyền thống đó, Thái tử cùng với 5 người bạn đồng
tu trong 6 năm ròng rã, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con
người Thái tử gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm xuống,
sức khỏe giảm sút đến nỗi Ngài không còn đi vững được nữa.
Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ hạnh, chân lý tối hậu như
càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, thân thể càng suy yếu.
Ngài thấy rõ, khổ hạnh, ép xác không phải là con đường thoát
khổ và cứu khổ.
-
Thái tử quyết định ăn uống bình thường trở lại. Năm người bạn
đồng tu, vốn đặt niềm tin và hy vọng tuyệt đối vào Thái tử,
tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, bèn rời bỏ Thái tử, đến vườn
Nai ở Isipatana gần thành phố Banares để tiếp tục tu hành. Họ
nói rằng, Thái tử Si Đác Ta đã trở về với cuộc sống tiện nghi
và dục lạc vật chất..
-
8. Chứng Bốn Chân Lý Tối Hậu
-
Ở lại một mình, Thái tử quyết tâm tự mình phấn đấu để chứng
ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức, nhờ uống bát sữa, do
một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông
Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc
cây Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự
kiện thành đạo vĩ đại của Ngài.
-
Với tâm định tỉnh, nhu nhuyến, trong sáng như gương, Ngài suy
tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân tích tập dẫn tới luân
hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết bàn, Ngài
nhớ lại, thấy rõ các kiếp sống trước đây của mình, một kiếp,
hai kiếp cho tới hàng trăm ngàn kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rõ
các chu kỳ thành hoại của một thế giới, nhiều thế giới. Ngài
thấy rõ các chúng sanh, tùy theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác so
mình tạo ra, luân hồi như thế nào trong các cõi sống, từ thời
vô thủy cho tới ngày nay. Ngài thấy rõ, biết rõ tự bản thân
Ngài đã đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu hoặc, vô minh, đã được
giải thoát và giác ngộ, và thành tựu đạo Vô thượng. Ngài đã
thành Phật.
-
Sau này, Đức Phật đã kể lại cho các đệ tử Tỳ kheo nghe về cảnh
giới chứng ngộ của mình như sau: "Nầy các Tỳ kheo! Ta tự mình
bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu
cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn, và
đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của
cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách, Niết bàn và đã chứng được cái không già, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết
rõ nguy hại của cái bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết
rõ nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách. Niết bàn và đã chứng được cái không
chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn... Tri và
Kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị giao động.
Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa".
(Kinh Thánh Cầu, Kinh Trung Bộ I, 268).
-
Như vậy, sau 6 năm gian khổ, kiên trì, không mệt mỏi, vào năm
35 tuổi. Thái Tử Si Đác Ta đã chứng ngộ chân lý cứu kinh vô
thượng và trở thành Đức Phật, bậc Toàn giác mà sự xuất hiện là
chuyện hy hữu nhất trên đời này.
-
Từ nay, thế gian tôn xưng Ngài là Đức Phật Gotama hay là Đức
Phật Thích Ca Cồ Đàm. Từ Pali, "Buddha" (Phật Đà) có chữ gốc
"Buddh" là hiểu biết, giác ngộ chân lý tối hậu, cứu kinh. Sách
Pali gọi Ngài là Sammà Sambuddha, với nghĩa là bậc Toàn giác,
không gì không biết, không thấy; bậc Thánh, không những giác
ngộ đầy đủ cho bản thân mình, mà còn giác ngộ đầy đủ cho tất
cả mọi người khác, cho tất cả mọi chúng sanh.
-
9. Đức Phật Do Dự Trước Khi Chuyển Bánh Xe Pháp
-
Chuyển Pháp Luân là chuyển bánh xe Pháp, tức là truyền bá cho
thế gian biết về đạo Pháp mà Phật đã chứng ngộ. Ngồi tĩnh tọa
dưới gốc cây Bồ đề, sau khi đã chứng quả giác ngộ vô thượng,
Đức Phật có suy nghĩ như sau:
-
- "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó
chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người
có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng nầy thì ưa ái dục, khoái
ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái
ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý 'duyên
khởi ra các pháp' (Paticcasamuppada): sự kiện nầy thật khó
thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh
y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết
pháp thì các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ
não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta" (Trung Bộ I, 268 -
269).
-
Nhưng rồi Đức Phật nhìn quanh một lượt khắp thế gian với con
mắt trí tuệ và suy nghĩ rằng:
-
"... Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời,
có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng
dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sinh
ở thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm.
Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hay hồ sen trắng, sanh ra
dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước,
được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng
hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên
khỏi mặt nước, không bị nưóc thấm ướt. Cũng vậy, nầy các Tỳ
kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi
đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng
thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít
thấy sự nguy hiểm phải tái sanh ở thế giới khác và sự nguy
hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và nầy các Tỳ kheo, Ta nói
lên bài kệ sau đây:
-
- "Cửa bất tử rộng mở
-
Cho những ai chịu nghe
-
Hãy từ bỏ tin tâm
-
Không chính xác của mình.." (Trung Bộ I, 271)
-
Rồi Đức Phật quyết định sẽ gióng lên tiếng trống của Pháp, sẽ
chuyển bánh xe Pháp, sẽ tuyên bố với thế gian, với loài người
và loài Trời, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường đạo
dẫn tới cõi bất tử, cõi Niết Bàn. Thế là bánh xe Pháp bắt đầu
chuyển.
-
10. Đức Phật Giảng Pháp Đầu Tiên Tại Vườn Nai, Gần Thành Ba La
Nại (Benares)
-
Như đã nói trên, năm tu sĩ, bạn đồng tu của Thái tử, ở
Uruvela, nay vẫn tiếp tục tu khổ hạnh ở vườn Nai gần thành phố
Benares. Họ rời bỏ Thái tử, vì họ tưởng rằng Thái tử đã thoái
chí, giữa đường bỏ cuộc. Nhưng thực ra, sau 6 năm tu khổ hạnh,
Thái Tử đã thực nghiệm và thấy rõ tất cả sự vô ích và vô lý
của lối tu khổ hạnh, ép xác chỉ làm con người suy yếu về thân
xác, mệt mỏi về tinh thần. Và Thái tử ở lại một mình, kiên
trì, phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc
cây Bồ đề.
-
Sau khi đã quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho thế gian,
vì lòng thương xót loài người và loài trời, Đức Phật nghĩ ngay
tới 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta,
nhưng cả 2 ông này đều đã qua đời cách đây không lâu. Với Phật
nhãn, Đức Phật thấy năm người bạn đồng tu xưa kia của mình
đang ở tại vườn Nai gần Benarès và quyết định họ sẽ là những
người đầu tiên được nghe giáo pháp của Ngài.
-
Rồi Đức Phật lên đường đi Benarès. Tại đây, ở vườn Nai gần
Benarès, Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho 5 người bạn
đồng tu ngày trước của mình. Sự kiện đáng ghi nhớ này diễn ra
vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau Đức Phật thành đạo.
Sau nầy, nó được biểu trưng một cái bánh xe, có 2 con nai nâng
đỡ hai bên.
-
Hai con nai biểu trưng cho địa điểm thuyết pháp, Vườn Nai,
cũng gọi là Lộc Uyển. Bánh xe - Dhammacakka - tức là bánh xe
Pháp, sách Hán dịch là Pháp luân. Cả đầu đề bài kinh là
Dhammacakkappavattana, có nghĩa là "chuyển bánh xe Pháp".
-
11. Nội Dung Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp
-
Trong bài kinh này, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ
không nên mắc vào hai cực đoan: một cực đoan là đam mê thú vui
nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái tầm thường, nhất
thời, ngăn cản mọi tiến bộ tâm lính. Một cực đoan thứ hai là
khổ hạnh, ép xác vì nó làm mệt mỏi tinh thần, mê mờ trí tuệ,
do đó cũng có hại, vô ích. Đức Phật khuyến cáo nên rời bỏ hai
cực đoan trên, và theo con đường Trung Đạo dẫn tới cuộc sống
thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và giải thoát tối hậu. Đó là con
đường đạo tám nhánh nổi tiếng, sách Hán thường dịch là Bát
Chánh Đạo:
-
Chánh tri kiến: Thấy biết chân chánh.
-
Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh, ý chí chân chánh.
-
Chánh ngữ: Nói năng chân chánh, tức là không nói dối, không
nói ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa.
-
Chánh nghiệp: Hành động chân chánh, tức là không sát sanh,
không lấy của không cho, không tà hạnh, không rượu chè.
-
Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề chân chánh, không phải bằng
nghề bất lương, như buôn bán lừa đảo, buôn vũ khí và thuốc
độc, buôn bán nô tỳ...
-
Chánh tinh tấn: Siêng năng chân chánh, diệt bỏ điều bất thiện,
làm mọi điều tốt lành.
-
Chánh niệm: Nghĩ nhớ chân chánh, không nghĩ nhờ điều tà vạy,
ác xấu, mê lầm.
-
Chánh định: Tập trung tư tưởng chân chánh, không để tư tưởng
tán loạn, chạy theo dục vọng.
-
Con đường tám nhánh là con đường đạo chân chánh, dẫn tới chấm
dứt mọi đau khổ, phát khởi trí tuệ, đưa đến Niết bàn, là sự
giải thoát vĩnh viễn khỏi vòng sống chết luân hồi, là sự thanh
tịnh tuyệt đối và an lạc tuyệt đối.
-
Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, Đức Phật giảng về bốn chân
lý cao cả, cũng gọi là bốn chân lý Thánh, bởi vì chúng được
phát hiện và tuyên thuyết bởi bậc thánh vĩ đại nhất là Đức
Phật. Đó là chân lý về sự khổ (sách Hán gọi là Khổ đế), chân
lý về nguyên nhân của khổ (Tập đế), chân lý về diệt khổ (Diệt
đế), chân lý về con đường đạo diệt khổ (Đạo đế).
-
Nghe xong bài thuyết pháp này, và một bài thứ hai có đầu đề
"Anttalakkhana sutta", bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta),
năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu
trở thành A la hán.
-
12. Đức Phật Giác Ngộ Cho Yasa Và Những Người Bạn
-
Gần Benares, có con trai người triệu phú tên là Yasa, tuy sống
cuộc đời đầy đủ xa hoa, nhưng lại sớm chán cảnh sốngv thế gian
tầm thường vô vị. Yasa tìm đến Đức phật, bộc lộ với Đức Phật
tâm trạng chán chường của mình, và được Đức Phật thuyết pháp
về hạnh bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi Trời, về nguy
hại của dục lạc thế gian, về hạnh phúc của nếp sống Thánh, hỷ
xả, không tham trước. Và sau đó, Đức Phật giảng cho Yasa vế
bốn chân lý cao cả: sự khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới
Niết bàn an lạc và con đường đạo tám nhánh dẫn tới Niết bàn.
-
Cha của Yasa, trên đường đi tìm con trai, cũng đến Vườn Nai và
được nghe Phật thuyết pháp, ông xin Phật cho quy y và trở
thành người đệ tử tại gia đầu tiên của Phật. Còn Yasa thì xin
Phật cho xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán. Khi Đức
Phật đến thăm nhà cha của Yasa theo lời thỉnh cầu của ông này,
thì cả người mẹ và người vợ cũ của Yasa cũng xin quy y làm đệ
tử tại gia của Đức Phật. Bốn người bạn của Yasa là Vimala,
Subaha, Tunnaji và Barampati, noi gương Yasa cũng xin xuất
gia, và không bao lâu đều chứng quả A la hán.
-
Ngoài ra, hơn năm mươi người bạn khác của Yasa, từ các gia
đình và địa phương khác nhau, nghe tin Yasa chứng được Thánh
quả, cũng đều tụ tập về đây xin xuất gia theo Đức Phật, và sau
một thời gian, tất cả đều chứng quả A la hán.
