-
GIỚI THIỆU "NIÊN ĐẠI ĐỨC PHẬT LỊCH SƯ"
-
VẤN ĐỀ ĐANG CÒN GÂY TRANH LUẬN
-
Nguyên tác của HEINZ BECHERT
-
Thích Giác Hoàng dịch
-
---o0o---
-
-
-
I. NIÊN ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT – MỘT VẤN ĐỀ CHƯA GIẢI
QUYẾT?
-
Chưa có tài liệu nào về niên đại của Đức Phật lịch sử, vị sáng
lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái
chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
Các học giả cũng chưa đạt đến một kết luận thống nhất nào về
vấn đề này. Hầu hết các nguồn sử liệu Phật giáo và các học giả
đều nhất trí cho rằng Đức Phật đã nhập diệt lúc tám mươi tuổi.
Nếu tính theo lịch Thiên Chúa giáo, ngày Niết-bàn của Đức Phật
theo truyền thống khoảng 2420 - 290 TTL. Điều này không những
làm cho các học giả lúng túng rất nhiều mà còn làm cho các
Phật tử ngày nay ngộ nhận khi họ bắt đầu vào con đường nghiên
cứu Phật học. Vì vậy, vấn đề biên niên sử đã được bàn thảo rôﮧ
rãi trong các phong trào Phật giáo quốc tế, và như chúng ta sẽ
thấy dưới đây, đã có nhiều nỗ lực để đi đến thống nhất chung
về Phật lịch, nhưng kết quả đạt được thật là giới hạn.
-
Vấn đề niên đại của Đức Phật và những nhân vật đương thời với
Ngài không kém phần quan trọng đối với các sử gia. Thật sự nó
vẫn là vấn đề thiết yếu cho nghành sử học Ấn Độ và thế giới.
Do đó, nhiều người đã có nhiều cố gắng để đi đến một niên đại
thống nhất, tuy nhiên đại đa số các học giả Nam Á và phương
Tây theo một khuynh hướng, còn các học giả Nhật Bản lại đi
theo một kuynh hướng khác. Theo quyển "Lịch Sử Ấn Độ của
Đại Học Cambridge" (Cambridge History of India),
biên niên sử được phần lớn các học giả phương Tây và Nam Á sử
dụng trong giai đoạn giữa thế kỷ 19 cho đến thời gian gần đây,
giả định rằng: "Đức Phật qua đời vài năm trước hoặc sau năm
480 TTL."[1] Cách tính này được xem như là cơ sở của biên niên
sử Ấn thời kỳ đầu và nó cũng được xem như là tài liệu đáng tin
cậy nhất trong lịch sử Ấn Độ. Vì thế, trong quyển Biên Niên
Sử Ấn Độ (Chronology of India) của D. Mabel Duff
(1899), viết: "Thái tử Siddhaartha, sau trở thành Đức Phật
Gautama, sinh ở Kapilavastu khoảng năm 557 TTL" được xem như
ngày lịch sử đầu tiên trong bảng niên đại, ngay sau năm 3102
TTL- năm đầu tiên của kỷ nguyên Kaliyuga và năm 3076 TTL- năm
đầu của kỷ nguyên Laukika.[2] Ngày đản sinh của Đức Phật được
tính ngược lại từ năm 477 TTL, và đây là năm Đức Phật Niết-bàn
theo quan điểm của Max M쬬er.
-
Các cách tính này, đặc biệt dựa vào truyền thống biên niên của
Đảo Sử (Diipava'msa) và Đại Sử (Mahaava'msa) trong văn học
Paali do các tác giả Tích Lan trước tác khoảng TK IV đến đầu
TK VI TL cũng như dựa vào tác phẩm Samantapaasaadikaa
của Phật Âm (Buddhaghosa). Tuy nhiên, niên đại được tính dựa
theo những tác phẩm đã được các Phật tử Tích Lan cũng như các
Phật tử theo truyền thống Theravaada ở Nam Á chấp nhận thì
ngày Đức Phật Niết-bàn không phải năm 477 / 480 mà là năm 544
/ 543 TTL. Đó là điểm khởi đầu của Phật lịch (Buddhasaasana
Era) đã được các cộng đồng Phật giáo Theravaada ở Nam và Đông
Nam Á sử dụng.[3] Niên đại 544 hay 543 TTL có thể gọi là biên
niên sử gốc, hoặc là "Biên niên sử dài không-bị-hiệu-chỉnh" (Uncorrected
Long Chronology), hoặc là "Biên Niên Sử Phật Giáo Nam
phương" (Southern Buddhist Chronology), trong khi đó
biên niên sử các học giả phương Tây sử dụng được xem như "Biên
Niên Sử Dài Đã Hiệu Chỉnh"(Corrected Long Chronology).
-
Trong giai đoạn nghiên cứu đầu tiên của người Châu Âu về Phật
giáo, khoảng tiền bán TK XIX đã có khuynh hướng theo "Biên
niên sử Nam truyền" hay "Biên niên sử Nam phương Phật giáo"
không bị hiệu chỉnh này.[4] Chính đây là biên niên sử cuối
cùng, về niên đại Đức Phật và dường như nó là quan điểm dễ
chấp nhận nhất. Tuy nhiên, như đã đề cập trong phần giới thiệu
của ấn bản và bản dịch của Mahaava'msa xuất bản năm
1837 vô cùng có giá trị thời bấy giờ, George Turnour đã lưu ý
đến mức độ không chính xác khoảng 60 năm giữa niên đại vua
Candragupta thuộc triều đại Maurya như đã được truyền thống
này đề cập, và niên đại này được thành lập nhờ vào sự xác định
niên đại đồng thời của vua Candragupta và các nhà văn Hy Lạp
Sandrakotto, và việc xác định này được ông William Jones phát
hiện năm 1793. Ông Turnour đã kết luận rằng niên đại của các
Hoàng Đế Candragupta và A'soka được tính quá sớm trong biên
niên sử, nhưng ông lại chấp nhận dữ liệu trong Mahaava'msa
cho khoảng cách giữa Đức Phật Niết-bàn và lên ngôi của
vua Candragupta là 168 năm và lên ngôi của vua A'soka là 218
năm.[5] Dựa trên căn bản này, Turnour đã kiến lập một loại
biên niên sử mới mà sau này mệnh danh là biên niên sử dài
"đã hiệu chỉnh." Điều này càng được khẳng định hơn nữa nhờ
sự giải mã về các bia ký của A'soka và sự xác định niên đại
của các vua Hy Lạp đương thời đã được đề cập trên các bia ký
đó.[6]
-
Như người viết đã từng đề cập, "biên niên sử dài đã hiệu
chỉnh" dù có sự biến thiên nhỏ giữa các năm 486 – 477 TTL được
ấn định là năm đức Phật niết-bàn, được xem như là nền
tảng của các biên niên sử Ấn Độ. Hầu hết các niên đại đã được
đề cập trong các tác phẩm văn học Ấn Độ thời kỳ đầu đều dựa
vào niên đại này và được rộng rãi quần chúng tin cậy như là
ngày đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ. Như vậy, niên đại được ghi
trong văn học Braahma.na khoảng 1000 năm TTL, những bản
kinh (Suutra) và Áo Nghĩa Thư (Upanishad) thời kỳ đầu, khoảng
800 – 500 TTL, v.v… đã được các nhà nghiên cứu thời Max M쬬er
lặp đi lặp lại nhiều lần, đều dựa trên tài liệu biên niên sử
này.
-
Tuy nhiên, cũng còn một vài trường hợp ngoại lệ mà chúng ta
gặp phải trong "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh." Nhiều sách
hiện nay về lịch sử Ấn Độ, lịch sử thế giới, lịch sử tôn giáo,
v.v… trên thực tế lại được xuất bản ở các nước phương Tây hoặc
ở Nam Á suốt 100 năm qua. Nhìn chung, nó được nhìn nhận như
một sự kiện đã định hình. Trong số các luận chứng cổ điển, bản
văn giới thiệu cho dịch phẩm Mahaava'msa (1912) của Wilhelm
Geoger là một trong những bản văn có ảnh hưởng lớn nhất để ủng
hộ giả thuyết này.[7]
-
Năm 1953, André Bareau đã xuất bản một bài khảo cứu có tính
nghiên cứu cao được đăng tải trong tạp chí Journal
Asiatique [8] để ủng hộ biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Từ
đó niên đại khoảng 480 TTL như là niên đại Đức Phật Niết-bàn
được tin là đã được thành lập "tương đối chắc chắn." Đây là
điểm được A. K. Warder trình bày vào năm 1970;[9] và nó có thể
được công nhận một cách đương nhiên như là nền tảng của tất cả
biên niên sử Ấn Độ thời kỳ đầu. Một số lý luận của những người
ủng hộ biên niên sử dài vẫn tiếp tục được xem như có sức
thuyết phục trong các bài viết có tính nghiên cứu cao gần đây
về đề tài này, ví dụ như Lịch Sử Đức Phật của H. W.
Schumann vào năm 1982.[10]
-
Tuy nhiên, có một số học giả hiện nay biện hộ cho biên niên sử
dài không bị hiệu chỉnh, nghĩa là theo Thượng Tọa Bộ, năm Đức
Phật Niết-bàn là năm 544 TTL. Một trong những người đáng chú ý
nhất là Vinsent A. Smith, tác giả cuốn Ấn Bản Oxford về
Lịch Sử Ấn Độ[11] và Lịch Sử Ấn Độ Thời Kỳ Đầu.[12]
-
Người viết xin trích dẫn một dẫn chứng dưới đây[13]:
-
"Tôi không tin rằng niên đại của Đức Phật có thể được xác định
như là "chắc chắn" và trái với các ý kiến đã được ủng hộ cho
rằng năm Đức Phật Niết-bàn là 487 hoặc 486 TTL. Ngày nay chúng
ta có thêm một dữ liệu mới nhờ bia ký Khaaravela, nếu nó đúng,
buộc chúng ta phải đi ngược lại niên đại của Ư ai'sunaaga hơn
50 năm, và vậy nó sẽ ủng hộ niên đại Đức Phật Niết-bàn theo
truyền thống Tích Lan năm 544 hay 543 TTL. Điều này có thể lập
luận rằng các truyền thống được bảo tồn ở Magadha nên được tin
tưởng hơn là những truyền thuyết do chư tăng ở Tích Lan xa xôi
ghi lại sau này, nhưng cũng có bằng chứng thuyết phục hơn là
Đức Phật Gautama là người sống cùng thời với vua Bimbisaara (Ư
re.nika) và con trai của vua là Ajaata'satru (Kuu.nika), và
nếu như vậy, người viết cảm thấy rằng nên chấp nhận niên đại
543 TTL, vì nó dựa vào sử liệu được khám phá nhờ bia ký
Khaaravela; trừ phi có các nghiên cứu mới về đề tài này."