-
13. Đoàn Tăng Sĩ Thuyết Pháp Đầu Tiên
-
Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A la hán. Ngày
quyết định phái họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước
khi họ lên đường, Đức Phật đã động viên họ với lời lẽ như sau:
-
"Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế
gian và xuất gian".
-
"Các ngươi cũng vậy, hỡi các Tỳ kheo, cũng đã được giải thoát
khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian".
-
"Hãy đi! Hỡi các Tỳ kheo, vì lợi lạc của số đông, vì hạnh phúc
của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì
hạnh phúc của loài Trời và loài người. Các người hãy đi, nhưng
đừng đi hai người cùng một hướng. Hãy truyền bá đạo pháp, hỡi
các Tỳ kheo. Đạo pháp toàn thiện, ở phần đầu, phần giữa cũng
như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn, hãy tuyên bố về cuộc
sống Thánh, toàn thiện và thanh tịnh..." (Mahavagga 19).
-
Tỳ kheo, dịch âm từ chữ Pali "Bhikkhu", nghĩa là "Người khất
thực". Đức Phật, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, với 60
người học trò đã chứng quả A la hán, tổ chức thành một tăng
đoàn những tu sĩ khất thực, không có nhà ở cố định, không có
của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình
bát để xin ăn... Thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống
thánh hạnh, tự mình nêu gương sáng về cuộc sống Thánh hạnh và
giải thoát, đó là sự nghiệp, là nội dung công tác chủ yếu của
Tăng đoàn đầu tiên, do Đức Phật đích thân thành lập và chỉ
đạo.
-
14. Giác Ngộ Cho Ba Mươi Thanh Niên
-
Sau khi Đức Phật phái các đệ tử mỗi người đi một ngã để truyền
bá chánh pháp, Ngài cũng lên đường đến Uruvela. Dọc đường,
Ngài ngồi nghỉ ở một gốc cây, trong một khu rừng nhỏ. Lúc bấy
giờ, có ba muơi thanh niên nhà giàu, đem vợ theo đến vui chơi
giải trí trong chính khu rừng đó. Trong số này, có một thanh
niên chưa vợ. đem theo một kỹ nữ. Trong khi họ đang vui đùa,
thì người kỹ nữ lẫn trốn với nhiều của cải và đồ trang sức của
họ. Các thanh niên lùng bắt người kỷ nữ trong khu rừng, gặp
Đức Phật và hỏi Ngài có thấy người phụ nữ trẻ qua đây không?
-
Đức Phật hỏi: "Hỡi các thanh niên, tìm người kỹ nữ tốt, hay là
tìm thấy bản thân mình tốt hơn?"
-
Họ đều trả lời là tìm thấy bản thân mình tốt hơn.
-
Đức Phật nói: "Thế thì được! Các bạn trẻ, hãy ngồi lại đây, Ta
sẽ thuyết pháp cho".
-
Các thanh niên kính lễ Phật với thái độ trân trọng rồi ngồi
xuống nghe Phật giảng pháp. Nhờ nghe pháp, họ được giác ngộ và
xin phật cho xuất gia làm Tỳ kheo.
-
15. Ba Anh Em Ông Kassapa (Ca Diếp) Được Giác Ngộ
-
Gần Uruvela, có ba tu sĩ khổ hạnh là ba anh em ông Kassapa:
Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Người anh lớn,
Uruvela Kassapa có 500 đệ tử, hai người em có 300 và 200 đệ
tử. Ba anh em ông Kassapa đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn
ở xứ Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông
này thờ thần lửa, và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Đức
Phật lại gặp ông đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm tại
phòng riêng của ông này, ở đây có thờ một con rắn thiên rất
độc. Ông Kassapa tưởng rằng Đức Phật thế nào cũng bị con rắn
thiêng cắn chết, nào ngờ chính con rắn bị Đức Phật hàng phục
bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em với số học trò đông
đảo đều xin xuất gia theo Đức Phật.
-
Sau đó, cả đoàn người cùng đi với Đức Phật đến một nơi gọi là
Gaya Sisa, không cách xa Uruvela mấy. Ở đây, Phật giảng kinh
Adittapariyaya Sutta. Nghe xong kinh này, tất cả các Tỳ kheo
có mặt đều chứng quả A la hán.
-
16. Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggalana (Mục Kiền Liên) Trở
Thành Hai Đệ Tử Hàng Đầu Của Đức Phật
-
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại làng Upatissa, có một thanh
niên rất thông minh tên là Sariputla. Gia đình ông thuộc loại
giàu có và danh tiếng nhất làng, cho nên o6ng cũng có tên là
Upatissa. Tuy sống trong cảng giàu sang quyền quí, nhưng ông
sớm cảm thấy tính trống rỗng, vô vị của cuộc sống thế tục. Ông
cùng với người bạn thân là Moggalana, ở Kokita thường xuyên
khi khắp nơi, tìm thầy học đạo.
-
Đấy cũng là thời điểm, Đức Phật phái các đệ tử đi truyền giáo.
Sariputta được gặp A la hán Assaji đang đi khất thực trong
thàng Vương Xá và xúc động mạnh mẽ trước dung mạo trang nghiêm
và khí sắc giải thoát của vị A la hán trẻ tuổi này. Sariputta
đến gần và hỏi:
-
- "Thưa Ngài tôn kính! Các căn của Ngài thật an tịnh, màu da
của Ngài thật trong sáng. Được sự chỉ đạo của bậc đạo sư nào
mà Ngài xuất gia? Bậc đạo sư của Ngài là ai? Ngài theo giáo lý
nào?"
-
A la hán Assaji trả lời với thái độ khiêm tốn:
-
"Tôi còn rất trẻ trong Tăng đoàn, thưa Ngài, và tôi không có
khả năng thuyết pháp được nhiều cho Ngài".
-
Nhưng vì Tôn giả Xá Lợi Phất khẩn khoản yêu cầu, cho nên A la
hán Assaji đọc câu kệ:
-
- "Sự vật bắt nguồn từ nhân duyên
-
Đức Như Lai nói rõ nhân duyên đó
-
Và bậc đạo sư cũng nói rõ
-
Sự vật đó tiêu diệt như thế nào".
-
Ngài Sariputta rất thông minh, chỉ mới nghe 2 câu kệ đầu đã
chứng ngay Sơ quả. Sau đó, Ngài về baó tin cho người bạn thân
Moggalana, và cả hai người cùng đến yết kiến Đức Phật ở tu
viện Veluvana. Đức Phật thâu nhận hai ông vào Tăng chúng với
câu nói đơn giản: "Etha Bhikkhave!" (Hãy đến đây! Các Tỳ
kheo).
-
Mười lăm ngày sau đó, Sariputta chứng quả A la hán, khi nghe
Đức Phật giảng kinh Vedana Pariggha cho du sĩ ngoại đạo
Dighanakha, còn Mục Kiền Liên thì chứng quả A la hán trước đó
một tuần. Ngay chiều hôm Ngài Sariputta chứng quả A la hán,
Đức Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai Ngài là hai
vị thượng thủ của Tăng đoàn.
-
17. Đức Phật Về Thăm Gia Đình
-
Thân phụ Đức Phật, vua Suddhodana bây giờ đã già yếu, nghe tin
Đức Phật thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương
Xá), vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả
đến Rajagaha (Vương xá), thỉnh cầu Đức Phật trở về thăm cố đô
và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua, đến Vương xá, đuợc nghe
Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A
la hán.
-
Vị sứ giả thứ mười là Kaludayi, vốn là người bạn thân cũ của
Đức Phật, lúc Ngài cón là Thái tử. Ông này đến Vương xá, nghe
Phật nói pháp, cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A
la hán như chín vị sứ giả trước, Kaludayi không quên chuyển
tới Đức Phật lời phụ vương mời Đức Phật về thăm gia đình. Đức
Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử.
-
18. Đức Phật Và Phụ Vương Suddhodana
-
Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Suddhodana, quần thần
và dân chúng đón tiếp rất long trọng. Được nghe Đức Phật
thuyết pháp, vua chứng ngay Sơ quả (Tư đà hoàn). Khi nghe bài
thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai,
Sakkadagami (Tư đà hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng
Sơ quả (Sotapana - Tu đà hoàn). Lần thứ ba, Đức Phật giảng
kinh Dhammapala Jàtaka cho vua cha, và vua cha chứng quả Thánh
thứ ba (Anagami - A na hàm). Sách kể rằng, sau nầy, trên
giừơng bệnh, vua cha lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp.
Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A la hán. Và sau
bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm Đức
Phật tròn 40 tuổi.
-
19. Đức Phật và Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
-
Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) vốn là con gái vua
Suppahuddha (Thiện Giác), đứng đầu dòng họ Koliya. Sau khi
Thái tử rời bỏ hoàng cung, xuất gia cầu đạo, công chúa cũng bỏ
hết đồ trang sức, mặc áo vàng của người nữ tu sĩ, và tận tình
nuôi người con trai là La Hầu La đến tuổi khôn lớn.
-
Ngày thứ hai Đức Phật đến thành Kapilavastu, Đức Phật cùng với
đông đảo đệ tử đến dùng bữa ăn trưa tại hoàng cung, theo lời
mời của vua cha. Sau bữa tiệc, Đức Phật cùng với vua cha và
hai người đệ tử thân cận, Sariputta và Moggalana đến phòng
công chúa. Sau khi Đức Phật vào phòng và ngồi vào chỗ xếp sẵn,
công chúa đảnh lễ Phật với thái độ vô cùng cung kính. Đức Phật
giảng truyện bổn sanh Candakinnara và nói: "Thưa phụ vương,
không phải chỉ trong kiếp này, mà trong một kiếp sống trước,
công chúa cũng đã từng bảo vệ tôi và thủy chung với tôi". Sau
khi nhắc lại chuyện kiếp trước, Đức Phật an ủi công chúa và từ
giã hoàng cung.
-
Sau khi vua Suddhodana qua đời, bà dì là Pajapati xuất gia làm
Tỳ kheo ni. Công chúa cũng xuất gia và không bao lâu chứng quả
A la hán. Trong số các Tỳ kheo ni, công chúa là người giỏi
phép thần thông nhất. Năm 78 tuổi, công chúa nhập Niết bàn.
-
20. Đức Phật và Rahula (La Hầu La)
-
Rahula (Hán dịch âm: La Hầu La) là người con trai độc nhất của
Đức Phật, khi Đức Phật còn là thái tử. Lần đầu tiên Đức Phật
trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên
7 tuổi, được bà dì là Maha Pajapati Gotami trực tiếp nuôi
dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahula vẫn được
chấp nhận vào Tăng đoàn, và được Đức Phật giao cho Ngài
Sariputta trực tiếp dạy dỗ.
-
Một trong những bài kinh nổi tiếng Đức Phật đích thân giảng
cho Rahula sau khi Rahula xuất gia, là kinh Ambalatthika
Rahulovada sutta, trong đó Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng
của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm,
lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.
-
Nhờ luỵện tập phép tu thiền niệm hơi thở, theo lời chỉ dẫn của
Đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài
Rahula chứng quả A la hán. Ngài qua đời trước Đức Phật và Ngài
Sariputta.
-
Trong "Trưởng Lão Tăng Kệ", có hai bài kệ như sau, của Rahula,
sau khi Ngài chứng quả A la hán:
-
- "Nhờ ta được đầy đủ
-
Hai đức tánh tốt đẹp
-
Được bạn có trí gọi:
-
'Rahula may mắn'
-
Ta lại được pháp nhãn,
-
Các lậu hoặc đoạn tận,
-
Không còn có tái sanh
-
Ba minh ta đạt được
-
Thấy được giới 'bất tử'"
-
21. Đức Phật Và Bà Dì Mẫu Pajapati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề)
-
Bà dì Gotami là em hoàng hậu Maya, và là vợ thứ của vua
Suddhodana. Sau khi hoàng hậu Maya qua đời, bà lãnh trách
nhiệm săn sóc, nuôi nấng Thái tử Siđacta.