-
Biên niên sử 544 TTL của Thượng Toạ Bộ dĩ nhiên là được đại đa
số các nhà nghiên cứu Phật học Nam Á hiện nay tán thành. Chính
biên niên sử này đã được các phong trào Phật giáo quốc tế như
"Hội Thân Hữu Phật Tử Thế Giới" (World Fellowship of
Buddhists) và các hiệp hội Phật giáo chấp nhận. Biên niên sử
này được truyền bá khắp nơi. "Đại Hội Phật Giáo Thế Giới" lần
đầu tiên được tổ chức để mở màn cho Đại Hội Phật Giáo Toàn
Quốc Tích Lan ở Colombo năm 1950, với niềm hy vọng rằng "năm
2500 sau Đức Phật diệt độ đúng vào năm 1956 của TL, toàn thể
thế giới sẽ tiếp nhận lối sống của đạo Phật" như được trình
bày trong bản tường trình chính thức tại hội nghị.[14]
Tại hội nghị một cuộc vận động được xúc tiến: "Các thân
hữu Phật tử thế giới đã chấp nhận năm 2494 sau Đức Phật
Niết-bàn như là năm thành lập Phật lịch (nghĩa là năm 1950) và
bản nghị quyết này được gởi đến tất cả đoàn thể, hiệp hội Phật
giáo để tường tri và thực hiện."[15] Dù sao, nó đã bị trì hoãn
để xét duyệt lại. Hội đồng chuyên gia đã được thành lập sau
hội nghị Hội Thân Hữu Phật Giáo thế Giới[16] lần hai, khẳng
định quyết định này để ủng hộ Phật lịch theo truyền thống
Thượng Toạ Bộ và nó được chấp nhận trong nghị quyết tại đại
hội lần ba năm 1954.[17]
-
Mặc dù những nỗ lực này đạt đến những quyết định có
thẩm quyền quan hệ đến Phật lịch, tuy nhiên vấn đề vẫn còn tồn
đọng, gây tranh luận không những trong thế giới học giả mà còn
trong thế giới Phật tử. Tôi xin trích dẫn một ví dụ từ những
tác phẩm của tác giả Phật tử Tích Lan hiện nay, đó là ông
G.H.de Zoysa. Ông cho rằng cái gọi là "Phật lịch chuẩn xác"
phải là năm 384 TTL.[18] Giả thuyết này được bàn
thảo rộng rãi ở Tích Lan, ví dụ tờ tuần báo Chủ Nhật Si
umi.na của Colombo, ra ngày 9 tháng 8 năm1987.[19] Để biện
hộ cho việc "chuẩn xác" phật lịch, de Zoysa đã đưa ra những
điểm không nhất quán trong cách tính năm của các biên niên sử
Tích Lan thời kỳ đầu. Sự trình bày chi tiết của P.Kiefer-Pulz
về giả thuyết của de Zoysa đã được tìm thấy trong một chương
liên hệ của tác phẩm này.[20]
-
Tuy nhiên, trong các tác phẩm Sanskrit Phật giáo đầu tiên và
những bản dịch của các tác phẩm này, chúng ta vô tình gặp phải
một truyền thống biên niên sử khác khá xa với các dữ liệu của
Thượng Toạ Bộ mà người viết đã bàn đến. Biên niên sử này cũng
còn được gọi là "biên niên sử ngắn" (short chronology)
cho rằng Đức Phật Niết-bàn trước lễ đăng quang của vua A'soka
100 năm.[21] Trong khi các bản chánh tạng, ngụy tạng và hầu
hết các tác phẩm trong tục tạng tính thời gian giữa Đức Phật
Niết-bàn và lễ đăng quang của vua A'soka là 100 năm, thì trong
luận thuyết phân phái Samayabhedoparacanacakra của Vasumitra
(Thế Hữu) thuộc văn học Trung Quốc, chúng ta lại bắt gặp con
số "116" với cách đọc khác là "160" và con số "160" trong luận
phẩm Nikayabhedavibha"ngavyaakhyaana của Bhavya và một
vài con số khác trong các tài
liệu
sau này.[22]
-
Tuy nhiên, "biên niên sử ngắn" lại không cung cấp cho chúng ta
một hệ thống niên đại như cách của biên niên sử dài. Các
truyền thống Ấn Độ có liên thường chỉ cung cấp một biên niên
sử tương đối, nghĩa là khoảng thời gian giữa Đức Phật Niết-bàn
với giai đoạn Đại Đế A'soka hoặc Đức Phật Niết-bàn với Đại Đế
Kani.ska. Tuy thế, truyền thống chép sử ở Ấn Độ lúc bấy giờ
không phải không bị gián đoạn. Vì vậy, Phật tử Ấn Độ thời
Trung cổ không có truyền thống nào đáng tin tưởng liên quan
đến khoảng thời gian giữa Đại Đế A'soka hay Kani.ska với thời
của họ, và do đó hầu như họ cũng không chấp nhận lối chuyển
các thông tin này thành cách tính về khoảng cách thời gian
giữa Đức Phật Niết-bàn đến thời của họ. Nếu như sử dụng biên
niên sử Puraa.na của những Bà-la-môn đương thời để tính thời
đại Maurya, họ sẽ có biên niên sử sớm hơn. Tất nhiên, vấn đề
này cũng tăng cường sự bất đồng của những người Đông Á, Tây
Tạng, và các nước Trung Á khác để tính ngày Niết-bàn trong
giới hạn hệ thống niên đại riêng của họ, bởi vì phần lớn các
truyền thống này đều dựa vào cách tính của các trường phái
Phật giáo ở Ấn Độ.[23] Về phương diện này, truyền thống Ấn Độ
hoàn toàn khác với truyền thống của các vị Thượng Toạ Bộ mà
ngay từ các thời kỳ đầu đã đưa ra hệ thống biên niên sử nhất
quán.
-
Học giả người Hà Lan, Hendrik Kern, (1896), là người đầu tiên
đưa ra hai đoạn trong Diipava'msa (1.24-27 và 5.55-59) giả
định rằng trong một phần khác của biên niên sử ngắn[24] bị
biên niên sử dài thay thế. Tính không nhất quán này có thể
được giải thích bằng cách cho Diipava'msa không phải là một
tác phẩm văn học có giá trị, mà chỉ là tuyển tập các bài kệ từ
các tác phẩm trước đây như Wilhem Geiger[25], Erich
Frauwallner[26], và các học giả khác đã trình bày. Dựa vào
trọng điểm của những đoạn này, Hendrik Kern, và sau này E. J.
Thomas[27], G. C. Mendis[28] cũng như gần đây nhất P. H. L.
Eggermont[29] quan niệm rằng biên niên sử ngắn trình bày biên
niên sử Phật giáo sớm nhất và nó đi trước tất cả biên niên sử
Phật giáo khác. Tuy nhiên, các học giả khác thích đi theo
hướng của Hermann Oldenberg hơn và giải thích lại các đoạn
trong Diipava'msa như là các đoạn tham khảo thiếu cứ liệu về
mặt văn bản học so với biên niên sử dài[30].
-
Các học giả Nhật Bản lại bất đồng về vấn đề này hơn các học
giả phương Tây. Hầu hết các học giả Nhật Bản có thẩm quyền
hiện nay đều dựa vào sự khác biệt của cái gọi là biên niên
sử ngắn ấy để làm điểm khởi đầu cho việc tính toán niên
đại của Đức Phật.[31] Phương pháp họ sử dụng cho cách tính
này, căn bản giống như phương pháp những người ủng hộ biên
niên sử dài đã hiệu chỉnh đã sử dụng, nghĩa là thêm 100
năm hoặc thêm 116 năm vào ngày vua A'soka đăng quang như các
sử gia đã viết, và do vậy ngày Đức Phật Niết-bàn phải là năm
368 hay 383 TTL. Trong một bài tham luận nhân dịp hội thảo
chuyên đề về niên đại Đức Phật lịch sử (1988), Akira Hirakawa
cho rằng vua A'soka sống khoảng 100 năm sau khi Đức Phật diệt
độ vì cách tính niên đại này được tìm thấy hầu hết trong Tam
Tạng và nó rất phù hợp với phương diện phát triển Tăng
đoàn.[32] Tuy nhiên, Hajime Nakamura đã nhấn mạnh trong bản
tham luận của mình ở buổi hội thảo là năm Niết-bàn của Đức
Phật phải được tính dựa vào ngày đã được tìm thấy trong bản
dịch tiếng Trung Quốc về tác phẩm Samayabhedoparacanacakra
của Vasumitra (Thế Hữu) đã được đề cập ở trên. Theo bản
văn đó, số năm từ khi Đức Phật nhập diệt cho đến sự có mặt của
vua A'soka là 116 năm. Giả thuyết này cho rằng Đức phật
Niết-bàn năm 383 TTL và cũng được Nakamura giả định vào năm
1955.[33] Tương tự các học giả Nhật Bản hiện nay đã đưa ra
nhiều biên niên sử dựa trên cách đánh giá của mức độ biến
thiên trong biên niên sử ngắn, đó là năm 390 hoặc là 384 TTL
(Genmiyo Ono, 1905)[34], năm 386 TTL (Hakuji Ui, 1924)[35], và
khoảng 400 TTL (Ryuusho Hikata, 1980).[36]
-
Các học giả Nhật Bản thuộc trường phái khác chấp nhận biên
niên sử được mệnh danh là "Chúng Thánh Điểm Ký" ở Quảng Đông
(Canton). Đây là truyền thống có liên quan đến một bản văn
viết tay rất cổ, trong đó mỗi năm được chấm vào một chấm sau
năm Đức Phật Niết-bàn. Truyền thống này vẫn còn được tiếp diễn
ở Quảng Đông đến năm 489 TL. Từ số các dấu chấm này người ta
suy ra, năm Đức Phật Niết-bàn là 486 TTL hay nếu theo cách
tính khác là vào năm 483 TTL.[37] Niên đại này khá ăn khớp với
biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Tuy nhiên, giá trị sử liệu và
nguồn gốc biên niên sử vẫn còn đang gây rất nhiều tranh luận.
Trường phái biện hộ cho biên niên sử này được trình bày trong
sách chuyên đề do công đóng góp của G. Yamayaki, người theo
truyền thống Nam Phương (xem phần IV của bài viết này).[38]
Với ngoại lệ duy nhất của biên niên sử dựa vào "Chúng Thánh
Điểm Ký" này, các cách tính của các học giả Nhật Bản không dựa
vào truyền thống Đông Á mà chỉ dựa vào nguồn gốc hiện đại.
Chúng phát xuất từ sự đánh giá về những tác phẩm nguyên tác
bằng ngôn ngữ Sanskrit Phật giáo hoặc các bản dịch Trung Hoa
hay Tây Tạng, thường được đề cập đến bằng thuật từ mặc ước,
"Bắc tông" hay các truyền thống Phật giáo phương Bắc.
-
Về điểm này, cần phải nhắc đến tác phẩm được xem như là "thánh
kinh" của các nghiên cứu Phật học hiện đại, đó là quyển "Lịch
Sử Phật Giáo Ấn Độ" của Étienne Lamotte xuất bản năm
1958.[39] Có lẽ rất hữu ích khi trích dẫn những đoạn đề cập
đến biên niên sử ngắn và dài trong tác phẩm của Lamotte[40] ở
đây:
-
"Hai biên niên sử này được xác nhận trong tài liệu cổ: biên
niên sử dài cho ngày Đức Phật Niết-bàn là 218 năm trước lễ
đăng quang của A'soka (khoảng 486 TTL) và biên niên sử ngắn
cho sự kiện này khoảng 100 năm trước A'soka lên ngôi (khoảng
386 TTL).
-
1. Như vậy, theo Biên niên sử dài được truyền thống Tích Lan
công nhận, lễ đăng quang của A'soka thuộc vào năm 218 sau Đức
Phật Niết-bàn (Diipava'msa VI.1, tr.19-20; Mahaava'msa V.21;
các ấn bản Paali khác nhau của quyển Samantapaasaadikaa I, tr.
41, 1.25) và đại hội kết tập kinh điển tại Paa.taliputra 18
năm sau, nghĩa là vào năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn
(Diipava'msa VII. 37 và 44; Mahaava'msaV. 280).
-
Tuy nhiên, cách tính này đòi hỏi cần thận trọng.
-
Trong Đảo sử, truyền thống này tính tới 13 vị vua suốt khoảng
thời gian 278 năm từ lúc Bimbisaara lên ngôi (60 năm trước Đức
Phật Niết-bàn) cho đến khi lễ đăng quang của vua A'soka (218
năm sau Đức Phật Niết-bàn)- một con số rất thông thường, nhưng
điều đáng nói ở đây là chỉ có năm vị Tổ Sư Luật tạng- một con
số quá nhỏ.
-
Trong phần 2, biên niên sử và các bản sớ giải của Tích Lan
không trung thực tuyệt đối với cách tính của chúng. Như vậy,
lễ đăng quang của vua A'soka vào năm 118 sau Đức Phật Niết-bàn
theo ấn bản tiếng Trung Quốc của quyển Samantapaasaadikaa (Đại
Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh 1462 k.1, tr. 679c 13) thay vì năm
218 sau Đức Phật Niết-bàn. Kỳ kiết tập kinh điển ở
Paa.taliputra thay vì là năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn thỉnh
thoảng lại cho 218 (trong Diipava'msa I, tr 24-25, và V, tr.