-
Lần đầu tiên Đức Phật về thăm thành Kapilavastu, sau ngày Ngài
thành đạo, bà dì có trực tiếp xin Đức Phật cho xuất gia làm Tỳ
kheo ni, nhưng Phật không chấp nhận, mà cũng không nói rõ lý
do. Bà Gotami ba lần xin, Đức Phật đều từ chối. Sau khi rời
Kapilavastu, Đức Phật cùng với số đệ tử đông đảo đến thành phố
Vesali, ngụ tại tịnh xá Kutagara.
-
Bà Gotami cùng với nhiều bà khác thuộc giòng họ Sakya, đầu cạo
tóc, thân đắp y vàng, kéo nhau đến Vesali và đứng chờ ngoài
cửa tịnh xá, nơi Đức Phật an nghỉ. Từ Kapilavastu đến Vesali,
con đường dài 150 dặm. Bà Gotami và các bà giòng họ Sakya,
chân sưng phồng, quần áo đầy bụi, vẻ mặt buồn bã nhưng kiên
quyết, yêu cầu Ngài Ananda cho được gặp Đức Phật. Ngài Ananda
động lòng thương xót, vào xin Đức Phật cho phép các bà được
xuất gia làm Tỳ kheo ni. Ngài Ananda hai ba lần nài xin, Đức
Phật đều không chấp nhận. Ngài bèn thưa với Phật rằng:
-
- "Nếu phụ nữ được xuất gia và tu học theo pháp và luật của
đức Thế Tôn thì họ có thể chứng quả Thánh thứ nhất, quả Thánh
thứ hai, quả Thánh thứ ba và cuối cùng có chứng được quả A la
hán không?"
-
Đức Phật trả lời là họ có khả năng chứng các quả Thánh nói
trên. Ngài Ananda bạch tiếp: "Nếu họ có thể chứng được các quả
Thánh thì cớ sao bà dì Gotami lại không được xuất gia theo
Pháp và Luật của Đức Thế Tôn, vì bà dì đã trực tiếp nuôi nấng
săn sóc Thế Tôn, từ ngày Đức Thế Tôn còn tấm bé".
-
Đức Phật nói: "Nếu bà Gotami chấp nhận thực hành tám điều quy
định nghiêm khắc sau đây, thì Ta cho phép Bà và các phụ nữ
xuất gia, tu học dưới pháp và luật của Ta". Rồi Đức Phật nói
ra tám điều qui định nghiêm khắc mọi quan hệ giữa Tỳ kheo và
Tỳ kheo ni (xem luật Tỳ kheo ni). Ông Ananda đem 8 điều luật
Phật nói thưa lại với bà dì Gotami và các bà khác. Các bà đều
hoan hỷ nhận lời.
-
Cho phép bà dì Gotami xuất gia và thành lập đoàn Tỳ kheo ni,
Đức Phật đã thấy trước hậu quả của quyết định của mình. Ngài
nói với đại đức Ananda rằng: "Này Ananda, nếu phụ nữ không
được phép xuất gia và sống trong Pháp và Luật của Ta, thì cuộc
sống Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu,
Chánh pháp cao cả của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng vì
phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ
không duy trì dài lâu, và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ
còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi".
-
"Cũng như, này Ananda, có những ngôi nhà có nhiều phụ nữ và ít
đàn ông, những ngôi nhà đó rất dễ bị mất trộm. Nếu để phụ nữ
xuất gia, sống trong Pháp và Luật của Như Lai, cuộc sống Thánh
của các đệ tử sẽ khó mà duy trì dài lâu. Cũng như một người
đắp một con đê để ngăn một bể nước lớn, không để cho nước tràn
qua. Ta cũng vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc trên
là để ngăn ngừa không để cho Tỳ kheo ni vi phạm".
-
Những lời Phật dạy, tuy có thể không được thuận tai đối với
phụ nữ, nhưng cũng phải nhận rằng, Đức Phật đã sớm thấy rõ,
đối với phụ nữ nói chung, bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, cuộc
sống xuất gia không phải dễ dàng. Quan hệ giữa nam và nữ tu sĩ
trong Tăng đoàn cũng dễ xãy ra nhiều chuyện rắc rối.
-
Mặc dù vậy, Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử
nhân loại, cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và
uy nghi. Bà la môn giáo, và các tôn giáo khác đương thời ở Ấn
Độ đều không có đoàn thể phụ nữ tu hành như vậy. Hơn nữa,
trong thời Đức Phật còn tại thế và sau nầy, nhiều Tỳ kheo ni
đã chứng quả A la hán và trở thành nổi danh trong hành tu sĩ,
như chúng ta có thể đọc thấy trong cuốn "Trưởng lão ni kệ"
thuộc Tiểu Bộ Kinh.
-
22. Đức Phật Và Tôn Giả Ananda
-
Ananda là anh em cô cậu với Đức Phật và là con của Amitodana,
em vua Suddhodana, thân phụ của Đức Phật. Vì ngày ông sinh ra
đem lại niềm hoan hỷ cho mọi người trong gia tộc, cho nên Tôn
giả được đặt tên Ananda (Khánh Hỷ).
-
Tôn giả Ananda xuất gia theo Phật, cùng với các thanh niên
khác dòng họ Sakya, là Anuruddha, Bhadya, Bhaga, Kimbila, và
Devadatta. Năm Đức Phật 55 tuổi, tôn giả Ananda được cử làm
thị giả của Đức Phật. Trong suốt 25 năm trời, từ ngày ấy cho
đến lúc Đức Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ananda luôn luôn ở bên
cạnh Đức Phật, hầu hạ săn sóc Đức Phật, trong mọi nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày. Ông Ananda có một trí nhớ lạ lùng, ông ghi nhớ
không bỏ sót tất cả các bài thuyết pháp của Đức Phật cũng như
của một số đệ tử lớn của Đức Phật.
-
Khi một Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn
giả trả lời là có 82.000 bài của Đức Phật thuyết và 2.000 bài
của các Tỳ kheo, đệ tử của Đức Phật thuyết. Đúng là có tổng số
84.000 bài kinh tất cả.
-
Đức Phật tán thán năm đức hạnh của Tôn giả Ananda là: học uyên
bác, trí nhớ tốt, kiên định, săn sóc chu đáo, ứng xử tốt.
-
Mãi sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tôn giả Ananda mới chứng
quả A la hán. Đấy là do khi Đức Phật còn tại thế, tôn giả bận
làm công việc thị giả, cũng như bận ghi nhớ các bài giảng của
Đức Phật, như một đệ tử bác học đa văn. Tôn giả Ananda nhập
Niết bàn, năm ông 120 tuổi.
-
23. Đức Phật Và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)
-
Devadatta là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita, Pamita
là một bà cô của Đức Phật, Devadatta xuất gia theo Phật, cùng
một lượt với ông Ananda và các thanh niên quý tộc khác, thuộc
giòng họ Sakya. Devadatta không chứng được quả nào, nhưng lại
giỏi một số pháp thần thông, và được vua Ajattasattu (A Xa
Thế) xứ Magadha ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, và tà kiến,
tà hạnh, Devadatta vẫn được một số khá đông người tán thành và
phục tùng. Khi Đức Phật về già, Devadatta yêu cầu Phật trao
cho mình quyền lãnh đạo Tăng già, nhưng Đức Phật kiên quyết
không chấp nhận.
-
Devadatta hết sức tức giận, và cùng với vua Ajattasattu âm mưu
hại Phật. Nhưng các xạ thủ được Ajattasattu thuê giết Phật,
đều bị Đức Phật thuyết giáo và trở thành đệ tử của Phật.
Devadatta thấy tự mình phải hạ thủ sát hại Phật mới được. Một
lần Đức Phật đang đi dọc bờ núi Gijjhakuta (Linh Thứu), thì
Devadatta từ trên đỉnh núi đẩy xuống một tảng đá lớn. May mà
tảng đá nầy lăn đụng phải một tảng đá khác và bị vỡ. Đức Phật
chỉ xây xát và chảy máu ở chân.
-
Một lần khác, Devadatta cho một con voi điên uống rượu, rồi
xua voi húc Phật. Con voi chạy đến gần Phật thì bỗng nhiên
đứng lại, bị thuần phục và được Phật xoa đầu. Sau lần âm mưu
thất bại này, vua Ajatasattu sợ quá, không dám tiếp tục che
chở cho Devadatta nữa.
-
Devadatta bèn nuôi một âm mưu khác, xảo quyệt hơn: với một số
Tỳ kheo xấu như Kokàlika, Devadatta muốn phá hoà hợp tăng,
chia rẽ nội bộ Tăng già, Devaddata kiến nghị Đức Phật ban hành
5 điều luật mới như sau:
-
Tăng sĩ phải sống suốt đời ở trong rừng.
-
Chỉ được khất thực để ăn.
-
Chỉ được mặc áo làm bằng giẻ rách lượm ở nghĩa địa.
-
Chỉ được sống dưới gốc cây.
-
Suốt đời không được ăn cá thịt.
-
Đức Phật chỉ trả lời là các đệ tử có thể tùy ý sống theo hay
không theo 5 giới điều ấy, nhưng Ngài không ép buộc họ.
Devadatta lợi dụng sự từ chối của Đức Phật, lôi kéo được một
số tăng sĩ trẻ, thiếu học thức và không có căn bản vững vàng,
đi theo mình đến Gayasisa. Nhưng hai đệ tử lớn của Phật là
Sariputta và Moggalana, theo chỉ thị của Đức Phật cũng đến
Gayasisa, thuyết pháp cho họ nghe, và dẫn họ về trở lại với
chánh pháp.
-
Từ đó, tai nạn liên tiếp đến với Devadatta. Mắc bệnh nan y,
trước khi chết, Devadatta ăn năn hối lỗi và tỏ ý muốn được gặp
Đức Phật. Nhưng vì nghiệp ác quá nặng cho nên Devadatta chết
mà không gặp Phật, và phải đọa địa ngục, chịu khổ trong nhiều
kiếp.
-
Về việc Devadatta, Đức Phật răn các Tỳ kheo rằng, vì Devadatta
bị chinh phục bởi các ác pháp, cho nên phải đọa địa ngục, tức
là bị chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng, cung kính, dục vọng
xấu, tà kiến. (Xem Tăng Chi III, 20)
-
24. Đức Phật Và Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika)
-
Nhà triệu phú, trưởng giả Anathapindika là vị thí chủ lớn nhất
ủng hộ Đức Phật và tăng chúng, thời Đức Phật còn tại thế. Ông
vốn tên là Sudatta, nhưng vì ông hay bố thí cho kẻ nghèo và
người mồ côi, mồ cút cho nên người ta tôn gọi ông là Trưởng
giả Cấp Cô Độc (Anathapindika). Ông sinh ra ở Savatthi.
-
Một lần đến thành Rajagaha (Vương Xá) có công việc, ông được
biết là Đức Phật đang ngụ ở rừng Sitavana, ngoài thành
Rajagaha. Ông vui mừng khôn xiết và sáng sớm hôm sau, trải qua
một đêm dài mất ngủ vì quá sung sướng bồn chồn, ông lên đường
đi đến rừng Sitavana. Tại đây, Đức Phật đang đi kinh hành
ngoài trời và biết trước ông đến, gọi ông bằng tên riêng
Sudatta và thân mật bảo ông lại gần Ngài.
-
Ông vấn an Phật, hỏi thăm Đức Phật có an lạc không, Đức Phật
trả lời:
-
"Tất nhiên, bao giờ cũng sống an lạc
-
Bậc A la hán trong lòng mọi ngọn lửa đã dập tắt.
-
Không còn đeo đuổi theo dục lạc vật chất nữa.
-
Cõi lòng mát lạnh, mọi sanh y đoạn tận.
-
Mọi trở ngại đều loại trừ, đã khéo chế ngự,
-
Mọi đau khổ trong tâm
-
Bậc A la hán sống an lạc, hạnh phúc
-
Vì trong lòng được an tịnh". (Tương Ưng I, 273)
-
a) Tinh Xá Jatavana
-
Nghe lời Phật giảng, ông Anathapindika chứng được Sơ quả
(Sotapanna), và ông thỉnh cầu Đức Phật sống qua mùa mưa ở
Savatthi. Đức Phật nhận lời. Ông Anathapindika, trở về
Savatthi, mua một khu vườn của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), và xây ở
đây tu viện Jetavana nổi tiếng.
-
Sách kể rằng, ông mua khu vườn bằng số tiền đồng vàng lát đầy
diện tích vườn, theo sự đòi hỏi của Thái tử Jeta. Nhưng Thái
tử không chịu bán cây ở trong vườn, và tự mình đem tất cả
những cây đó cúng dường Đức Phật. Từ đó, công viên có tên gọi
trong các kinh Phật (Hán dịch) là "Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ".
Đức Phật đã giảng nhiều kinh, và trải qua 19 mùa mưa ở Tịnh Xá
nầy.
-
Các bài nói chuyện của Đức Phật với ông Anathapindika đều có ý
nghĩa lớn đối với người Phật tử tại gia. Trong một bài thuyết
pháp về hạnh bố thí, Đức Phật nói là "sự cúng dường cho Phật
và chư Tăng là công đức rất lớn, nhưng có công đức hơn nữa là
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có công đức hơn 3 quy y là
tự mình giữ 5 giới, có công đức hơn giữ 5 giới là quán về lòng
từ trong giây phút; nhưng có công đức hơn cả là phát triển tầm
nhìn trí tuệ thấy được sự vật như thật và hiểu được tánh vô
thường của sự vật" (Tăng Chi IV, 264 - 265)
-
Qua đoạn kinh trên, có thể thấy điều Đức Phật coi trọng hơn cả
đối với người xuất gia hay tại gia là phát triển trí tuệ, để
nhìn thấy sự vật như thật, đúng bản chất của chúng là vô
thường, vô ngã. Tuy bố thí, cúng dường cũng là điều quan
trọng, đối với người tại gia, nhưng tự mình tu tập, thực hành
nếp sống đạo đức theo 5 giới, nuôi dưỡng lòng từ lại càng quan
trọng hơn, nhưng quan trọng hơn cả là phát triển trí tuệ, để
nhìn được sự vật như thật, nhờ đó mà không còn bị tham đắm,
nội tâm được giải thoát, tự tại, trí tuệ được trong sáng.
-
b) Bốn Niềm Vui Của Phật Tử Tại Gia
-
Đức Phật nói tới bốn niềm vui chính đáng của người Phật tử tại
gia, niềm vui có của cải, niềm vui được giàu có, niềm vui
không có nợ nần, và niềm vui không có gì bị chê trách.
-
"Thế nào là niềm vui có của cải? Ở đây, gia chủ có của cải nhờ
phấn đấu tích cực, góp gom được bằng sức của bàn tay, bằng mồ
hôi, đúng pháp, và tích lũy được một cách đúng pháp, và có ý
nghĩ: 'Của cải này là của tôi, có được nhờ phấn đấu tích cực
tích lũy đúng pháp', cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông
ta. Đó là niềm vui có của cải".
-
"Thế nào là niềm vui được giàu có? Ở đây, vị gia chủ được giàu
có nhờ phấn đấu tích cực, vui vẻ nhờ giàu có và làm nhiều việc
lành. Vì có ý nghĩ 'Nhờ giàu có mà có thể hưởng thụ sự giàu có
và làm các việc lành', cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với
ông ta. Đó là niềm vui được giàu có".
-
"Thế nào là niềm vui không có nợ nần? Ở đây, vị gia chủ không
có nợ nần, lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai. Vì có ý nghĩ
'Tôi không có nợ nần, dù lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai',
cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta. Đó là niềm vui
không có nợ nần".
-
"Thế nào là niềm vui không bị chê trách? Ở đây, Vị Thánh đệ tử
có niềm vui vì các hành động của thân, miệng và ý đều không có
gì là đáng chê trách. Với ý nghĩ 'Tôi không có gì đáng chê
trách ở thân, miệng và ý', niềm vui và thỏa mãn đến với ông
ta". (Tăng Chi III, 77 - 78)
-
Tiếp đó, Đức Phật nói trong ba niềm vui trên đây của người tại
gia, niềm vui không có gì đáng bị chê trách nơi hành động, lời
nói và ý nghĩ là ưu việt hơn cả.
-
c) Bảy Loại Người Vợ
-
Một lần, Đức Phật đến thăm nhà ông Anathapindika, nghe có
tiếng ồn ào thất thường trong nhà, bèn hỏi nguyên nhân, ông
Anathapindika thưa:
-
"Bạch Thế Tôn, đó là Suyata, con dâu tôi đang ở với chúng tôi.
Nó giàu có và đến đây từ một gia đình giàu có, nó không săn
sóc gì tới mẹ chồng, bố chồng và cả chồng nó nữa. Nó cũng
không kính trọng, tôn quý và đảnh lễ Đức Thế Tôn". Đức Phật
cho gọi Suyata lại và giảng cho nghe về bảy loại người vợ:
-
1. Người vợ có tâm địa ác, có ý xấu, không có lòng thương, bỏ
rơi chồng mình, yêu những người đàn ông khác, một dâm nữ, chỉ
muốn làm phiền lòng người. Đó là loại vợ sát nhân.
-
2. Người vợ hay hoang phí của cải tài vật, dù là ít do chồng
làm ăn kiếm được, nhờ cày ruộng, buôn bán hay lao động khéo
tay, đó là loại vợ ăn trộm.
-
3. Người vợ lười biếng, không muốn làm gì hết, lại tham ăn, ác
độc, thô bạo, thích nói lời ác, lấn át người chồng siêng năn
cần mẫn. Đó là loại vợ kiêu xa.
-
4. Người vợ trìu mến, thân ái bảo vệ chồng như mẹ bảo vệ con,
giữ gìn tài sản của chồng, đó là loại vợ như mẹ.
-
5. Người vợ kính trọng chồng, như em gái đối với anh cả, khiêm
tốn, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là loại vợ như em út.
-
6. Người vợ sung sướng khi thấy chồng, như gặp người bạn cũ
sau bao năm xa cách, thuộc giòng quý tộc, có đạo đức, sống
thanh tịnh. Đó là loại vợ như bạn bè.
-
7. Người vợ dù là bị đối đãi không tốt, nhưng không giận hờn,
vẫn bình tĩnh, chịu đựng mọi hành vi của chồng với lòng từ
mẫn, tâm không biết giận, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là
loại vợ như người phục vụ.
-
Đức Phật sau khi mô tả bảy loại người vợ nói trên, nói rằng:
loại vợ sát nhân, loại vợ ăn trộm, loại vợ kiêu xa đều là
không tốt, còn loại vợ như mẹ, như em út, như bạn bè, như
người phục vụ là những người vợ tốt, đáng tán thán, và Đức
Phật hỏi đó là bảy loại vợ mà một người đàn ông có được, và
Suyata muốn là loại người vợ nào?
-
Suyata trả lời:
-
"Xin đức Thế Tôn từ nay trở đi nghĩ về cháu là loại vợ như
người phục vụ".
-
d) Cây Bồ Đề Ananda
-
Ông Anathapindika thường hay đến thăm Đức Phật hàng ngày và
thấy các Phật tử tỏ ra thất vọng mỗi khi đến mà không được gặp
Phật vì Phật đi thuyết pháp ở một nơi khác, cho nên hỏi Đại
Đức Ananda xem có cách gì để cho Phật tử có thể cúng dường
Phật, dù Ngài vắng mặt. Đại Đức Ananda bạch Phật về chuyện này
và hỏi Phật về các vật đáng được cúng dường, đảnh lễ. Đức Phật
trả lời là có ba loại. Loại đồ vật thuộc về thân Đức Phật,
loại đồ vật Đức Phật thường dùng, và loại đồ vật nhắc nhủ nhớ
tới Đức Phật.
-
Đại Đức Ananda hỏi: "Xây một tháp thờ khi đức Thế Tôn còn sống
có thích hợp chăng?"
-
"Không, một vật nhắc nhủ nhớ tới Đức Phật không có cơ sở vật
chất, chỉ có ý nghĩa thuần túy tinh thần. Như cây Bồ Đề, được
Đức Phật sử dụng, là một vật đáng cúng dường, dù khi Đức Phật
còn sống hay là khi Đức Phật đã diệt độ rồi."
-
Đại Đức Ananda nói: "Khi đức Thế Tôn đi thuyết pháp ở nơi
khác, tu viện lớn Jetavana nầy không có nơi để quần chúng quy
ngưỡng và cúng dường. Con có thể lấy hạt cây Bồ Đề lớn ở Bodhi
Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) và gieo nó ở cửa Tinh Xá Jetavana được
không?"
-
Đức Phật trả lời: "Rất tốt, hãy trồng cây Bồ Đề ở đây. Như thế
khác nào bao giờ Ta cũng có mặt ở Tinh Xá Jetavana nầy".
-
Đại Đức Ananda nói ý kiến của Đức Phật với Phật tử tại gia như
ông Anathapindika, nữ gia chủ Visakha và vua Pasenadi xứ
Kosala. Đại Đức Ananda nhờ Tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên)
tìm cho một quả Bồ Đề trên cây Bồ Đề lớn ở Bodhi Gaya. Đại Đức
Ananda đem trồng ở cửa Tinh Xá Jetavana. Cây Bồ Đề ấy hiện nay
vẫn còn, và được gọi là cây Bồ Đề Ananda.
-
e) Ông Anathapindika qua đời và sinh lên cõi trời Đâu Suất
-
Khi ông Anathapindika lâm bệnh nặng, ông mời Tôn giả Sariputta
đến giảng kinh tại nhà. Cả Ngài Sariputta và Ngài Ananda cũng
đến vấn an ông. Tôn giả Sariputta giảng cho ông nghe một bài
kinh sâu sắc. Nghe bài kinh gần xong, hai mắt ông trào đầy lệ
vì quá cảm động. Ông Ananda hỏi vì sao, thì ông trả lời là ông
chưa từng được nghe một bài thuyết pháp sâu sắc đến thế. Ngài
Sariputta trả lời, đây vốn là một bài thuyết pháp chỉ giảng
cho những Tăng sĩ có trình độ tu học cao.
-
Ít lâu, sau khi hai Ngài Sariputta và Ananda ra đi, ông
Anathapindika qua đời và sanh lên cõi Trời Tushita (Đâu Suất).
-
Đến tối, thiên chủ Anathapindika, với thân hình sáng chói cả
khu vườn Jetavana, đến chào Đức Phật, tán thán công đức của
Tôn giả Xá Lợi Phất, và bày tỏ niềm vui sướng của mình được
thấy Đức Phật và chư Tăng ngụ tại Tu Viện Jetavana. Thiên chủ
Anathapindika nói:
-
"Ý lành và trí tuệ, tâm được tu tập đúng pháp, lối sống tối
cao cả, dựa trên đạo đức chân chính. Chính điều ấy làm con
người thanh tịnh, chứ không phải danh lợi thế gian".