55-59), thỉnh thoảng cho là 218 sau Đức Phật Niết-bàn
(Atthasaalinii, tr. 3, 1.26-27; tr. 4, 1.25-26).
-
2. Hầu hết tất cả các tác phẩm Sanskrit và Trung Hoa dựa vào
biên niên sử ngắn cho rằng lễ đăng quang của vua A'soka sau
Đức Phật Niết-bàn 100 năm. Tuy nhiên, theo cách tính này chỉ
có 12 vị vua và 5 vị Tổ sư Luật Tạng từ thời vua Bimbisaara và
A'soka. Có nhiều nguồn sử liệu cho rằng A'soka và vị quốc sư
Upagupta sống khoảng 100 năm sau Đức Phật Niết-bàn…"
-
Cũng trong tác phẩm vừa nêu (tr.15), Lamotte đã phát biểu hết
sức thận trọng trong một đoạn văn rằng "các sử gia hiện nay có
thể chọn tuỳ ý biên niên sử dài hay biên niên sử ngắn," riêng
ông, ông chỉ sử dụng biên niên sử dài như là "một giả thuyết
có thể chấp nhận." May mắn thay, người viết đã có cơ hội thảo
luận riêng vấn đề này với cố giáo sư Lamotte. Ông cho rằng
việc sử dụng biên niên sử dài chỉ là "vấn đề thuận tiện"; và
dưới ánh sáng những bằng chứng hiện có, "chúng ta nên đề ra
niên đại của Đức Phật Niết-bàn một cách dứt khoát." Quan điểm
này cũng được phản ánh trong những tác phẩm sau cùng của
ông.[41]
-
Khi đối diện với các giả thuyết khác nhau của các học giả được
đào tạo trong các truyền thống phương Tây và Nhật Bản, tác giả
cảm thấy cần phải đặt lại cái gọi là độ đáng tin cậy của biên
niên sử Ấn Độ hay phương Tây. Trong tiến trình khảo cứu, người
viết đi đến kết luận rằng những bằng chứng có giá trị về "biên
niên sử dài đã hiệu chỉnh" hoàn toàn không có sức thuyết phục.
-
Trong một bài tham luận tại Hội Thảo về Ấn Độ Học ở Stockholm
năm 1980, tác giả cho rằng "biên niên sử dài đã hiệu chỉnh"
không nên được ủng hộ nữa. Bài viết này sau đó được xuất bản
trong Indologica Taurinensia[42]. Trong đó, người viết
đã bày tỏ lòng biết ơn đến Giáo sư Eggermont đã khuyến khích
xuất bản những khám phá của người viết nhân dịp Hội thảo Lần
Thứ Hai của Hội Phật Học Quốc Tế ở Nalanda (The Second
Conference of the International Asociation for Buddhist
Studies in Nalanda), tháng 1 năm 1980, khi người viết đọc bản
tóm tắt đó.[43] Người viết cũng đã ghi nhận rằng "những khám
phá của Eggermont cũng không mâu thuẫn với quan điểm đã trình
bày trong bài viết này" (nghĩa là bài viết trong Indologica
Taurinensia, 1982), "và các lập luận khác của giáo sư
Eggermont trên căn bản cũng đã đi đến cùng một kết luận" trong
bài viết của ông mang tựa đwf "Những Ghi Chú Mới về A'soka và
Những Vị Kế Thừa"[44]. (New Notes on A'soka and His
Successor). Đức Phật và Mahaaviira là những người đồng thời,
cho nên biên niên sử của Mahaaviira cũng phải được xét duyệt
lại. Điều này cũng đã được đề cập taị hội thảo quốc tế ở
Strasbourg năm1980.[45] Trong tiến trình khảo sát xa hơn, một
số quan điểm đã được trình bày trong những cố gắng ban đầu này
được xem là đúng, và một tác phẩm nghiên cứu chi tiết hơn,
"Cuộc Đời Đức Phật_ Niên Đại Thành Lập Sớm Nhất của Lịch Sử Ấn
Độ"䠦#273;ược
xuất bản năm 1986.[46] Trong bài viết này, người viết cho rằng
các nguồn tài liệu hiện hành không thể mang lại việc tái cấu
trúc chính xác cuộc đời Đức Phật, bởi vì chúng ta không có
bằng chứng nào thuyết phục về những gì mà tài liệu biên niên
sử đáng tin cậy được truyền thừa ở Ấn Độ trước cuộc xâm lăng
của Đại Đế Alexander. Người viết tin tưởng rằng "biên niên sử
ngắn" trình bày biên niên sử Phật giáo sớm nhất trong nguồn sử
liệu chúng ta đã tìm ra. Tuy nhiên, điều này không ám chỉ nó
trình bày cho tài liệu biên niên sử đáng tin cậy. Những nghi
ngờ này cùng với tất cả những nỗ lực để đi đến xác định trong
vòng mười năm hay vài mươi năm khi sự kiện Đức Phật Niết-bàn
xảy ra, bao gồm những nỗ lực trước đây của riêng người
viết.[47] Tuy nhiên, điều này cũng không thể cấm đoán người
viết phát biểu rằng, nếu dùng từ của Lamotte, "hãy đi đến kết
luận niên đại của Đức Phật Niết-bàn một cách dứt khoát."[48]
Để hiểu rõ các quan điểm này, người đọc có thể xem bài nghiên
cứu trong tác phẩm này.[49]
-
Một bài giới thiệu trong một tuyển tập về biên niên của Đức
Phật sẽ còn nhiều thiếu sót nếu không có tham khảo đến những
bài khảo cứu khác nhau của học giả Ấn Độ về cách tính năm của
Đức Phật và những người đồng thời với Ngài. Mặc dù đại đa số
các học giả Ấn Độ hiện đại như đã gợi ý ở trên đều lấy nguồn
thông tin biên niên sử từ các nguồn tài liệu Ấn Độ được các
học giả phương Tây tin cậy như trong bài nghiên cứu của J. U.
Hartmann trong tập sách này.[50] Rất nhiều sử gia Ấn Độ dựa
vào các nguồn tài liệu khác nhau, phần lớn là dựa vào truyền
thống được ghi lại trong các bản kinh Puraa.na. Các học giả
này không chấp nhận giá trị của những luận điểm, theo đó, biên
niên sử dài đã hiệu chỉnh và cách tính của người Nhật Bản và
phương Tây hiện nay về niên đại của Đức Phật Niết-bàn đã dựa
vào. Nghĩa là niên đại đồng thời giữa vua Chandragupta và
A'soka với tài liệu biên niên sử ở Hy Lạp. Người viết xin
trích dẫn một ví dụ ở đây trong Lịch Sử Văn Học Sanskit Cổ
Điển[51] của M. Krishnamachariar (1937) mà ngày nay
vẫn còn được sử dụng như một tác phẩm tham khảo rất phổ biến
trong làng văn học Sanskrit. Trong một bài luận về biên niên
sử dài, tạo nên một phần giới thiệu cho cuốn sách này,[52] ông
đã bàn chi tiết về các nghiên cứu của các học giả phương Tây
từ thời điểm nghiên cứu của William Jones, nhưng kết quả hoàn
toàn khác nhau. Krishnamachariar phê bình gay gắt những gì ông
gọi là "sai lầm về niên đại đồng thời giữa Sandracottus của
người Hy Lạp và vua Chandragupta Mauria"[53] và ông đưa ra một
niên đại đồng
thời khác. Biên niên sử của riêng ông dựa vào các đoạn trong
văn học Puraa.na. Theo ý của ông văn học Puraa.na "tính thẩm
quyền của nó thật là chắc chắn." Các đoạn văn này cho rằng
"triều đại Maurya kéo dài khoảng 316 năm, từ 1535 – 1219
TTL."[54] Do đó, ngày Đức Phật Niết-bàn phải được tính sớm
hơn.
-
Những dòng tư tưởng tương tự như vậy được nhiều học giả Ấn Độ
khác dựa theo, ví dụ, gần đây (khoảng 1984) V. G. Ramachandran
sử dụng cách tính thiên văn học như là luận điểm chính của ông
đã tuyên bố rằng năm Đức Phật đản sinh là 1887 TTL và năm Đức
Phật Niết-bàn là 1807 TTL.[55] Năm 1987, Shriram Sathe đã xuất
bản tập "Hội thảo chuyên đề" Niên Đại Đức Phật mà người
viết muốn giới thiệu ở đây để cung cấp thêm thông tin về nhiều
niên đại khác nhau mà các học giả Ấn Độ đã đề nghị.[56] Một
loại kết hợp khác giữa niềm tin truyền thống và nghiên cứu học
đường được các học giả nỗ lực trình bày để tính niên đại của
Đức Phật, bằng cách đối chiếu niên đại đồng thời của lịch sử
Ấn Độ và Trung Quốc thời kỳ đầu. Các loại lịch sử này được
trình bày trong bài phát biểu của Chen Yen-huei.[57]
-
II. ĐIỂM LẠI LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
-
Đối tượng chủ yếu trong bài hội thảo chuyên đề của Gưttingen
(1988) về niên đại của Đức Phật lịch sử và tuyển tập này là nỗ
lực khảo duyệt và hiệu đính nghiêm túc toàn diện những học
thuyết về niên đại của Đức Phật trong điều kiện cho phép.
Chính các dữ kiện ban đầu được các sử gia cung cấp không thể
dẫn đến sự nhất trí như là câu trả lời cuối cùng cho vấn đề
này. Sự thống nhất ý kiến rất khó có thể đạt được trong một
cuộc hội thảo chuyên đề với sự đóng góp của các học giả thuộc
nhiều truyền thống nghiên cứu và nhiều cách tiếp cận có phương
pháp khác nhau. Ngược lại, thật là ngạc nhiên, ít nhất chúng
ta đã đạt đến quan điểm chung một phần nào liên quan đến các
phương diện chủ yếu của vấn đề này. Trong tập này, trong một
góc độ nào đó chúng ta trình bày vấn đề niên đại Đức Phật khá
tổng quát, nếu không muốn nói là cung cấp tài liệu nghiên cứu
toàn diện về niên đại của đức Phật lịch sử các cách trả lời
khả dĩ về vấn đề này. Nhờ vậy, giới độc giả có thể có được
những thông tin cần thiết để rút ra các quan điểm cho riêng
mình về những vấn đề đang còn tranh luận này.
-
Như vậy chúng ta đã đánh dấu điểm nổi bật trong tiến trình hội
thảo về lịch sử nghiên cứu đề tài. Phần lớn các luận điểm được
trích dẫn để ủng hộ các biên niên sử Đức Phật đã được các học
giả đề cập trong suốt 150 năm qua, và như vậy chúng đã trùng
hợp với các tác phẩm trước đây về cùng đề tài. Một số sự kiện
lịch sử đã được trưng dẫn ở trên trong phần đầu của lời giới
thiệu này. Trong tuyển tập này người đọc sẽ thấy bản tường
thuật chi tiết của Siglinde Dietz về lịch sử nghiên cứu phương
Tây cho đến 1980 (xem cùng tác phẩm, tr. 39-105). Bản nghiên
cứu đánh dấu giai đoạn sớm nhất của các ấn bản châu Âu về đề
tài, bắt đầu từ việc tính niên đại Đức Phật đản sinh vào năm
1026 TTL, trong tác phẩm về Khổng Tử của tác giả Phillippe
Couplet (1687), người Bỉ. Thời gian Đức Phật trụ thế là 79
năm, một con số được xem là có giá trị cho đến ngày nay.
-
Một giai đoạn nghiên cứu mới bắt đầu bằng cách tính dựa theo
biên niên sử dài đã hiệu chỉnh của George Turnour năm 1837.
Suốt TK XIX và XX, nhiều học giả phương Tây, một mặt đã đề
xuất các niên đại khác nhau bao gồm biên niên sử không bị hiệu
chỉnh của Thượng Toạ Bộ, và sau này Albrecht Weber, Niels
Ludwig Westergaard[58] và các học giả khác thừa nhận. S. Dietz
đã trình bày những nỗ lực khác nhau về cách tính niên đại của
Đức Phật trong bài khảo cứu của ông, do đó các độc giả xem
tuyển tập này sẽ được cung cấp đầy đủ các thông tin về lịch sử
nghiên cứu của phương Tây về lãnh vực này.