-
25. An Cư Kiết Hạ
-
Sự nghiệp giáo hóa và thuyết pháp của Đức Phật kéo dài 45 năm,
từ năm Đức Phật thành đạo lúc 35 tuổi cho đến năm tuổi 80, Đức
Phật nhập Niết bàn. Năm này qua năm khác, Đức Phật đi nơi này
nơi kia, khi thì đi một mình, khi thì có đông đảo đệ tử đi
theo, thuyết pháp độ sanh, giáo hóa quần chúng bằng gương sáng
cao cả của bản thân, và bằng lời lẽ đầy trí tuệ. Chỉ vào mùa
mưa, ở Ấn Độ, thông thường giữa tháng 7 và tháng 11, Đức Phật
nghỉ lại trong các tu viện và thuyết pháp tại chỗ, không đi ra
ngoài. Tục lệ này gọi là An cư kiết hạ, được Tăng ni Phật tử
duy trì liên tục cho đến ngày nay, ở khắp các nước có Phật
giáo. Vào mùa an cư kiết hạ, quần chúng là tín đồ hay không
tín đồ, hàng ngày kéo đến đông đảo tại tu viện hay công viên,
nơi có Đức Phật và Chư Tăng trú ngụ, để được nghe thuyết pháp,
cúng dường Phật và Chư Tăng.
-
26. Đức Phật Và Vua Pasenadi Xứ Kosala
-
Như đã nói trên, trong 45 năm giáo hóa và thuyết pháp độ sanh,
Đức Phật hoặc một mình, hoặc cùng với đông đảo học trò đi lại
nhiều nơi ở vùng trung châu sông Hằng. Nhưng thời gian dài
nhất, Đức Phật ở tại Savatthi, kinh đô của vương quốc Kosala.
-
Cũng như Trưởng giả Anathapindika, vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ
Kosala là một thí chủ lớn của Đức Phật và Chư Tăng. Ở
Savatthi, ngoài Tinh Xá Jetavana của ông Anathapindika cúng
dường Đức Phật, còn có tu viện Rajakarama do vua Pasenadi xây
cất, để cúng dường Phật và Chư Tăng.
-
Hoàng hậu Malika, vợ vua cũng là một tín đồ thuần thành của
Đức Phật và khéo hướng dẫn giúp đỡ vua một cách tốt đẹp trong
các vấn đề tôn giáo. Có lần, vua nằm thấy liên tiếp 16 cơn
mộng bất thường, các đạo sĩ Ba la môn ở trong triều nói đó là
điềm gở và khuyên vua phải tổ chức tế đàn lớn, giết nhiều sinh
vật để cúng tế thì mới tai qua nạn khỏi. Vua cũng nghe theo và
chuẩn bị tổ chức tế đàn.
-
Khi Hoàng hậu Malika biết tin, bà khuyên vua, thay vì tổ chức
tế đàn, hãy yết kiến Phật và hỏi Ngài về ý nghĩa của 16 cơn
mộng. Và vua được yên tâm, sau khi nghe Phật giải thích đầy đủ
về 16 cơn mộng bất thường của vua. Vua bèn thôi không tổ chức
tế đàn nữa.
-
Một niềm hạnh phúc lớn của vua Pasenadi là được nghe Đức Phật
thuyết pháp nhiều lần. Tương Ưng Bộ Kinh có một chương đặc
biệt, có đầu đề "Tương Ưng Kosala" ghi lại phần lớn các bài
thuyết pháp của Đức Phật cho vua Pasenadi. Sau đây xin trích
giới thiệu nội dung vài đoạn trong chương Kosala Tương Ưng:
-
a) Đánh Giá Một Người Là Thế Nào Không Phải Là Chuyện Đơn
Giản.
-
Một lần, vua Pasenadi ngồi bên cạnh Phật, tại lâu đài
Migaramatu, thì thấy có một số du sĩ ngoại đạo đi ngang gần
đấy. Người thì bện tóc, người thì lõa thể, người thì chỉ mặc
một y. Vua hỏi Đức Phật là trong số các du sĩ đó, ai là người
đã chứng quả A la hán, ai là người đang trên đường tiến tới
chứng quả A la hán. Đức Phật trả lời là đối với nhà vua đang
sống trong vòng dục lạc, dùng các loại hương chiên đàn từ xứ
Kasi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, dùng nhiều
vàng bạc, thì thật là khó biết trong số các du sĩ vừa đi qua,
ai là A La Hán và ai đang trên con đường tiến tới chứng quả A
La Hán. Hơn nữa phải cùng sống lâu với một người, lại phải
biết chú ý, xem xét và phải có trí tuệ, thì mới có thể biết
được người đó có giới hạnh hay không, phải cùng chung một
nghề, mới biết được một người có thanh tịnh hay không, phải
qua sự thử thách của một thời gian bất hạnh mới biết được một
người có trung kiên hay không, phải qua đàm đạo với một người
mới biết được người đó có trí tuệ hay không. Hơn nữa, phải
trải qua một thời gian dài có chú ý, xem xét và phải có trí
tuệ thì mới có thể đánh giá một con người là thế nào,... Và
cuối cùng Đức Phật khuyên vua xem xét người, không nên chỉ
nhìn bộ mặt bề ngoài, có thể là giả dối che đậy.
-
b) Đức Phật Khuyên Coi Trọng Phụ Nữ, Ngang Hàng Với Nam Giới.
-
Một lần, vua Pasenadi, được tin Hoàng hậu Malika hạ sanh con
gái, tỏ vẻ không vui. Đức Phật, biết tâm trạng đó của vua, bèn
đọc bài kệ:
-
"Này nhân chủ ở đời
-
Có một số thiếu nữ
-
Có thể tốt đẹp hơn
-
So sánh với con trai
-
Có trí tuệ giới đức
-
Khiến nhạc mẫu thánh phục
-
Rồi sanh được con trai
-
Là anh hùng, quốc chủ
-
Người con trai như vậy,
-
Của người mẹ hiền đức
-
Thật xứng là đạo sư
-
Giáo giới cho toàn quốc". (Tương Ưng I, 104)
-
c) Không Nên Coi Thường Tỳ Kheo Trẻ.
-
Có lần vua Pasenadi hỏi vì sao, Đức Phật tuổi còn trẻ và xuất
gia chưa bao lâu, mà chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng giác,
là quả Thánh cao nhất mà nhiều vị giáo chủ khác, tuy tuổi đời
và đạo đều cao hơn Đức Phật, nhưng thừa nhận rằng mình chưa
đạt tới được. Đức Phật trả lời, có bốn cái trẻ không thể coi
thường. Thứ nhất là Sát đế lỵ trẻ (võ tướng trẻ thuộc đẳng cấp
Sát đế lỵ), thứ hai là con rắn trẻ, thứ ba là ngọn lửa trẻ
(mới nhen nhúm lên), và thứ tư là Tỳ kheo trẻ.
-
Ý từ Đức Phật là vị võ tướng trẻ có thể chiếm thiên hạ, rắn
trẻ có thể cắn chết người, ngọn lửa trẻ có thể đốt cháy cánh
đồng lớn, Tỳ kheo trẻ - nếu tinh tấn tu hành - có thể chứng
quả Thánh.
-
d) Chiến Thắng Nuôi Dưỡng Hận Thù.
-
Pasenadi, làm vua xứ Kosala hùng mạnh không tránh khỏi chiến
tranh với các nước láng giềng, đặc biệt là với chính cháu mình
là Ajatasattu, vua xứ Magadha. Có khi vua Pasenadi bại trận,
có khi vua Pasenadi chiến thắng, thậm chí có lần bắt sống được
vua Ajatasattu. Vì vua Pasenadi là người có tâm địa tốt, sùng
kính Phật, cho nên khi bắt sống được vua Ajatasattu, vua chỉ
tịch thu toàn bộ binh mã, còn thì tha cho vua Ajatasattu trở
về.
-
Khi các Tỳ kheo thuật lại chuyện này với Đức Phật. Ngài nói
lên hai bài kệ. Bài đầu, khi vua Pasenadi thất trận:
-
- "Thắng trận sinh thù oán
-
Bại trận nếm khổ đau
-
Ai bỏ thắng bỏ bại,
-
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I, 102)
-
Bài kệ thứ hai, Đức Phật nói lên khi nghe các Tỳ kheo thuật
chuyện vua Pasenadi thắng trận và bắt sống được vua
Ajatasattu:
-
- "Vì nghĩ đến tư lợi,
-
Nên mới cướp hại người
-
Khi người khác cướp lại,
-
Bị hại lại hại người
-
Người ngu nghĩ như vậy,
-
Khi ác chưa chín muồi
-
Người ngu chịu khổ đau,
-
Sát người, bị người sát
-
Thắng người, bị người thắng
-
Mắng người, người mắng lại.
-
Não người, người não lại
-
Do nghiệp được diễn tiến
-
Bị hại, lại hại người". (Tương Ưng I, 103)
-
27. Đức Phật Và Nữ Thí Chủ Visakha
-
Cũng tại Savathi, Đức Phật còn có thêm một tinh xá thứ ba nữa,
do nữ thí chủ Visakha xây. Tinh xá gọi là Pubbarama. Đức Phật
và Tăng chúng đã trải qua sáu mùa kiết hạ tại Tinh xá này của
bà Visakha. Bà là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ là
Sumanà Devi và ông nội của bà cũng là một nhà triệu phú tên là
Mendaka.
-
Ngay từ năm bà lên 7 tuổi, bà được may mắn gặp Đức Phật, khi
Đức Phật đến Bhaddiya, nơi sinh quán của Bà, tại vương quốc
Anga. Do có trí thông minh và đạo đức bẩm sinh, sau khi nghe
Phật giảng pháp, mặc dù tuổi còn nhỏ, bà cũng chứng Sơ quả
(Sotapanna).
-
Bà có một người chồng giàu có, Punnavadhana, con trai nhà
triệu phú Migàra. Bố chồng vốn là một tín đồ thuần thành của
Nigantha Nataputta, vị giáo chủ của đạo Jain. Bà đã khéo léo
xin được phép mời Đức Phật đến nhà chồng thụ trai và sau đó,
thuyết pháp cho cả gia đình nghe. Bố chồng cũng nghe nhưng
ngồi sau một bức màn. Vào cuối bài thuyết pháp của Đức Phật,
bố chồng giác ngộ, chứng ngay Sơ quả. Cả gia đình chồng trở
thành một gia đình Phật tử hạnh phúc và thuần thành.
-
Bà yêu cầu Đức Phật đồng ý cho bà được làm tám việc đối với
Tăng chúng như sau:
-
Tặng áo cà sa cho Tăng chúng vào mùa kiết hạ, từ nay cho đến
ngày bà qua đời.
-
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo đến Savathi.
-
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo ra khỏi Savathi.
-
Cúng dường thức ăn cho Tỳ kheo ốm.
-
Cúng dường thức ăn cho những ai săn sóc người ốm.
-
Cúng dường thuốc men cho Tý kheo ốm.
-
Cúng dường cháo cho Tỳ kheo.
-
Cúng dường áo tắm cho Tỳ kheo ni.
-
Đức Phật vui vẻ nhận lời, Đức Phật nhiều lần thuyết pháp cho
bà Visakha. Trong một bài thuyết pháp, Đức Phật có nói tới tám
giới cho Phật tử tại gia nên theo trong những ngày Bố Tát
(Uposatha). Hiện nay, tám giới này vẫn được Phật tử theo,
trong các ngày Bố Tát ở các nước có đạo Phật.
-
Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng,
cũng như ông Anathapindika là nam thí chủ lớn nhất.
-
28. Đức Phật Và Vua Bimbisara
-
Bimbisara (Tần Ba Sa La) là vua xứ Magadha, có kinh đô ở thành
Rajagaha (Vương Xá). Vua từng gặp Đức Phật khi Phật mới xuất
gia, và yêu cầu Đức Phật trở lại thăm vương quốc của vua, sau
ngày thành đạo. Giữ đúng lời hứa cũ, Đức Phật cùng với đông
đảo các vị A la hán đệ tử, đi từ Gaya đến thủ đô Rajagaha, và
nghỉ tại đền Suppatittha trong một rừng cây cọ dừa. Đươc tin,
vua Bimbirasa cùng với quần thần đông đảo đến chào Đức Phật và
Tăng chúng.
-
Vì trong số đệ tử đi theo hầu Đức Phật, có Tôn giả Kassapa vốn
có uy tín lớn trong quần chúng ở đây, cho nên nhiều người phân
vân không rõ ai là bậc Đạo Sư, Đức Phật hay là Tôn giả
Kassapa. Đức Phật biết rõ mối phân vân đó của quần chúng, bèn
hỏi ông Kassapa vì nguyên nhân gì ông bỏ tập tục tế thần lửa.
Ông Kassapa thưa rằng, ông bỏ tập tục tế thần lửa, vì ông nhận
thấy cảnh giới Niết bàn an tịnh, cao quý hơn nhiều so với dục
lạc thế gian. Nói xong ông đảnh lễ Phật và nói: "Đức Thế Tôn
là bậc Đạo Sư, con là đệ tử của Ngài".
-
Đức Phật bèn giảng kinh bổn sanh của ông Kassapa cho mọi người
nghe, kể rằng trong một kiếp trước, Đức Phật cũng đã từng độ
cho ông Kassapa ở xứ Narada. Được nghe Phật thuyết pháp, vua
Bimbisara chứng ngay Sơ quả. Hôm sau, vua thết trai tăng ở
hoàng cung, mời Phật và Tăng chúng tham dự. Sau đó, vua tặng
Đức Phật và Tăng chúng công viên Trúc Lâm, trong đó có đền Con
Sóc và Tinh Xá Veluvanaràma, nơi đây Đức Phật trải qua 6 mùa
an cư kiết hạ.
-
Bà Khema, vợ thứ của vua, sau này xuất gi và cùng với bà
Gotami, lãnh đạo Ni chúng. Còn Hoàng hậu chánh thất của vua là
bà Kosala Devi, con gái vua Pasenadi xứ Kosala. Con bà Kosala
Devi là Ajatasattu (A Xà Thế), sau này cướp ngôi và giết vua
cha, đó là do nghiệp quá khứ của vua Bimbisara quá nặng nề.
Nhưng vì vua đã chứng Sơ quả, cho nên cái chết của vua cũng
nhẹ nhàng, đỡ phần bi thảm và sau khi qua đời, vua lập tức
sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên thiên chủ
Janavasabba.
-
Ajatasattu sau khi cùng với Devadatta âm mưu giết hại Phật
không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y và trở
thành một Phật tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Do nghiệp quá
khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và
cướp ngôi.
-
29. Đức Phật Và Tướng Cướp Angulimala
-
Một sự kiện đáng ghi nhớ, đánh dấu năm thứ 20 ngày thành đạo
là Đức Phật giác ngộ cho Angulimala, tên tướng cướp khét tiếng
hung ác của xứ Kosala. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ
vô tội). Cha ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ
Kosala. Thời niên thiếu, ông theo học ở Taxila, là trung tâm
học vấn nổi tiếng đương thời ở Bắc Ấn Độ. Ông học rất giỏi và
được thầy yêu thương nhất trong số các học sinh. Điều không
may là các bạn đồng học ghen tỵ ông, vu cáo ông với thầy giáo
và ông thầy giáo cả tin đâm ra căm thù ông, và muốn giết ông
bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con
người. Angulimala phải vâng lời thầy, mặc dù rất khổ tâm. Ông
bèn rút lui vào rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để
có đủ số ngón tay cần thiết.
-
Ban đầu, ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì các
ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay người lại
thành vòng để đeo nơi cổ; do đó ông có tên Angulimala (vòng
ngón tay). Sách kể rằng, khi ông đã thu thập được 999 ngón
tay, thời Đức Phật xuất hiện. Angulimala rất mừng vì sắp có đủ
số ngón tay cần thiết để nộp cho ông thầy giáo ác độc,
Angulimala rút gươm, chạy đuổi theo Phật.
-
Vì Đức Phật dùng phép thần thông, nên Angulimala càng đuổi
nhanh, càng không bắt kịp được Phật, mặc dù Phật vẫn đi khoan
thai từ từ. Cuối cùng, thở hỗn hển và ướt đẫm mồ hôi,
Angulimala đứng lại và gọi: "Này Tu sĩ, hãy dừng chân". Đức
Phật nói bằng giọng từ tốn: "Mặc dù ta đang đi, nhưng ta đã
dừng chân. Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?"
-
Angulimala không hiểu ý tứ câu nói của Đức Phật như thế nào?
Bởi vì Đức Phật đang đi, lại nói là đã dừng chân. Còn
Angulimala đã dừng chân rồi, thì Phật lại bảo "Hãy dừng chân!"
Angulimala hỏi Phật và được Phật giải thích như sau:
-
- "Đúng là ta đã dừng mãi mãi, này Angulimala,
-
Không bao giờ dùng bạo lực với chúng sanh.
-
Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ có giết hại đồng loại
-
Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng,
-
Và bảo ngươi cũng hãy dừng tay!"
-
Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng của
ông, và ông biết rằng, ông đang đứng trước mặt Đức Phật Thích
Ca, Ngài đã vì lòng thương xót ông mà đến cứu ông ra khỏi vòng
tội lõi. Ông vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho ông được
xuất gia làm Tăng. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: "Ehi
Bikkhu" (Hãy đến ! Tỳ kheo).
-
Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala
vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng
kêu khóc của những người ông đã sát hại. Một hôm, đi khất
thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện,
lỗ đầu, chảy máu. Đức Phật giải thích cho Angulimala biết, đó
là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình.
-
Một ngày, Angulimala đi khất thực, gặp một người đàn bà trở
dạ, khó sanh và đang vô cùng đau đớn. Không biết làm sao được,
Angulimala trở về hỏi Đức Phật. Đức Phật bày cho Angulimala
đem lời sau đây nói với người đàn bà:
-
"Này bà chị, từ khi tôi sanh trở lại trong hàng Thánh chúng,
tôi không có giết hại bất cứ một loại hữu tinh nào. Cầu mong
lời nói thật này giúp cho bà chị được khỏi đau đớn, con của bà
chị được sanh nở an toàn".
-
Angulimala học thuộc lời Đức Phật, và đến nói với người đàn bà
đau đớn, khó sanh. Lập tức, người đàn bà hết đau, và hạ sanh
đứa con dễ dàng. Lời nầy của Đức Phật được gọi là Angulimala
Paritta. Ngày nay, ở các xứ Phật giáo Nam phương, người ta vẫn
có tập tục đọc lời Angulimala Paritta để làm dịu cơn đau đẻ
của phụ nữ. Sau này, Angulimala chứng quả A la hán.
-
30. Đức Phật Và Kỹ Nữ Ambapali
-
Ambapali là người kỹ nữ nổi danh tài sắc của thành phố Vesali.
Trên đường đi Kusinara, để nhập Niết bàn, Đức Phật dừng lại
Vesali, và nghỉ ở vườn xoài của Ambapali. Được tin, Ambapali
đến chào Đức Phật, và trân trọng mời Đức Phật và chúng Tăng
đến dùng tiệc trai ngày mai tại nhà bà. Đức Phật nhận lời, và
từ chối lời mời của hàng quý tộc Liechavi. Họ hứa trả bà
Ambapali một số tiền rất lớn, để bà nhường lại cho quý tộc
Liechavi đặc ân được thiết cơm Phật và chúng Tăng nhưng bà từ
chối và hôm sau, y lời hẹn, Đức Phật và chúng Tăng đến với nhà
bà Ambapali dùng tiệc trai. Sau bữa tiệc, Ambapali kính tặng
Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá.
Sau này, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
-
Hai sự kiện Angulimala và Ambapali cho thấy, cửa Đạo Từ Bi mở
rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang, nghèo
hèn và đẳng cấp xã hội. Một tướng cướp như Angulimala, một dâm
nữ như Ambapali, nếu thành tâm hối lỗi, cũng có thể xuất gia,
tinh tấn tu học và chứng Thánh quả cao nhất. Một lòng tin
thuần thành, và một nỗ lực lớn nhất: đó là điều kiện cơ bản để
đi vào đạo Thánh và trở thành bậc Thánh trên thế giới này. Đạo
Phật không đòi hỏi một điều kiện nào khác.
-
31. Đức Phật Tuyên Bố Sẽ Nhập Niết Bàn
-
Đức Phật năm nay tròn 80 tuổi. Ngài nhận định sự nghiệp thuyết
pháp, giáo hóa độ sanh của Ngài đã hoàn thành. Thời điểm đã
đến để Ngài nhập Niết bàn. Trên đường đi Kusinara, khi Đức
Phật dừng chân tại Vaisali, ở Tinh Xá Capala, Ngài đã tuyên bố
với tôn giả Ananda là ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết bàn.
Ngài không chấp nhận lời yêu cầu của Ananda, xin Ngài sống
thêm một kiếp nữa, vì hạnh phúc, vì an lạc của chúng sanh. Đức
Phật giảng cho ông Ananda về tính vô thường của mọi sự vật
trên thế gian này, và bảo ông Ananda tập hợp chúng Tỳ kheo ở
Vaisali lại ở Tinh Xá Mahavana, để nghe Phật thuyết pháp.
-
Rồi Đức Phật nói với chúng Tỳ kheo những lời lẽ như sau: "Này
các Tỳ kheo! Mọi pháp đều vô thường. Hãy siêng năng phấn đấu.
Như Lai sắp nhập Niết bàn. Từ nay trong vòng 3 tháng nữa, Như
Lai sẽ nhập Niết bàn. Tuổi Ta đã già, cuộc sống con người ngắn
ngủi. Ta sẽ vĩnh biệt các người. Hãy tinh tấn, chánh niệm tỉnh
giác và sống đạo đức. Người nào sống không phóng dật trong
giới luật, người đó sẽ được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi
và chấm dứt mọi đau khổ".
-
Và một lần cuối cùng, nhìn thành phố Vaisali, Đức Phật nói
chúng Tỳ kheo:
-
"Giới, định, và tuệ, giải thoát tối hậu. Đó là những điều Như
Lai thực hiện".
-
32. Buổi Ăn Cuối Cùng Của Đức Phật
-
Từ Vaisali, Đức Phật cùng với tôn giả Ananda và chúng Tỳ kheo
lên đường đi Kusinara. Dọc đường, Đức Phật cùng chúng Tăng
dừng lại ở nhiều nơi, tiếp xúc với dân chúng, thuyết pháp độ
sanh.
-
Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) thết tiệc trai Đức Phật
và chúng Tăng. Cunda chuẩn bị riêng cho Đức Phật một món ăn
đặc biệt, gọi là sùkaramaddava. Đức Phật khuyên Cunda dành
riêng dĩa thức ăn đó cho Đức Phật, và phần còn lại của dĩa
phải đem chôn đi. Và nói: "Chỉ có Như Lai mới ăn và tiêu hóa
được thức ăn này mà thôi".
-
Ăn xong, Đức Phật bị kiết lỵ nặng. Ngài tuy mệt nhưng vẫn giữ
tinh thần bình thản và quyết định lại lên đường đi Kusinara,
cách Pava khoảng 6 dặm. Đức Phật tắm lần cuối cùng ở sông
Kakutthi, và sau khi nghỉ một lát, Ngài nói với Đại đức
Ananda: "Có thể có người trách Cunda về bữa cơm cuối cùng dọn
cho Ta, vì sau bữa ăn đó Ta sẽ nhập Niết bàn, và Cunda có thể
ăn năn hối hận. Nhà ngươi cần nói cho Cunda biết rằng, có hai
bữa ăn cúng dường cho Như Lai, đem lại công đức lớn nhất cho
người cúng dường. Đó là bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ
Như Lai thành đạo và bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như
Lai nhập Niết bàn. Hãy nói cho Cunda biết rằng, nhờ đã cúng
dường Như Lai bữa ăn cuối cùng trước khi Như Lai nhập Niết
bàn, Cunda được phúc đức lớn, quả báo lớn, nhờ đó mà Cunda
được thọ mạng lâu dài, tái sanh ở cõi lành, giàu có, tiếng
tăm, được sanh lên cõi trời và có quyền lực lớn. Này Ananda,
ngươi hãy nói như vậy để loại bỏ mọi nỗi ân hận của Cunda, nếu
có".