-
Lịch sử nghiên cứu về niên đại Đức Phật ở Ấn Độ và Tích Lan
bằng ngôn ngữ phương Tây được Jens-Uwe Hartmann đề cập
đến.[59] Những nhà nghiên cứu ở Nam Á và các học giả phương
Tây nghiên cứu lãnh vực này dĩ nhiên trao đổi ý kiến qua lại.
Bài khảo cứu này được bổ sung bằng các tài liệu: (1) công
trình nghiên cứu của Gustav Roth về các ấn phẩm cùng chủ đề
bằng tiếng Hindi[60], (ii) ghi chú về Phật lịch trong
Maalaala"nkaravatthu của Heinz Braun[61], và (iii) một bài tóm
lược các nghiên cứu của người Nhật Bản về cùng chủ đề của
Hajime Nakamura.[62] Thông tin nghiên cứu ở Trung Hoa chỉ được
tìm thấy trong các bài đóng góp của Herbert Franke trong phần
5 của tập này[63] và trong các bài "Cách Tính Niên Đại của Đức
Phật theo Phật Giáo Trung Hoa"[64] của Lewis Lancaster,
trong bài "Nghiên cứu của người Trung Hoa về Niên Đại Đức
Phật"[65] của Chen Yen-huei. Một số nỗ lực gần đây nhất
trong việc nghiên cứu về niên đại Đức Phật lịch sử cũng được
thảo luận trong giới thiệu mang tính khảo cứu này.
-
III. BẰNG CHỨNG ĐƯỢC
RÚT RA TỪ BỐI CẢNH VĂN HOÁ ẤN ĐỘ
-
Vấn đề niên đại của Đức Phật không thể xác định một cách đúng
đắn nếu không có khảo cứu về bối cảnh lịch sử văn hoá Ấn Độ
trong đó Đức Phật thuyết giảng giáo pháp. Hiểu biết và giải
thích dựa theo bối cảnh Ấn Độ cung cấp cho chúng ta nhiều bằng
chứng gián tiếp cần thiết. Bằng chứng này có thể xem như thước
đo về các tài liệu biên niên sử từ các nguồn khác. Chính nhờ
các nguồn tài liệu này có thể giúp chúng ta ấn định niên đại
tương đối đáng tin cậy của Đức Phật. Các bằng chứng gián tiếp
như vậy có thể được rút ra từ nguồn thông tin lịch sử Phật
giáo thời kỳ đầu. Và trong bối cảnh lịch sử đó, đặc biệt (1)
tình trạng chính trị và xã hội ở phía Bắc Ấn Độ trong thời Đức
Phật, (2) bằng chứng nhờ khám phá của khảo cổ học về giai đoạn
này, (3) người đương thời Đức Phật là Mahaaviira, (4) sự kế
tục của các Tổ Sư Luật Tạng của Phật giáo và Kỳ-na, (5) biên
niên sử của quá trình phát triển giáo lý và triết học thời kỳ
đầu, (6) quá trình phát triển của ngôn ngữ, phương tiện diễn
đạt, văn học và vần điệu thi kệ trong truyền thống Phật giáo
Nguyên thuỷ, (7) dữ liệu từ các nguồn phi Phật giáo trong lịch
sử Ấn Độ cổ đại, (8) mối bang giao văn hoá giữa Ấn Độ và
phương Tây thời cổ, và (9) việc nghiên cứu các yếu tố thần
thoại trong các truyền thống biên niên sử.
-
Việc đánh giá các dữ kiện gián tiếp này được trình bày trong
các bài viết trong tập này: "Nghiên Cứu Khảo Cổ về Di Tích
Phật Giáo Cổ Đại"[66] của Herbert Hartel; "Vài Khảo Sát về Ý
Nghĩa của Niên Đại Đức Phật trong Lịch Sử Bắc Ấn"[67] của
Hermann Kulke, "Bối Cảnh Lịch Sử về Quá Trình Phát Triển Phật
Giáo và Cách Tính Niên Đại"[68] của Georg von Simson;
"Niên Đại Đồng Thời của Đức Phật và Jina Mahaaviira và Vấn Đề
Biên Niên Sử của Kỳ-na Giáo Nguyên Thuỷ"[69] của Adelheid
Mette; "Khảo Sát Ngôn Ngữ Học về Niên Đại Đức Phật"[70] của
Oskar von Hinuber; "Các Tham Khảo của Ấn Độ Cổ Đại về Hy Lạp
và Các Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên giữa Phật Giáo và Phương Tây"[71]
của Wilhem Halbfass; "Một số ý kiến về Vấn Đề Niên Đại Đức
Phật Niết-bàn"[72] của André Bareau, và "Gia Phả Puraa.na và
Niên Đại của Đức Phật"[73] của Heinrich von Stietencron. Có
nhiều kết luận khác nhau về vấn đề niên đại đồng thời của Đức
Phật và Mahaaviira, điển hình là bài viết của bà Adelheid
Mette trong tập này và bài viết "Năm Qua Đời của
Mahaaviira"[74] của P. H. L. Eggermont trong phần đầu của tập
Symp IV, 1.
-
Lambert Schmithausen đã "Nỗ Lực Đánh Giá Khoảng Thời Gian giữa
A'soka và Đức Phật dưới Dạng Lịch Sử Học Thuyết"[75] Một vài
phương diện liên hệ khác cũng được Sigfried Lienhard giới
thiệu trong bài "Ghi Chú Ngắn về Niên Đại Đức Phật Lịch Sử và
Thơ Ca Cổ Điển[76] và "Gia Phổ của Đức Phật và Tổ Tiên của
Ngài" của Ryutaro Tsuchida.[77]
-
Đóng góp của ông đối với tập này (cùng tác phẩm, tr. 195-209),
Wilhelm Halbfass không chỉ làm rõ tầm quan trọng của các mối
quan hệ giữa người Hy Lạp và người Ấn Độ trong thời kỳ đầu để
giúp chúng ta hiểu về biên niên sử nhưng cũng đề cập đến giả
thuyết mới của ông Daniel Schlumberger, cho rằng giáo pháp Đức
Phật đã chịu ảnh hưởng của triết gia Hy Lạp Epicurus. Halbfass
nói rằng lý thuyết này "không những vô bổ mà còn không thể
đứng vững được." Có thể nói một cách không ngần ngại là giả
thuyết gần đây của Paolo Daffinaa dựa trên học thuyết của
Schlumberger (xem thêm phần nhận xét của người viết tr.
277-280, cùng tác phẩm).
-
Người viết không dự định tóm tắt ở đây những luận điểm khá
phức tạp của những bài đóng góp này, nhưng người viết cảm thấy
gần như tất cả các bài viết đều đi đến kết luận, cho rằng có
những lý do chính đáng để xác định niên đại của Đức Phật trể
hơn năm được ghi nhận trong biên niên truyền thống. Herbert
Hartel tóm tắt những khám phá của ông: "từ quan điểm này …,
rồi đến niên đại của Đức Phật trong TK thứ V- IV TTL là rất có
thể" (cùng tác phẩm, tr. 159). Trong phần nghiên cứu uyên bác
về khoảng cách tương đối giữa vua A'soka và Đức Phật dưới dạng
lịch sử giáo lý, Lambert Schmithausen đã cẩn thận phát biểu
"việc khảo sát của ông có lẽ không được chắc chắn, ngoại trừ
niên đại đầu tiên của Đức Phật, nhưng dường như nó đưa ra một
niên đại sau này có khả năng hơn."[78] Georg von Simson tóm
tắt rằng, mối lưu tâm của ông "việc đánh giá sau này có khả
năng hơn nhiều việc đánh giá trước" (cùng tác phẩm, tr. 137).
Bài đánh giá về "Các Tham Khảo của Ấn Độ Cổ Đại về Hy Lạp và
Các Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên giữa Phật Giáo và Phương Tây"
của Wilhem Halbfass cũng đi đến kết luận tương tự: "ít nhất nó
hầu như dễ dàng phù hợp với giả định cho rằng Phật giáo chưa
thể có mặt hai TK trước thời Megasthenes; Phật giáo cũng chưa
xây dựng được các trung tâm tu viện, Phật giáo còn khá trẻ và
chưa có bộ mặt đầy đủ khi Magesthenes viếng thăm kinh đô
Paa.taliputra khoảng năm 300 TTL." (cùng tác phẩm, tr.205). S.
Lienhard dựa vào một bài nghiên cứu thi kệ Phật giáo Nguyên
thuỷ đã kết luận rằng biên niên sử dài đã hiệu chỉnh "dường
như nằm quá xa mốc thời gian"[79]. Tóm lại, kết luận rút ra
dường như không thể tránh khỏi là các nguồn sử liệu chính yếu
về bằng chứng gián tiếp đối với niên đại của Đức Phật có sức
thuyết phục hơn tài liệu đã được biên niên sử dài đã hiệu
chỉnh đề cập.
-
Nhờ khảo sát về gia phổ trong văn học Puraa.na, Heinrich von
Stietencron (cùng tác phẩm, tr. 221-249) đã đi đến một kết
luận khác. Ông khẳng định rằng "biên niên sử Puraa.na đã hiện
diện trước các sứ thần của A'soka truyền bá Phật giáo vào Tích
Lan," bởi vì chính Megasthenes, vị sứ thần đi qua vương triều
Chandragupta Maurya, trong suốt thời thời thịnh trị của
Chandra Gupta, rất có thể tác phẩm Bhavi.sya Puraa.na
đã được biên tập (cùng tác phẩm, tr. 221). Tuy nhiên, "tài
liệu Puraa.na tự nó không có giá trị về mặt niên đại chính
xác." Như vậy von Stietencron đã biện hộ rằng những năm tính
theo vương triều đó có lẽ đúng với các vị vua kế tục sau triều
đại Maurya, như các triều đại Nanda và về sau là Ư i'sunaaga,
nhưng các tác phẩm này bị tiểu thuyết hoá hầu hết trong giai
đoạn trước đó." Stietencron còn suy luận có hai cách có thể
tính các niên đại của các vị vua cai trị vào thời Đức Phật.
Niên đại của Đức Phật nhập diệt được rút ra từ phần
va'm'saanukarita của các tác phẩm Puraa.na hoặc là 520 / 519
TTL với các biến số khác nhau 547 / 546 và 511 / 510 TTL (con
số này không khác nhau mấy so với biên niên sử dài không bị
hiệu chỉnh hoặc là 487 / 486 TTL (biến số này phù hợp với Biên
niên sử dài đã hiệu chỉnh và Chúng Thánh Điểm Ký). Trong một
bài nghiên cứu của H. v.Stietencron, ông đã thừa nhận: "chúng
ta không thể dựa vào một biên niên sử tuyệt đối nào về các
biến số mà Puraa.na đã ấn định, vì vậy niên đại của Đức Phật
xuất phát từ những biến số này không nhất thiết phải được tin
theo." Tuy nhiên, ông lý luận rằng niên đại Đức Phật không thể
"bị dời xa đến một mức độ như vậy mà nó có thể phù hợp với 100
năm trước thời A'soka," bởi vì các người đương thời của Đức
Phật cách xa vương triều của Candragupta Maurya đến "7 hoặc 8
các vị vua kế nghiệp" (cùng tác phẩm, tr. 249).[80]
-
Gananth Obeyesekere đã đóng góp một bài nghiên cứu vô cùng
quan trọng về phương pháp luận "Huyền Thoại, Lịch Sử và Số Học
trong Biên Niên Sử Phật Giáo"[81]. Trong bài đóng góp đó, ông
chỉ ra rằng con số "mười tám" trong một vài trường hợp cá biệt
nào đó, con số "9" và một số con số đặc biệt khác được lặp đi
lặp lại nhiều lần trong các biên niên sử Tích Lan. Ý nghĩa đặc
biệt về số "18" hầu như trong tất cả các trường phái truyền
thống thuộc văn học, tôn giáo, triết học và khoa học, kể cả
việc chép sử Phật giáo ở Tích Lan đã được Otto Stein và các
học giả khác giải thích.[82] Các khám phá về bản chất huyền
thoại và biểu trưng của nhiều thông tin biên niên sử Tích Lan
này có tác động mạnh mẽ đến các phán đoán liên quan đến tính
khả tín của các truyền thống biên niên sử trong giai đoạn đầu,
bất cứ khi nào chúng ta gặp phải những con số tượng trưng như
vậy. Các số như vậy có rất nhiều trong các nguồn tài liệu Phật
Giáo cổ bao gồm cả biên niên sử Đức Phật truyền thống và các
con số này cần được khảo sát lại bằng cách tiếp cận này.
-
Suốt cuộc hội thảo cũng có rất nhiều con số tượng trưng được
vạch ra. Các con số này không phải dễ dàng được nhận diện bởi
vì chúng không phải là con số chuẩn xác cũng không phải con số
tượng trưng, do đó chúng có thể bị hiểu sai lạc như là các dữ
liệu truyền thống đáng tin cậy đã được trình bày. Các loại
biên niên sử với các loại số như vậy được xây dựng vì những lý
do khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và bối cảnh của việc chép
sử lúc bấy giờ. Có rất nhiều trường hợp trong truyền thống Ấn
Độ, La Mã và sử ký ở Đức thời cổ có thể được xem như là nền
tảng để chúng ta so sánh. Tôi xin đề cập đến bài nghiên cứu
của Carl J. Classen, đã gởi cho hội thảo và được xuất bản
trong Symp IV, 2.[83]
-
Vẫn còn nhiều bằng chứng gián tiếp khác về niên đại của Đức
Phật, đó là cách đánh giá lại các truyền thống liên quan đến
lịch sử Tăng già thời nguyên thuỷ, đặc biệt về việc truyền
thừa của các vị Tổ Luật Tạng. Điều này đã được khảo sát bằng
rất nhiều phương pháp khác nhau và rút ra nhiều kết luận dị
biệt trong một vài đoạn của các bài tham luận đánh giá lại
truyền thống Ấn Độ. Đặc biệt hơn, vấn đề vẫn còn tranh luận là
danh biểu của các vị Tổ Luật Tạng này và niên đại được trình
bày trong các tài liệu lịch sử đó được xem là đáng tin cậy hay
không trong khi niên đại được gán cho các Ngài còn rất mơ hồ?
-
Về điểm này, người viết muốn giới thiệu bài đóng góp của André
Bareau "Một Số Ý Kiến về Vấn Đề Niên Đại Đức Phật
Niết-Bàn"[84] liên quan đến bằng chứng gián tiếp này. Trong
khi Bareau lý luận trong bài đã đề cập ở trên (1953)[85] rằng
tài liệu biên niên sử về Luật Tạng liên quan đến kỳ kiết tập
kinh điển tại Vai'saalii trong biên niên sử ngắn là không có
căn cứ và xem như biện minh chính cho độ tin cậy của biên niên
sử dài đã hiệu chỉnh. Trong bài của ông gởi cho hội thảo
chuyên đề ông cho rằng "chúng ta có thể giả sử kỳ kiết tập này
xảy ra chưa tới 100 năm nhưng có thể hơn 50 năm sau Đức Phật
Niết-bàn." Cách khảo cứu niên đại Đức Phật Niết-bàn xuất phát
từ những cứ liệu gián tiếp đã được tìm thấy trong hai bia ký
của A'soka. Các tài liệu này "chứng minh rằng khoảng năm 250
TTL tín ngưỡng và huyền thoại học Phật giáo đã phát triển đến
đỉnh cao."[86] Giai đoạn khoảng 380 TTL nên được xem như thời
gian có thể xảy sự kiện Đức Phật Niết-bàn. Biên niên sử dài
(543 hoặc 480 TTL) không thể đứng vững với những cứ liệu khảo
cổ này (cùng tác phẩm, tr. 218-219). Phương pháp đã được A.
Bareau vận dụng liệt vào loại thứ (5) của các loại cứ liệu
gián tiếp đã được trích dẫn ở trên.
-
Niên đại sớm nhất đã được đề cập trong các tài liệu của chúng
tôi xuất phát từ giai đoạn truyền thống thuần truyền khẩu. Vì
vậy rất bổ ích khi chúng ta đề cập ở đây một bài nghiên cứu
mới, chi tiết về thông tin biên niên sử được truyền thừa dưới
dạng truyền khẩu, đó là bài của ông David P. Hennige, Biên
Niên Sử Theo Truyền Thống Truyền Khẩu: Tìm Kiếm Điều Hảo Huyền.[87]
Hennige cho rằng các sử gia và các nhà dân tộc học đã nhất trí
truyền thống truyền khẩu là đặc tính của "những người thiếu
khả năng để thành lập và duy trì mức độ chính xác của thời quá
khứ mà họ cố gắng thuật lại" (sđd, tr.2), do đó chúng
ta không thể suy ra niên đại đáng tin cậy nào từ các truyền
thống này. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên bỏ qua các thông
tin của truyền thống này và hãy xem nó như "động lực" và phân
tích giá trị lịch sử trong mỗi trường hợp cá biệt. Mặc dù
Hennige chủ yếu biện minh nền tảng của việc nghiên cứu theo
truyền thống châu Phi, ông cũng bàn đến các trường hợp xuất
phát từ lịch sử văn hoá Châu Âu và Châu Á. Trong bất cứ trường
hợp nào những khám phá mới của ông nên được chú ý cho sự đánh
giá về truyền thống biên niên sử về niên đại của Đức Phật.
-
-
IV. CÁC ĐÁNH GIÁ KHÁC NHAU VỀ CỨ LIỆU
-
Những quan điểm cá biệt về niên đại của Đức Phật đã được phát
biểu dựa trên một trong những bài đánh giá thuộc truyền thống
Ấn Độ trong tám bài đóng góp đã được đưa vào trong hai tập hội
thảo chuyên đề và trong một số ấn bản gần đây.
-
P. H. L. Eggermont, người có công xuất bản một loạt sách
nghiên cứu về biên niên sử quan trọng, khảo cứu lại các bài
viết cùng chủ đề về thời đại A'soka và căn cứ trên các biên
niên sử có khả quan đã đi đến một kết luận bất ngờ đó là
A'soka không ai khác hơn chính là Ajaata'satru, như thế niên
đại Đức Phật Niết-bàn chuyển dịch đến thời vua A'soka, nghĩa
là năm 261 TTL. Giả thuyết này được ghi lại trong bài "Năm Đức
Phật Niết-bàn."[88] Cứ liệu này tiêu biểu cho niên đại Đức
Phật Niết-bàn gần đây nhất.[89]
-
Trong bài "Đánh Giá Nguồn Sử Liệu Niên Đại của Đức Phật" của
Akira Hirakawa[90] đưa ra kết luận "những Phật tử ở Ấn Độ phán
đoán tự tin rằng quan điểm niên đại Đức Phật Niết-bàn xảy ra
trước 100 năm của vua A'soka là nổi bật nhất" và "cách tính
niên đại này cũng phù hợp với phương diện phát triển Tăng
đoàn." Vì vậy, nó là quan điểm "có sức thuyết phục nhất"[91].
Các cuộc tranh luận về lịch sử của Tăng đoàn Nguyên Thuỷ trong
bài viết có tính nghiên cứu này phản ánh cách đánh giá của tác
giả về lịch sử kiết tập và các trường phái Phật giáo Nguyên
Thuỷ. Cách giải thích của các nguồn sử liệu khác nhau đề cập
đến sự kiện này, một số không có liên hệ trực tiếp đến vấn đề
chúng ta, đã chạm phải đến một vấn đề gây rất nhiều tranh cãi
mà chúng đã được đề cập trong rất nhiều các ấn bản về Phật-đà
học (Buddhology). Tuy nhiên, những quan điểm đối lập
của các nhà nghiên cứu Phật học ở phương Tây đã không được
nhắc đến trong bài của Hirakawa. Trong số những vấn đề khác
bài này bao gồm nhận định đánh giá của các nguồn sử liệu trước
đây về niên đại Đức Phật Niết-bàn, bao gồm "Chúng Thánh Điểm
Ký," mối liên hệ của những người hành hương Trung Quốc đến Ấn
Độ và các nguồn sử liệu khác. Hirakawa đã trình bày hết sức
thuyết phục rằng sự phát triển của Tăng đoàn xảy ra khoảng Đức
Phật Niết-bàn và A'soka lên ngôi có thể xảy ra trong vòng một
TK mà thôi.
-
Niên đại Đức Phật Niết-bàn sớm hơn đã được trình bày trong "Sơ
Khảo Vấn Đề Niên Đại Đức Phật" của Hajime Nakamura.[92] Niên
đại này được thành lập dựa trên cứ liệu truyền thừa trong văn
bản Samayabhedoparacanacakra (Samayabhedaprakara.na)
của Vasumitra bằng tiếng Trung Quốc (có lẽ TK II TL). Nakamura
khẳng quyết rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn nên được tính dựa
vào tác phẩm này mặc dù nó chỉ là một tác phẩm cung cấp thông
tin. Theo tác phẩm trên "số năm trôi qua giữa năm Đức Phật thị
tịch và đăng quang của vua A'soka là 116 năm"[93] Với cách
tính này, năm Đức Phật Niết-bàn là năm 383 TTL đã được
Nakamura trình bày vào năm 1955.[94] Điều này cũng
đã được đề cập trong phần I ở trên.
-
K. R. Norman nghiên cứu lại các phương diện chính của vấn đề
này trong bài "Khảo Sát Niên Đại của Jina và Đức Phật."[95]
Ông khẳng định "cả Mahaaviira và Đức Phật Gautama diệt độ
trong khoảng 10 năm trước hoặc sau năm 400 TTL." (Symp IV,
1, p. 312).[96] Trong một bài viết cho hội thảo (Symp
VI,1, tr. 315-325), Gen’ichi yamzaki đã biện hộ tán đồng
quan điểm của biên niên sử dài đã hiệu chỉnh tương ứng với
truyền thống "Chúng Thánh Điểm Ký" cho năm Đức Phật Niết-bàn
là 486 TTL. Trong bài viết của mình, ông đã xắp xếp lại lịch
đại Tổ Sư Luật Tạng, điểm chung này đóng một vai trò vô cùng
then chốt. Yamazaki đã làm sống lại cách giải thích của
Oldenberg về những đoạn trích dẫn của Đảo Sử 1.24-27 và
5.55-59 ở trên và do đó không chấp nhận sự hiện hữu của mốc
điểm thời gian trong biên niên sử ngắn trong bài này.[97]
Gen’ichi Yamazaki chấp nhận rằng "Chắc chắn "Chúng Thánh Điểm
Ký" đã dựa vào truyền thuyết Nam Phương Thượng Toạ Bộ.[98] Ông
lập luận rằng niên đại biên niên sử dài có mặt sớm hơn nhiều
so với "Chúng Thánh Điểm Ký." Thật là thiếu xót, Yamazaki
không để ý đến cách tính nhầm biên niên sử của Thượng Toạ Bộ.