-
Nói xong, Đức Phật đến vườn cây Sala ở Kusinara, nơi có bộ tộc
Mallas ở, và bảo Đại đức Ananda chuẩn bị chỗ nằm, để Đức Phật
yên nghỉ, đầu hướng Bắc, nằm nghiêng mình, chân phải để trên
chân trái, bình thản, tỉnh táo.
-
33. Cách Tốt Đẹp Nhất Để Tôn Trọng, Đảnh Lễ, Tán Thán, Quý Mến
Như Lai
-
Thấy các cây Sala trổ hoa trái mùa, và các biểu hiện khác của
niềm tin tưởng, quý mến, tôn trọng Như Lai, Đức Phật bèn nói
với các Tỳ kheo có mặt như sau:
-
- "Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến
Như Lai theo kiểu như vậy. Nhưng bất cứ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni
nào, Ưu bà tắc hay Ưu bà di nào mà sống đúng với Chánh pháp,
tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính
người đó tôn trọng, đảnh lễ, tán thán và quý mến Như Lai một
cách tốt đẹp nhất. Do đó, này Ananda, các người phải tu tập
như vậy. Mọi người hãy sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng
xử hợp với đạo, có hành động chân chánh".
-
34. Bốn Địa Điểm Chiêm Bái
-
Rồi Đức Phật nói tới bốn địa điểm có liên hệ tới Đức Phật, mà
Phật tử có thể đến chiêm bái. Đó là:
-
- Nơi Đức Phật giáng sinh, ở vườn Lumbini (Lâm tỳ ni) tại vùng
biên giới Ấn Độ - Nepan.
-
- Nơi Đức Phật thành đạo ở Bodhi Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng).
-
- Nơi Đức Phật bắt đầu chuyển thành bánh xe Pháp (Sarnàth) tức
là Vườn Nai gần Benarès.
-
- Nơi Đức Phật nhập Niết bàn ở Kusinàra (nay là Kasia, cách 32
dặm nhà ga Gorakbpur).
-
Đức Phật dạy rằng: "Những người nào qua đời trong quá trình đi
chiêm bái, với lòng có đức tin, thì sẽ được sanh lên các cõi
trời".
-
35. Đức Phật Hóa Độ Cho Người Cuối Cùng: Du Sĩ Subhadda
-
Bấy giờ có du sĩ Subhadda, đang sống ở Kusinara, biết tin Đức
Phật sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối cùng của đêm nay ở
Kusinara. Du sĩ có suy nghĩ như sau: "Các đạo sư lớn tuổi, các
du sĩ thường nói với ta rằng sự kiện Như Lai, bậc toàn giác
xuất hiện ở đời là hiếm có, rất hiếm có. Vào canh cuối
cùng đêm nay, Đức Phật Thích Ca, bậc Toàn giác sẽ nhập diệt. Ở
đây ta có lòng tin Đức Phật, có thể là Ngài sẽ thuyết pháp cho
ta để ta được giác ngộ".
-
Rồi du sĩ Subhadda đi đến rừng cây Sala, và xin Đại đức Ananda
cho được gặp Đức Phật. Nhưng ông Ananda nói là Đức Phật đang
mệt, không thể tiếp được. Subhadda ba lần thỉnh cầu, Đại đức
Ananda đều không chấp nhận. Nhưng Đức Phật nghe câu chuyện
giữa Đại đức Ananda và du sĩ Subhadda, bèn nói với Đại đức
Ananda rằng: "Hãy để cho Subhadda vào. Ông ta đến đây để mong
được nghe pháp, được giác ngộ, chứ không phải để làm phiền Ta,
và những lời Ta nói, Subhadda sẽ có thể hiểu được".
-
Đức Phật nói cho Subhadda nghe về con đường đạo tám nhánh, và
chỉ có những người tu học theo pháp và luật của Như Lai, mới
thực hành con đường đạo tám nhánh và mới có thể trở thành đệ
nhất Sa môn, đệ nhị Sa môn, đệ tam Sa môn, đệ tứ Sa môn.
Subhadda vô cùng hoan hỷ và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng. Đồng thời xin được xuất gia làm Tăng, ngay bây giờ trước
mặt Đức Phật. Tuy rằng theo luật, đáng lý, Subhadda vốn là du
sĩ ngoại đạo, phải trải qua 4 tháng thử thách và sau đó, nếu
Tăng chúng chấp nhận, mới được thọ giới Tỳ kheo. Nhưng vì
trường hợp rất đặc biệt, Đức Phật đặc cách cho Subhadda miễn
trải qua 4 tháng thử thách và bảo Tôn giả Ananda truyền thụ
giới Tỳ kheo cho Subhadda. Subhadda sau một thời gian tu học
tinh tấn, trở thành một A la hán. Ông là người được Phật hóa
độ cuối cùng.
-
36. Những Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật
-
Đức Phật thấy Đại đức Ananda buồn khóc, bèn thân mật an ủi,
tán thán đức hạnh của Đại đức Ananda như là một thị giả, một
đệ tử kiểu mẫu, và khích lệ Đại đức phấn đấu tinh tấn để sớm
được giải thoát, trở thành A la hán. Sau đó, Đức Phật nói với
Đại đức Ananda đi báo cho dân chúng Mallas biết là Như Lai sắp
nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay tại rừng cây Sala.
-
Được tin đông đảo dân chúng Mallas, đàn ông, đàn bà, người
già, thanh niên, trẻ con tấp nập kéo đến rừng cây Sala bày tỏ
lòng tôn kính, thương tiếc và vĩnh biệt Đức Phật lần cuối
cùng. Sau đây là những lời dặn của Đức Phật với chúng đệ tử,
trước khi ngài nhập Niết bàn.
-
- "Này Ananda, có thể các ngươi nghĩ rằng: Chỉ còn lại giáo
phái cao cả mà không còn bậc Đạo sư, chúng ta không còn có bậc
Đạo sư nữa. Không! Ananda, các ngươi không được nghĩ như vậy,
Pháp và Luật mà ta đã dạy, tuyên bố sẽ là đạo sư của các
ngươi, sau khi Ta nhập Niết bàn."
-
"Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới luật phụ
và nhỏ, sau khi Ta nhập Niết bàn".
-
"Này các đệ tử của Ta, nếu các ngươi còn có nghi ngờ gì về
Phật, Pháp, Tăng hay về con đường đạo, về phương pháp thì hãy
hỏi Ta, đừng để sau này hối tiếc, nghĩ rằng, đối diện với Như
Lai mà không hỏi được Như Lai câu nào!"
-
Đức Phật nói xong, chúng đệ tử đều im lặng, Đức Phật hỏi tới
ba lần, chúng đệ tử đều im lặng.
-
Đức Phật nói: "Có thể vì các ngươi tôn trọng bậc đạo sư mà
không đặt câu hỏi chăng? Thì hãy để một người nói thay vậy".
Một lần nữa, chúng đệ tử vẫn im lặng.
-
Đại đức Ananda bạch Phật rằng: "Tuyệt vời thay! Hy hữu thay!
Thưa đức Thế Tôn. Trong hàng đệ tử chúng con ở đây, không có
một người nào nghi ngờ và thắc mắc gì đối với Phật, Pháp,
Tăng, con đường đạo và phương pháp".
-
Đức Phật nói: "Này Ananda, nhà ngươi nói vì niềm tin đối với
Như Lai, Như Lai biết rõ là, trong chúng đệ tử có mặt tại đây,
không có người nào còn nghi ngờ thắc mắc đối với Pháp, Tăng,
con đường đạo và phương pháp. Trong số năm trăm đệ tử này, này
Ananda, người kém nhất cũng đã chứng quả Dự Lưu, không còn
thoái chuyển nữa, cuối cùng chắc chắn sẽ được giác ngộ".
-
Câu nói cuối cùng của Đức Phật là: "Hỡi các đệ tử, Ta khích lệ
các người, mọi pháp hữu vi đều biến hoại. Hãy tích cực phấn
đấu!". Thế rồi đức Thế Tôn im lặng. Ngài lặng lẽ nhập định,
tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao, rồi cuối cùng
chủ động nhập Niết bàn.
-
37. Lễ Trà Tỳ Và Sự Phân Chia Xá Lợi Của Phật
-
Thi hài Đức Phật được dân chúng Mallas trân trọng đưa tới
Makutabandhana, và để ở đó bảy ngày trước khi tổ chức lễ trà
tỳ chính thức (hỏa táng). Tôn giả Maha Kassapa cũng về đây để
đảnh lễ vĩnh biệt Đức Phật lần cuối cùng và chủ trì lễ hỏa
táng. Sau lễ trà tỳ, dân chúng Mallas thu thập xá lợi để cúng
dường. Các nước lân cận và nhất là vua Ajatasattu cũng đòi một
phần Xá lợi. Vì ban đầu dân chúng Mallas không chịu, cho nên
có nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh xung quanh việc phân
chia xá lợi. Nhưng cuối cùng, các bên cũng thỏa thuận được với
nhau là xá lợi Phật chia làm tám phần, phân phối cho dân chúng
Mallas, vua Ajatasattu xứ Magadha, bộ tộc Liechavi ở Vaisali,
bộ tộc Sakya ở Kapitavastu, bộ tộc Bulaka ở Calakalna, bộ tộc
Krandya ở Ramagrama, những người Bà la môn ở Visudvipa, những
người Mallas ở Pava.
-
Bà la môn Dona, người tổ chức thành công việc phân chia Xá
lợi, dành lấy cho mình cái bình đựng Xá Lợi. Những người
Maurya ở Pipphalirana, vì đến chậm, chỉ nhận được tro còn lại
của giàn hỏa. Các bên được phân chia Xá Lợi, đều xây tháp ở
quốc gia mình để cúng dường. Như vậy, có tất cả 10 tháp: tám
tháp đựng Xá Lợi của Phật, một tháp xây trên bình chứa Xá Lợi,
và một tháp thờ tro của giàn hỏa.
-
Kết Luận
-
Trên đây là sơ lược tiểu sử Phật Thích Ca, căn cứ vào các
nguồn tư liệu chính thống của kinh sách Đạo Phật. Trong tiểu
sử đó, phần nào là sự thật lịch sử, phần nào là huyền thoại và
thần thoại, do các thế hệ đệ tử và tín đồ sùng kính Phật thêm
vào về sau này, đó là điều chúng ta không thể xác định được.
Thế nhưng, dựa vào các tài liệu rải rác và được hệ thống hóa
lại, chúng ta có thể có mấy nhận định sau đây về nhân vật
Thích Ca, khác với các giáo chủ các tôn giáo khác như thế nào.
-
1. Phật không phải là Thượng đế tạo thế và cứu thế. Phật, theo
đúng nghĩa của từ Phật, là bậc giác ngộ, và ai giác ngộ được
như Phật đều gọi là Phật. Vì vậy, theo Phật giáo thì đã có
nhiều Phật trước Phật Thích Ca và sau Phật Thích Ca, cũng sẽ
có nhiều Phật ra đời nữa. Đạo Phật thủy chung bác bỏ quan niệm
siêu hình về một cái nhân ban đầu, từ con số không mà sinh ra
được thế giới, vạn vật, v.v. Chủ thuyết của Đạo Phật là mọi sự
đều do nhiều nhân, nhiều duyên sinh ra, gọi là thuyết nhân
duyên sinh. Phật cũng không phải là một đấng cứu thế, vì Phật
"Chỉ dạy về con đường và nếu các người đi theo con đường này,
mọi đau khổ sẽ đoạn tận". (Pháp Cú, kệ 275).