Tuy nhiên, nhờ nhận xét này mà các Phật tử Nam Phương Thượng
Toạ Bộ đã chuyển đổi số năm trong biên niên sử gần như chính
xác từ lúc vua A'soka cho đến hậu bán TK thứ năm"[99], chúng
ta có thể suy ra rằng, trên căn bản ông chấp nhận giả thuyết
của Wickremasinghe dưới một văn bản đã hiệu đính được Wilhelm
Geiger sử dụng, mặc dù được bổ sung chút ít trong những gì ông
khẳng định là biên niên sử sớm hơn được sử dụng cho đến TK thứ
V- giai đoạn "Chúng Thánh Điểm Ký" được giới thiệu. Tuy nhiên,
Senerat Paranavitana đã phủ bác toàn bộ giả thuyết của Geiger
đã có mặt 1960 bằng cách cho rằng kỷ nguyên của Theravaada bắt
đầu từ năm 544 TTL đã được sử dụng vào cuối TK IV.[100] Vì vậy
các vị Nam Phương Phật giáo không thể đã chuyển đổi Phật lịch
486 vào cuối TK V. Dẫu sao, Yamazaki đã không ghi nhận về các
nghiên cứu liên hệ gần đây. Yamazaki nhấn mạnh rằng ông tin
tưởng niên đại "218 năm trước lễ đăng quang của A'soka" là lâu
hơn hay sớm hơn "danh sách các Tổ Sư ngụy tạo."[101]
-
Trong bài viết của mình ở trang 253-286, tôi đã lập lại các
luận điểm mà tôi đã trình bày trong bài nghiên cứu xuất bản
năm 1986.[102] Tôi cho rằng việc ra sức tìm niên đại Đức Phật
Niết-bàn trong một hay vài thập niên chỉ hoài công vì hết thảy
những cố gắng như thế đều dựa trên phán đoán. Thật là rõ ràng
rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn trễ hơn nhiều so với biên niên
sử dài đã hiệu chỉnh. Đặc biệt người viết tin chắc rằng các
biện chứng của Herbert Hartel, Hermann Kulke, và Georg von
Simson[103] không còn thừa nhận quan niệm về các niên đại Đức
Phật Niết-bàn sớm như vậy nữa.
-
Trong bài viết của ông "Niên Đại Đức Phật: Vấn Đề Lạc Dẫn Đã
Được Sáng Tỏ"[104], Richard Gombrich cũng nhất trí niên đại
chuẩn xác của Đức Phật Niết-bàn có thể căn cứ trên Đảo sử. Ông
quả quyết tài liệu biên niên sử được rút từ các đoạn văn ghi
lại việc truyền thừa của các vị Tổ từ Upaali đến Tissa
Moggaliputta và Mahinda là có thể tin cậy được, nhưng mãi đến
bây giờ tài liệu này vẫn còn bị ngộ nhận. Căn cứ vào dữ liệu
này, Gombrich tính niên đại Đức Phật Niết-bàn có thể vào
khoảng giữa năm 411 TTL và năm 399 TTL, và có khả năng nhất là
năm 404 TTL. Hơn thế nữa, ông còn tán thành với cách tính
truyền thống cho thời gian 218 năm giữa Đức Phật Niết-bàn và
lễ lên ngôi của vua A'soka chỉ là dựa trên giả định sai lầm cổ
xưa, nghĩa là tuổi hạ của các vị Tăng được tính kể từ lúc thọ
đại giới (Symp IV, 2, tr.257). Thật tình cờ, cách tính
của Gombrich đã rơi vào khoảng con số niên đại trong biên niên
sử dài đã hiệu chỉnh vốn được các nhà phê bình, nghiên cứu gần
đây nhiệt tình ủng hộ.[105]
-
Trong một vài cuộc hội thảo tổ chức trước đây bàn về niên đại
của Đức Phật, một cách tính niên đại xuất phát từ thiên anh
hùng ca Ma.nimèkalai của người Tamil (thế kỷ VI TL) đưa ra "
một dạng thức rất mơ hồ về niên đại Đức Phật."[106] Những đoạn
này cũng được Ryth Walldén nhắc đến trong bài "Một vài Ghi Chú
về Niên Đại Đức Phật trong Ma.nimèkalai."[107] Những đoạn
trích dẫn như vậy khó có thể được xem như là nguồn sử chính
thức lại được khẳng định trong bài viết mang tính nghiên cứu
này[108].
-
K. Narain cũng có viết một bài tham luận đóng góp hội thảo
được đề cập đến trong tập 2. Ông bảo vệ năm 483 TTL được ghi
nhận trong biên niên sử dài đã hiệu chỉnh. Các luận điểm của
ông được căn cứ trên cái gọi là "bằng chứng bia ký," đó là dựa
theo con số 256 trên chỉ dụ nhỏ đầu tiên của A'soka.[109] Lần
đầu tiên Georg Buhler đưa ra giả thiết về niên đại Đức Phật
Niết-bàn này vào năm 1894 /1995, nhưng đến bây giờ con số này
vẫn còn đang tranh luận.[110]
-
Về điểm này thiết tưởng cũng nên được đề cập, là vài tác phẩm
cùng chủ đề gần đây vừa xuất bản không có mặt vào thời điểm
hội thảo và do đó không được tham khảo. Đó là các tác phẩm của
K. T. S. Sarao[111], cho rằng niên đại Đức Phật Niết-bàn vào
khoảng 397 TTL. Sarao đưa ra một cách giải thích mới dựa vào
hai đoạn trong Diipava'msa (4.27-46 và 5.69-107), những
đoạn sử này cũng là nền tảng cho biện minh của Gombrich đã
được nói ở trên. Số liệu ghi trong Đảo Sử I5.96
(Diipava'msa) thường được biết như là số năm của năm vị
Trưởng Lão trì giới theo như cách giải thích của K. T. S.
Sarao "là tuổi hạ của các vị Cao Tăng trở thành những vị
Trưởng Lão truyền giới pháp," bởi vì "không thể có sự kiện một
vì trưởng lão nào có thể giữ giếng mối giới luật trong một
thời gian quá dài [như đã được ghi trong Đảo Sử 5. 96],
nhưng tự thân bài kệ này nó không có ý nghĩa nhiều như những
gì người ta phân tích nó."[112] Cách lý luận của K. T. S.
Sarao là giả định một truyền thống có tài liệu biên niên sử
chính xác từ thời đại Đức Phật trở về trước, một giả định rất
đáng ngờ nhưng không được giải thích rõ về nguyên nhân sai lầm
trong cách luận giải của tài liệu biên niên sử này.
-
Năm 1989, Kailask Chandra Varma đã xuất bản bài viết về niên
đại Đức Phật Niết-bàn.[113] Ông đoan chắc rằng "quan điểm giả
định niên đại 490-80 TTL là thiển cận và ủng hộ nhiệt tình
niên đại 544 TTL như là năm nhập diệt của đức Phật." Varma còn
luận thêm "chân thành mà nói là các học giả đầy đủ khả năng
chưa từng bị mù quáng trước các giả thiết của các học giả
phương Tây cũng như một số người Ấn thiếu hiểu biết nên khảo
duyệt lại toàn bộ vấn đề biên niên sử Ấn Độ cổ đại."[114]
Thiết nghĩ, tôi không cần bàn tới sự đính chính về các luận
điểm quá lỗi thời trên; tốt hơn là ghi nhận sự kiện có lợi
rằng "biên niên sử dài chưa hiệu chỉnh" vẫn tiếp tục được một
số học giả Ấn Độ bảo vệ. Nhiều bài nghiên cứu gần đây mang dấp
dáng tương tự được nhắc đến trong bài viết của J. U.
Hartmann.[115]
-
Cùng năm 1989, K. D. Sethna đã xuất bản công trình nghiên cứu
rất dài của ông về biên niên sử Ấn Độ thời kỳ đầu trong đó có
phần trình bày về niên đại Đức Phật.[116] Luận chứng của Ông
phần lớn dựa trên văn học Puraa.na và các nghiên cứu cũng như
các nguồn tài liệu liên hệ. Trong "bảng biên niên sử mới" này,
ông xác định niên đại Đức Phật Niết-bàn vào năm 1168 TTL, 218
năm trước lễ lên ngôi của vua A'soka Maurya năm 950 TTL. Mặc
dù độc giả có thể xem quan điểm này như là chuyện lạ, người
viết nêu lên ở đây chỉ cốt để trình bày toàn cảnh của vấn đề
bàn thảo về niên đại của Đức Phật ngày nay.
-
Sau hết, tưởng cũng nên đề cập đến quyển sách nhỏ của Sonam
Morup. Đây là cuốn sách tập hợp các luận điểm bảo vệ biên niên
sử dài đã hiệu chỉnh.[117] Các sự kiện chính về niên đại chính
xác trong các luận cứ này dựa vào các kết quả tính toán thiên
văn học. Sonam Morup xác định Đức Phật Niết-bàn vào ngày 11
tháng 4 năm 487 TTL.
-
Vì vậy, có một số điểm bất đồng trong các nghiên cứu đã được
đề cập ở trên về đánh giá các truyền thống Ấn Độ. Nhiều kết
luận về ngày Đức Phật Niết-bàn từ 2066 TTL (D. R. Mankad), cho
đến 1807 TTL (V. G. Ramachandran), 1168 TTL (K.D. Sethna), 544
TTL (K. C. Varma), 487 TTL (Sonam Morup), 486 TTL (G.
Yamazaka), khoảng 483 TTL (A. K. Narain), giữa 420 TTL và 380
TTL (A. Bareau), khoảng 404 TTL (R. Gombrich), giữa 410 TTL và
390 TTL (K. R. Norman), khoảng 400 TTL (R. Hitaka), khoảng 397
TTL (K. T. S. Sarao), khoảng giữa 400 TTL và 350 TTL (H.
Bechert), 383 TTL (H. Nakamura), 368 TTL (A. Hirakawa), thậm
chí cho đến 261 TTL (P. H. L. Eggermont).
-
V. NGUỒN GỐC VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA CÁC BIÊN NIÊN ĐẠI ĐỨC PHẬT TRUYỀN THỐNG
-
Mục tiêu của tập hội thảo chuyên đề về niên đại của Đức Phật
không chỉ khảo sát các vấn đề làm thế nào và chúng ta có thể
quyết định niên đại của Đức Phật lịch sử đã được bao xa. Nhiệm
vụ không kém phần quan trọng là bao gồm khảo sát nguồn gốc và
quá trình phát triển lịch sử của biên niên sử khác nhau của
Đức Phật mà đã được các Phật tử sử dụng qua nhiều thời đại
cũng như khảo sát niên đại đã được các cộng đồng tôn giáo khác
đặt định, mà họ đã ghi trong hệ thống tôn giáo của họ như là
theo tôn giáo Manichaean và Bonpo.
-
Người viết bắt đầu bằng biên niên sử của Thượng Toạ Bộ, trong
suốt quá trình đó biên niên sử Phật lịch Thượng Toạ Bộ được
nổi bật số một. Như đã đề cập ở trên, tất cả các Phật tử đã
chấp nhận Phật lịch này trong các phong trào Phật giáo thế
giới.[118] Nguồn gốc của biên niên sử này thực sự còn gây
nhiều tranh luận. Một số học giả còn tiếp tục đồng ý với
Wilhelm Geiger cho rằng niên đại của vua Tích Lan
Devaanampiyatissa lên ngôi năm 236 sau Đức Phật Niết-bàn, vốn
có liên hệ rất gần với niên đại 218 của vua A'soka lên ngôi
sau Đức Phật Niết-bàn," thuộc về niên đại đáng tin tưởng và
được truyền thừa qua nhiều thế hệ, và nó phải được xem như là
bộ xương của biên niên sử Tích Lan."[119] Giả thuyết này, như
chúng ta đã thấy còn gây rất nhiều tranh luận. Điểm quan trọng
nhất để đánh giá giá trị của biên niên sử này, dĩ nhiên cần
giải thích cách tính nhầm trong lịch của Thượng Toạ Bộ hiện
nay. Điều này đã được nhận ra từ thời điểm nghiên cứu của G.
Turmor như chúng tôi đề cập ở trên. Bài viết của tôi trong tập
này là cố gắng tóm tắt các cách lý giải của người khác để trả
lời vấn đề này, cũng như quan điểm riêng về chủ đề (cùng tác
phẩm, tr. 253-286).
-
Biên niên sử của Thượng Toạ Bộ được sử dụng trong các tài liệu
bia ký (không còn bị
gây
tranh luận) tương đối cũ về Phật lịch được tìm thấy ở Ấn Độ,
đó là bia ký ở Bodhgayaa có niên đại 1813 sau Đức Phật
Niết-bàn. Những vấn đề tranh luận cũ có liên quan đến cách
giải thích niên đại này và cách giải quyết vấn đề đã được
Cornelia Mallebrein trình bày.[120] Biên niên sử của Thượng
Toạ Bộ dường như đã ảnh hưởng đến các truyền thống Bắc phương
Phật giáo, ví dụ như tác phẩm Li-yul-gyi-lo-rgyus, một
tác phẩm lịch sử cổ đại của người Khotan được viết bằng ngôn
ngữ Tây Tạng[121], một tác phẩm biên niên của truyền thống
khác là Ha-dba"n-blo-gros-bza"n-po (Sure'samatibhadra) đã dược
các sử gia Tây Tạng lưu truyền. Tác phẩm này xuất phát từ ký
sự của một vị Tăng Saakya'sribhadra người Kashmir đã viếng
thăm Tây Tạng năm 1204-1213,[122] và từ thông tin biên niên kỷ
được tìm thấy trong một bản văn viết tay của người Nepal về
tác phẩm Hevajraprakaa'sa, có niên đại 1811 sau Phật
niết-bàn. Chú thích của bản viết tay này đã được đề cập
trong bài "Bàn về Niên Đại Đức Phật Lịch Sử theo Truyền Thống
Nepal"[123] của Mahes Raj Pant (Symp IV,1, pp.358-362).
So với biên niên sử của Thượng Toạ Bộ thì tác phẩm
Sure'samatibhadra khác hơn 1 năm, trong khi bản viết tay
Hevajrprakaa'sa khác 5 năm. Thật rõ ràng, mối quan hệ, từ đó,
(mặc dù không phải luôn luôn chính xác), kiến thức về biên
niên sử Thượng Toạ Bộ được truyền sang Nepal, Tây Tạng, và
Trung Á phải đã có mặt trong các cộng đồng Thượng Toạ Bộ ở
Bodhgayaa và đặc biệt ở các tu viện Tích Lan, đã xuất hiện ở
đó nhiều thế kỷ.
-
Liên quan đến việc sử dụng biên niên sử của Thượng Toạ Bộ ở
Thái Lan, Oskar von Hinuber cho tôi biết rằng việc sử dụng
biên niên sử được biết sớm nhất ở Thái Lan được tìm thấy trên
bia ký tượng Phật ở Bắc Thái Lan có niên đại 2039 theo Phật
lịch (1495 / 96) TL.[124]
-
Nhiều ý kiến về niên đại Đức Phật trong phong trào chấn hưng
Phật giáo được Petra Kieffer-Pulz và học thuyết biên niên sử
khác được các Phật tử Theravaada hiện nay trình bày cũng được
bàn thảo trong tập đóng góp này.
-
Có lẽ ở đây cũng nên thêm lời nhận xét về tài liệu được xuất
bản hiện nay bao gồm một truyền thống chưa được biết đến về
niên đại Đức Phật Niết-bàn. Đây là một phần còn sót lại của
tác phẩm Sankrit Lokapraj~naapti, tác phẩm này cho
chúng ta biết khoảng cách 540 năm khi Pu.syaputra lật đổ triều
đại Mauryava'msa và chính ông đã chiếm hữu thành
Paa.taliputra. Bản văn chỉ là một phần còn sót lại và do đó
chúng ta không biết chắc chắn từ sự kiện nào năm 540 được
tính. Siglinde Diestz đã luận rằng sự kiện này có khả năng là
niên đại Đức Phật Niết-bàn.[125]
-
Về sau, các truyền thống Tây Tạng và Ấn Độ được Gunter
Gronbold trình bày trong bài nghiên cứu tổng quát về niên đại
của Đức Phật trong những tác phẩm Mật Tông[126] và trong giải
thích cứ liệu về niên đại Đức Phật như đã được tìm thấy trong
tác phẩm nổi tiếng "Lịch Sử Giáo Lý" của Claus Vogel.[127]
Trong hai tập hội thảo chuyên đề, những bài viết phụ liên quan
đến truyền thống Tây Tạng được đưa vào, đó là "Niên Đại của
Đức Phật Thích-ca-mâu-ni theo Nguồn Sử Bompo"của Per
Kvaerne,[128] "Ghi Chú về Cách Tính của Ấn Độ và Tây Tạng về
Đức Phật Niết-bàn và Khoảng Thời Gian Hoằng Pháp của
Ngài"[129] của David Seyfort Ruegg, cũng như tuyển tập của
những tài liệu như vậy từ các nguồn được Champa Thupten
Zongtse tuyển chọn[130] và của E. Zabel.[131]
-
Vì Phật giáo đóng vai trò then chốt trong lịch sử Trung Á, các
truyền thống về niên đại Đức Phật Niết-bàn đã được khám phá
trong những tác phẩm Trung Á cổ đại tạo nên một chủ đề hấp dẫn
mà đã được Klaus Ruhrborn khảo cứu,[132] còn truyền thống
Manichean đã được Wener Sundermann đánh giá trong bài "Truyền
Thống Manichaean về "Niên Đại Đức Phật Lịch Sử."[133] Các cứ
liệu của người Tokharian được K.T. Schmid đề cập.[134] Theo
tài liệu có được từ các nhà chuyên gia dẫn đầu về lãnh vực,
chưa có cứ liệu nào về Đức Phật Niết-bàn đưa ra trong các bản
văn của người Sogdia, trong khi đó chỉ có một trích dẫn liên
hệ đến chủ đề trong một tác phẩm của người Khotan.[135] Các
tham khảo dựa vào truyền thống Mông Cổ được Klaus Sagaster
trình bày.[136]
-
Về niên đại của Đức Phật, các truyền thống Đông Á có rất nhiều
khúc quanh hơn các truyền thống Tây Tạng. Các truyền thống
Trung Quốc cũng được điểm qua trong bài đóng góp "Bàn về Niên
Đại Đức Phật theo Truyền Thống Trung Quốc" của Herbert Franke
cũng được in trong tuyển tập này.[137] Về các bài đóng góp
khác đối với hội thảo chuyên đề này liên quan đến các truyền
thống Đông Á bao gồm các bài đánh giá về nguồn sử liệu của
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Đó là các bài
của Hubert Durt,[138] của Lewis Lancaster, "Niên Đại của Đức
Phật theo Phật Giáo Trung Quốc"[139]; của Bhikkhu Paasaadika,
"Các Hệ Thống Biên Niên Sử Phật Giáo Truyền Thống: Các Truyền
Thống Việt Nam"[140], của Erhard Rosner, "Vài Nhận Xét về Khảo
Luận của Yu Cheng – hsieh liên quan đến niên đại của Đức
Phật,[141] và Chen Yen- huei, "Nghiên Cứu về Niên Đại Đức Phật
của Người Trung Quốc."[142]
-
Ở
Indonesia, Phật giáo truyền thống chỉ phục hưng trong tình
trạng tôn giáo Bali hỗn hợp được biết như "Siva-
Buddhism."[143] Bài khảo cứu về các biên niên sử ở Indonesia
của J. G. de Casparis không cung cấp thêm dữ liệu nào về niên
đại Đức Phật. [144] Giáo sư J. Ensink (Groningen) đã cung cấp
cho người viết biết rằng cho đến nay không tìm thấy dấu vết
nào của truyền thống cổ đại liên quan đến niên đại Đức Phật
được khám phá ở Indonesia.[145] Các Phật tử Indonesia hiện đại
thì theo biên niên sử Thượng Toạ Bộ.
-
Cuối cùng, cũng nên đề cập ở đây rằng Werner Sundermann đã
khảo sát truyền thống của tín đồ thờ lửa (Zoroastrian) liên
quan đến niên đại Đức Phật, ở đó Đức Phật được biết dưới tên
"B‡ daasp"như một nhân vật huyền thoại thuộc về quá khứ xa
xôi.[146] Trong hệ thống biên niên sử của đạo bái hoả, B‡
daasp có lẽ có niên đại khoảng 6254 hoặc 6255, tương ứng với
2745 hoặc 2746 trước khi Zarathustra xuất hiện.
-
VI. THUYẾT NGÀN NĂM
TRONG CÁC TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
-
Một yếu tố quan trọng đang chú ý về niên đại của Đức Phật
trong số những Phật tử trong các giai đoạn sau là niềm tin của
họ cho rằng lịch sử Phật giáo đã được phát triển phù hợp với
qui luật nào đó đã được Đức Phật tiên đoán. Như vậy, bằng cách
tính khoảng cách từ ngày Đức Phật Niết-bàn cho đến thời đại
họ, họ có thể xác định thời điểm của họ trong toàn bộ lịch sử
Phật giáo như nó tương ứng với sự kiện nào đó trong lịch sử
thế giới.
-
Những lời tiên đoán về thời gian của chánh pháp, mạt pháp và
thời gian Đức Phật tương lai, Phật Di Lặc (Maitreya) được giải
thích rất chi tiết trong truyền thống Phật giáo. E.ٍ Lamotte
và E. Leumann đã trình bày bài khảo cứu của mình toàn diện về
những vấn đề như vậy trong Phật giáo Ấn Độ.[147] Tất cả truyền
thống Phật giáo chính đã truyền thừa những tác phẩm về đề tài
này, và nó đã được biên tập và chuyển dịch sang nhiều ngôn ngữ
khác nhau, ví dụ như Anaagatava'msa bằng Paali,
Maitreyavyaakarana bằng Sanskrit, Maitreyasamiti bằng tiếng
Khotan, Maitrisimit bằng tiếng Tokhar, và bằng ngôn ngữ Uigur,
v.v…vẫn còn có nhiều hệ thống tín ngưỡng nhỏ hơn như vậy trong
thời kỳ Phật giáo muộn, đáng chú ý nhất là trong hệ thống
Kaalacakra (bánh xe thời gian), có nguồn gốc từ Ấn Độ
và đã ảnh hưởng sâu sắc đến Phật giáo Tây Tạng. Các cách tính
biên niên sử của giới Phật tử Tây Tạng như đã trình bày trong
tập này phải được hiểu là trái ngược với bối cảnh này. Những
trào lưu tư tưởng tin vào Đấng Cứu Thế cầu mong Bồ-tát Di Lặc
ra đời, vì vậy đã có nhiều biến động và phát sinh nhiều cuộc
canh tân trong lịch sử Trung Quốc.[148] Các trào lưu cứu độ
sôi nổi đó phát triển mạnh đặc biệt ở Đài Loan,[149] và ngay
cả nó truyền sang Indonesia. Những người theo các trào lưu này
đại diện một trong bảy giáo phái của Phật giáo Indonesia ngày
nay.[150] Các tư tưởng cứu độ và mạt pháp của Phật giáo cũng
xuất hiện ở Nhật Bản.[151]
-
Vào năm 1956/1957 Phật giáo Theravaada đã tổ chức lễ kỷ niệm
năm Đức Phật Niết-bàn lần thứ 2500 (Buddha Jayanti) và điều đó
được xem là một điềm lành tối thượng. Như đã đề cập ở phần
伯font>
I, bao nhiêu ước nguyện lớn được ấp ủ để chờ đến năm này. Tuy
nhiên các niềm tin này không luôn đúng hoàn toàn với các tiên
đoán đã được tìm thấy trong văn học A.t.thakathaa, một bộ sớ
chứa đựng những lời giải thích của Theravaada chánh thống về
giáo pháp của đức Phật.[152] Các phong trào kiểu này được M.
Sarkisyanz ghi lại trong "Hiệp Hội Thiên Niên Kỷ của Đức Phật
Đản Sinh."[153]
-
VII. NIÊN ĐẠI ĐỨC
PHẬT TRONG ĐÁNH GIÁ MANG TÍNH LỊCH SỬ
-
Vẫn còn tồn đọng một phương diện khác về vấn đề niên đại Đức
Phật mà người nghiên cứu không thể lãng quên khi nghiên cứu
chủ đề này. Đây là vấn đề thuộc niên đại Đức Phật trong đánh
giá mang tính lịch sử và trong các cách tiếp cận mang tính học
thuyết đối với lịch sử thế giới. Chúng ta gặp nhiều phương
cách đánh giá như thế trong các tài liệu đa dạng của Trung
Quốc về niên đại cuộc đời Đức Phật. Tài liệu hiện có từ trong
các bài tham luận về truyền thống Đông Á (xem Phần trên
伯font>
V) minh hoạ đầy đủ những đánh giá xác thực của các nhà sử học
Trung Quốc đề ra.