-
Phật luôn luôn nhắc nhở đệ tử là tự mình làm cho mình trở nên
trong sạch. Và cũng tự mình làm cho mình dơ bẩn. Chứ không ai
làm cho ai được trong sạch hay dơ bẩn cả.
-
- "Tự mình điều ác làm,
-
Tự mình làm nhiễm ô.
-
Tự mình ác không làm
-
Tự mình làm thanh tịnh
-
Tịnh không tịnh tự mình
-
Không ai thanh tịnh ai". (Pháp Cú, kệ 165).
-
Chính vì những lý lẽ trên mà nhiều đạo giáo khác cho rằng đạo
Phật là vô thần, theo nghĩa đạo Phật không công nhận có Thượng
đế tạo thế và cứu thế. Nhưng ít có tôn giáo nào đề cao con
người và tình thương con người như đạo Phật.
-
Thậm chí, có người nói đạo Phật không phải là tôn giáo, bởi vì
đã là tôn giáo thì phải công nhận thế giới do Thượng đế sáng
tạo và người phải có linh hồn. Nhưng đạo Phật đồng thời bác bỏ
cả thuyết Thượng đế và thuyết linh hồn.
-
Nhưng đạo Phật vẫn là một tôn giáo, ở chỗ, thứ nhất, nó có một
Giáo chủ, một đức Bổn sử là Phật Thích Ca, mặc dù đã nhập diệt
cách đây hơn 2500 năm, nhưng vẫn là đối tượng quy ngưỡng của
hàng triệu triệu tín đồ Phật tử hiện nay trên khắp thế giới.
Thứ hai, nó có một hệ thống giáo lý được ghi lại trong ba tạng
kinh điển có nguyên tắc bằng hai cổ ngữ chính là Pali và
Sanskrit, và hiện nay đã được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ
chính trên thế giới. Thứ ba, nó có một giáo đoàn tăng sĩ, chấp
nhận và thực hành mọi quy tắc được Phật chế định ngay lúc khi
Ngài còn tại thế, và được ghi lại trong giới bổn Patimokkha.
-
2. Phật luôn luôn khuyến cáo đệ tử là phải tin ở sức mình, ở
khả năng của mình thành tựu đích giác ngộ và giải thoát tối
hậu. Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, Phật nói
với tôn giả Ananda, người đệ tử thân cận của mình như sau:
"Hãy dựa vào bản thân mình, như là ngọn đèn sáng cho chính
mình. Hãy dựa vào sức của bản thân mình là chính. Hãy dựa vững
vàng vào Chánh Pháp. Đừng có tìm một chỗ dựa nào khác ngoài
bản thân mình".
-
Có thể nói, đặc sắc của Phật Thích Ca như là một giáo chủ, là
không áp đặt một quyền lực nào hết lên trên con người. Phật
không bao giờ cường điệu tính yếu hèn, tính tội lỗi nơi con
người, trái lại, Phật luôn luôn nhấn mạnh con người có đầy đủ
bản chất hướng thiện, đồng thời có đầy đủ khả năng tự hoàn
thiện mình. Tự mình cố gắng và phấn đấu, thì mình sẽ được giác
ngộ và giải thoát. Đó là lời khuyên thường được nhắc đi, nhắc
lại của Phật Thích Ca.
-
3. Phật Thích Ca không phải là một nhà cách mạng và hoạt động
xã hội theo ý nghĩa hiện đại của từ đó, nhưng quan điểm xã hội
của Phật rất rõ ràng. Phật không tán thành chế độ đẳng cấp xã
hội ở Ấn Độ. Giáo hội Tăng già do Phật sáng lập không phân
biệt đẳng cấp xã hội. Phật nói: "Hỡi các Tỳ kheo, cũng như các
con sông lớn, sông Hằng Hà, sông Yamuna, sông Aciravati, sông
Sarabhu, sông Mahi, khi chúng đổ vào biển thì chúng mất tên
gọi trước đây của chúng, và được gọi cùng một tên là biển cả
mà thôi, cũng như vậy, bốn đẳng cấp Sát đế lợi, Bà la môn, Vệ
xá, và Thủ đà la, một khi họ đã đến với Pháp và Luật do Như
Lai giảng thuyết, từ cuộc sống gia đình đến cuộc sống không
nhà thì họ cũng đều mất tên gọi trước đây của họ, bộ lạc cũ
của họ, và được gọi cùng một tên là tu sĩ".
-
Trong hàng ngũ đệ tử của Phật khi Phật còn tại thế, xuất gia
cũng như tại gia, đều có đủ các hạng người thuộc đủ mọi đẳng
cấp, từ các vua chúa lớn nhất của các vương quốc hùng mạnh tại
Ấn Độ thời bấy giờ như vua Bimbisara, vua Ajatassattu, vua
Pasenadi v.v.. cho đến các giáo sĩ Bà La Môn nổi danh là thông
minh, cao đạo như anh em Kassapa, hai ông Sariputta và
Moggalana cho đến anh thợ cạo thuộc bộ tộc Sakya là Upali,
ngưòi dâm nữ nổi danh tài sắc thành Vaisali là Ambapali, tên
cướp khét tiếng tàn ác là Angulimala ở Kosala.
-
Tất cả mọi người, không kể trí, ngu, sang, hèn, nếu thành tâm
cầu đạo, ăn năn lỗi trước, đều có thể tu đạo, và chứng đạo,
trở thành bậc Thánh giữa chúng sanh, chứng ngay Niết Bàn trên
cõi thế. Phật luôn luôn nhấn mạnh tính bình đẳng giữa người và
người với nhau. Phật nói về những người thuộc đẳng cấp Bà La
Môn, vốn thường tự xem mình là tầng lớp xã hội thượng đẳng:
"Là Bà La Môn hay là tiện dân không phải là do sinh đẻ mà là
do hành động của bản thân mình. Người Bà La Môn hay là tiện
dân không phải là do sinh đẻ mà là do hành động của bản thân
mình. Người Bà La Môn không phải sinh ra từ lửa, nhờ có hai
thanh gỗ ma xát nhau, cũng không phải từ trên trời rơi xuống
hay là từ gió bay ra, cũng không phải từ dưới đất chui lên.
Những người Bà La Môn cũng sinh ra từ bụng mẹ hoàn toàn giống
nhau như người Thủ Đà la vậy. Mọi người đều có quan năng trong
cơ thể tương tự nhau, không có gì khác nhau cả. Sao lại có thể
có những người tự cho mình thuộc loại hay giống như người đặc
biệt?".
-
Phật không có thành kiến về giới tính, tuy rằng Phật cho rằng
bản chất người phụ nữ là yếu đuối, và Phật đã tỏ ra dè dặt khi
cho thiết lập đoàn thể nữ tu sĩ đầu tiên. Nhưng sau khi xuất
gia, nhiều nữ tu sĩ đã trở thành nổi danh về đạo đức cao khiết
và học lực uyên thâm. Cũng như hai ông Sariputta và Moggalana
là Thượng thủ của Tăng chúng thời Phật, hai bà Khema và Gotami
cũng được tôn là Thượng thủ của Ni chúng. Hai bà cũng đều
chứng quả A la hán.
-
Giáo hội Tăng già do Phật Thích Ca sáng lập ra là một đoàn thể
thật sự dân chủ. Giáo hội đó không biết đến giáo quyền. Giáo
hội đó dựa trên tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, gọi
là lục hòa (sáu điều hòa hợp).
-
4. Phật Thích Ca là một giáo chủ rất rộng lượng và khiêm tốn,
Phật thường ví Phật Pháp như cái bè qua sông, như ngón tay chỉ
mặt trăng hay là con đường dẫn tới Chân lý, chứ bản thân Phật
pháp không phải là chân lý tối hậu. Đã là cái bè qua sông thì
có thể có nhiều thuyền, nhiều bè khác nhau cùng qua sông; đã
là ngón tay chỉ mặt trăng thì có thể có nhiều ngón tay cùng
một lúc chỉ mặt trăng; đã là con đường dẫn tới chân lý thì có
thể có nhiều con đường khác nhau dẫn tới đích là Chân lý tối
hậu.
-
Hai nữa, giác ngộ và giải thoát là một thực nghiệm cá nhân,
nghĩa là không ai có thể giác ngộ hay giải thoát thay cho ai
được cả. Có những điều mình làm được nhưng người khác không
làm được, mình làm dễ nhưng người khác làm khó, trong hoàn
cảnh này làm được, nhưng trong hoàn cảnh khác lại không. Một
tôn giáo tầm cỡ thế giới như đạo Phật không thể cứng nhắc hay
hẹp hòi được. Đấy là một lý do vì sao trong đạo Phật, có lắm
tôn nhiều phái, và giữa các phái với nhau, trong quá khứ cũng
như hiện nay, tuyệt đối không bao giờ có sự lấn áp trên thế
mạnh dù rằng có nhiều lúc Phật giáo có ưu thế hơn, được chính
quyền trọng đãi như quốc giáo (như trong hai triều đại Lý,
Trần ở Việt Nam).
-
Những Tăng Ni Phật giáo, nếu sống đúng theo giới luật nhà
Phật, là những người vô sản hoàn toán. Họ không có quyền lực,
cũng không có tiền bạc. Họ chỉ có hai điều: lòng Từ bi và Trí
tuệ. Nhưng với hai vũ khí đó, đạo Phật trong một thời, đã từng
chinh phục trái tim và khối óc của đại bộ phận nhân dân thế
giới cổ đại và phong kiến [*], và hiện nay nó vẫn là một tôn
giáo thế giới với hàng trăm triệu tín đồ.
-
[*] Toàn bộ thời kỳ từ nửa thế kỷ IV đến cuối thế kỷ VIII sau
Công nguyên có thể được gọi là kỷ nguyên Phật giáo của lịch sử
Trung Hoa. Trên thực tế, có thể gọi đó là kỷ nguyên Phật giáo
cuả lịch sử châu Á. Và có thể nói, của cả thế giới, bởi lẽ vào
thời kỳ đó, khoảng hơn một nửa dân số thế giới là tín đồ đạo
Phật. Đạo Phật trải rộng trên toàn khắp châu Á, trừ hai vùng
Siberi và Cận Đông, tạo thành cho cả châu lục này một sự thống
nhất về văn hóa chưa từng có. (East Asia-The Great Tradition,
- Đông Á - Truyền thống vĩ đại, tr. 147-148, Edwin O
Reischauer and John K. Faichanks, Harvard University)
-
Trên đây là 4 đặc điểm về nhân cách của Phật Thích Ca, như là
một giáo chủ. Các Tăng sĩ, tu sĩ Phật giáo của bất cứ một nước
nào, trước đây cũng như hiện nay đều phải lấy đó làm gương.
Không thể tưởng tượong được một Tăng sĩ Phật giáo, dù cao
niên, dù bác học đến đâu mà có thái độ và giọng nói giáo
quyền, sống không giản dị, không thiểu dục, trí túc, lại kích
động, chống đối và bạo loạn, vì những mục đích danh lợi cá
nhân, bày trò dị đoan để lôi kéo quần chúng, trong khi Phật
Thích Ca tuyệt đối ngăn cấm không được làm như vậy, cho rằng
đó là một việc làm xấu hổ, không nên làm.
-
Tăng sĩ phải là gương sáng của đạo đức và trí tuệ, là người
thầy dạy giáo pháp và đạo đức và giới luật. Nhà chùa phải là
trung tâm của trí tuệ và đạo đức, chứ không phải là nơi chỉ có
cúng kiến và lễ bái. Kinh sách Phật phải được giảng diễn cho
người đời hiểu và làm theo, chứ không phải để riêng cho giới
tu sĩ đọc tụng. Đó là hướng tiến tới của đạo Phật chân chính
sẽ còn tồn tại lâu dài trong lòng người Việt
Nam,
trong cuộc sống của người Việt Nam, trên đất nước Việt
Nam
chúng ta.
-
Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
-
Tỳ Kheo Thích Minh Châu
-
|