-
Đánh giá có tính lịch sử vẫn luôn được các thời đại từ xưa đến
nay ưa chuộng. Một học thuyết được thảo luận phổ biến trong
thời gian khá gần đây đó là "Học Thuyết về Trục Thời Gian"
(Axial Age Theory) do Karl Jaspers khởi xướng. Việc áp dụng
khả thi đối với vấn đề này đã được S. N. Eissenstadt viết
trong "Luận về Ngày Sinh của Đức Phật dưới Phương Diện của Nền
văn Minh Tương Đối."[154] Các cuộc thay đổi văn hoá lớn xảy ra
ở Trung Âu và Bắc Âu trong giai đoạn Đức Phật tại thế tạo
thành chủ đề của chương cuối trong tập sách này. Chủ đề này
được Reinhard Wenskus đóng góp và được đăng trong Symp IV,1[155]
-
VIII. KẾT LUẬN
-
Chúng ta không thể cung cấp cho các sử gia một biên niên sử
mới về Đức Phật mà được tất cả mọi người hay các chuyên gia
đồng ý. Các quan điểm dị biệt vẫn còn tồn đọng rất nhiều. Tuy
nhiên, chúng ta có thể nói rằng tập hội thảo chuyên đề này ít
nhất cũng thực hiện được chức năng làm sáng tỏ "sự thống nhất
chung giữa các học giả là Đức Phật Niết-bàn khoảng những năm
480 TTL"[156] và sự kiện đó đã trở nên một cái gì thuộc về quá
khứ. Hiện nay biên niên sử này chỉ là một trong nhiều giả
thuyết về biên niên sử. Giá trị của nó chỉ là một phần đóng
góp cho tập hội thảo chuyên đề và trong một bài viết bổ sung
mà thôi. Đại đa số các vị đóng góp đều cho rằng niên đại Đức
Phật Niết-bàn đáng lưu ý nhất là sau 480 TL, nhưng họ không
thể đi đến thống nhất
là
sau 480 bao nhiêu năm, và sự kiện này nên là năm nào.
-
Một phương diện lý thú khác liên quan đến nguồn gốc của tài
liệu biên niên sử và sử gia nào đã sử dụng chúng. Trong tuyển
tập này, độc giả sẽ gặp rất nhiều trường hợp bịa đặt khác nhau
về cấu trúc và niên đại đồng thời của biên niên sử. Người viết
xin trích ở đây trường hợp ở Tích Lan. Các sử gia trước kia đã
xây dựng niên đại đồng thời giữa Vijaya, tổ tiên có tính chất
huyền thoại của người Tích Lan và Niết-bàn của Đức Phật để bào
chữa cho lời tuyên bố của người Tích Lan về Vijaya là dân tộc
được Đức Phật chọn lựa (Mahaava'msa 6.1-4). Tuy nhiên, việc
đánh đồng giữa Đức Phật và Vijaya không chỉ là hư cấu của
huyền thoại Tích Lan mà còn từng lạc dẫn các học giả vào niềm
tin cho rằng nó trình bày những thông tin lịch sử đáng tin
cậy. Trường hợp rất nổi tiếng thứ hai là " Đánh đồng niên đại
của Gajabaahu"mà vẫn còn được xem như là nền tảng của biên
niên sử Tamil thời kỳ đầu.[157] Như G. Obeyesekere đã chỉ ra
rất rõ,[158] việc đánh đồng này chỉ cốt để xây dựng huyền
thoại, không hề có cơ sở lịch sử. Một trường hợp khác liên
quan đến niên đại của Kaalidaasa. Câu chuyện kể rằng
Kaaladaasa và Kamaaradaasa (biệt hiệu là Kumaaradhaatusena) là
những người sống đồng thời đã được rất nhiều học giả trước đây
xem như là điều khẳng định về niên đại của Kaalidaasa.[159]
Tuy nhiên, Kumaaradaasa, tác giả của Jaanakiihara.na,
sống sau vua Kumaaradhaatusena đến vài thế kỷ và câu chuyện
này ra đời rất muộn.[160]
-
Quan niệm cho rằng danh sách các vị Tổ Sư Phật giáo trong 3
truyền thống chính của Phật giáo Nguyên thủy không ăn khớp với
"biên niên sử dài đã hiệu chỉnh"[161] đã là điểm xuất phát các
tranh luận và nó còn để lại các luận điểm quan trọng bậc nhất
về khảo cứu niên đại Đức Phật của người biên tập và xác nhận
năm Niết-bàn của Đức phật phải là sau năm 480 TTL mà đã được
hầu hết các học giả phương Tây đồng ý.[162] Người viết cảm
thấy rằng các luận chứng đã được trình bày tại hội thảo chuyên
đề đã làm vững thêm giả định này. Như kết quả của một quá
trình tìm kiếm, dường như những giả định khác nhau liên quan
đến biên niên sử Ấn Độ đã được phần lớn chấp nhận trước cuộc
xâm lăng của Đại Đế Alexnder nên được khảo sát lại. Điều này
có liên quan đến niên đại lịch sử cũng như đối với những ai
phản ánh sự phát triển văn hoá và những tác phẩm văn học, và
nó bao gồm luôn mối liên hệ biên niên sử Ấn Độ và triết học Hy
Lạp cổ đại cũng như mối ảnh hưởng hỗ tương khả dĩ của chúng đã
được trình bày trong bài đóng góp của Wilhelm Halbfass.
-
[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Japanese
Research on the Date of the Buddha" của giáo sư Hajime
Nakamura, đăng trong tuyển tập "When did the Buddha Live?
-
CHÚ THÍCH
-
[1] Jarl Carpentier, "The History of the Jains" The Cambridge
History of India, [Chương "Lịch Sử của Kỳ-na," trong quyển
Lịch Sử Ấn Độ của Đại Học Cambridge] Cambridge, 1992, p. 156.
-
[2] D. Mabel Duff, Chronology of India from the Earliest Times
to the Beginning of the Sixteenth Century, [Biên Niên Sử Ấn Độ
từ Thái Cổ đến Đầu Thế Kỷ XVI], Westminster, 1899, p. 4.
-
[3] Sự khác biệt một năm Phật lịch giữa Tích Lan, Miến Điện và
Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia không có nghĩa là cách tính khác
biệt. Vì Phật lịch ở Tích lan, Miến Điện và Ấn Độ tính năm Đức
Phật Niết-bàn như là năm thứ nhất, còn ở Thái Lan, Lào,
Cam-pu-chia thì không tính. Đối chiếu World Fellowship of
Buddhists [Hội Thân Hữu Phật Tử Thế Giới] (bt.) So sánh
Resolutions from the First to the Twelth General Conferences
[Những Giải Pháp của Hội Phật Giáo Thế Giới từ Đại Hội I đến
XII.], BWF, Bankok, 1980, pp. III-IV.
-
[4] Đối chiếu Bechert, Lebensz, tr. 131.
-
[5] Georg Tumour, Mahaava'msa in Roman Characters [Đại Sử
phiên âm bằng Chữ La-mã], tập1, Ceylon [Colombo], 1837, pp.
XLVIII-L.
-
[6] Claus Vogel đã chỉ ra (Review of Bechert, Lebensz, trong
Indo-Iranian Journal 32, 1980, tr. 50, chú thích 1-2),
Alexander Cunningham và Max Muler đã xuất bản các cách tính
niên đại của họ lần đầu tiên năm 1854, và sau, 1859.
-
[7] Wilhelm Geiger, The Mahaava'msa or The Chronicle of Ceylon
[Đại Sử hay Biên niên sử Tích Lan], đã được dịch sang tiếng
Anh,
London,
1912.
-
[8] André Bareau, "La date du Nirvaa.na," Journal Asiatique,
tập 241 (1953), tr. 27-62.
-
[9] A. K. Wader, Indian Buddhism [Phật Giáo Ấn Độ], ấn bản lần
I,
Delhi,
1970, tr. 44.
-
[10] Hans Wolfgang Schumann, Der Histoische Buddha [Lịch Sử
Đức Phật], Kưln, 1982, tr. 48, 51.
-
[11] Vincent A. Smith, The Oxford History of India, ấn bản lần
2, Oxford, 1923, tr. 48, 51.
-
[12] Vincent A. Smith, The Early History of India from 600 B.C
to the Muhammadan Conquest [Lịch Sử Ấn Độ Thời Kỳ Đầu từ 600
TCN đến Cuộc Xâm Lăng của Muhammadan], ấn bản thứ 4, Oxford,
1924, tr. 50. Trong ấn bản thứ 3, (Oxford, 1914), Smith đã ủng
hộ năm 487-486 TCN "gần như là năm thật" của Đức Phật Niết-bàn
(Sđd, tr. 46-47)
-
[13] Smith, Sđd, ấn bản thứ 4, ghi chú 13, tr. 50.
-
[14] The World Fellowship of Buddhists: Report of The
Inaugural Conference [Hội Thân Hữu Phật Tử Thế Giới: Bản Tường
Thuật Khai Mạc Đại Hội],
Colombo,
1950, tr. 1.
-
[15] Sđd, tr. 85
-
[16] WFB Resolusions [Những giải pháp của Hội Thân Hữu Phật Tử
Thế Giới], ghi chú 4, tr. 5 (Nghị Quyết 9/ 5/ GC 2/ 2495).
-
[17] Sđd, ghi chú 4, tr. 22 (Nghị quyết 52/ 27/ GC 3/ 2498H).
Vấn đề này được bàn thảo suốt đại hội của Hội Thân Hữu Phật Tử
Thế Giới ở Phnom Penh (1961); xem Đại Hội Phật Giáo Thế Giới
lần thứ 6, 14-22 tháng 11, năm 1961, Phnom Penh, s. d, tr.
88-89; so sánh WFB Resolutions [Những Giải Pháp của Hội Thân
Hữu Phật Tử Thế Giới] (ghi chú 4), tr. 67-69 (Nghị quyết 165/
8 GC 11/ 2519 "Twenty-Sixth Birth Centenary of the Buddha" [kỷ
niệm Đức Phật Đản Sinh lần thứ 2600].
-
[18] G. de Zoysa, Sinhala Aryan 424 BC-1986,
Anuradhapura,
1985. Người viết xin cảm ơn Giáo Sư Gamini Wijesuriya và Tiến
Sĩ Gưnter Grưnbold đã cung cấp cho người viết các ấn phẩm này.
Gần đây, ông G.H. de Zoysa đã vui lòng gởi cho người viết tập
sách gần đây nhất của ông: The Correct Buddhist Era [Phật Lịch
Chuẩn Xác] đã hiệu đính,
Anuradhapura,
1988.
-
[19] G. H. Da Soyisaa (de Zoysa), "Niv䲤di
Buddha var.sayè aarambhaya kri. puu. 384" Si5mo.na, Ưaatriiya
Atirèkaya, ngày 9 tháng 8 năm 1987, tr. 20.
-
[20] Xem Petra Kieffer-P쬺,
'The Date of the Historical Buddha in the Buddhist Revival
Movement" [Niên Đại Đức Phật Lịch Sử trong Phong Trào Chấn
Hưng Phật Giáo], xem cùng tác phẩm, tr. 297-307.
-
[21] Nguồn biên niên sử ngắn trong những tác phẩm của Ấn Độ và
Trung Quốc được liệt kê trong Histoire du Buddhisme Indien,
Des origines aa l'ère 'saka, cuả Étienne Lamotte, Louvain,
1958, tr. 14-15.
-
[22] Xem Akira Hirakawa, An Evaluation of the Sources on the
Date of the Buddha [Đánh Giá Nguồn Sử thuộc Niên Đại Của Đức
Phật], Symp IV, 1, tr. 280 với ghi chú 113. Nguồn sử liệu này
cũng được Lamotte trình bày, sđd, ghi chú 22, tr. 15.
-
[23] Về cách tính này, xem bài đóng góp của G. Grunbold, C.
Vogel, H. Franke và K. Rưhrborn trong tập này; đối chiếu với
E. Z첣her,
The Buddhist Conquest of China, [Cuộc Xâm Thực Phật Giáo ở
Trung Quốc], Leiden, 1959, tr. 269-280; bài đóng góp của L.
Lancaster, H. Durt và Bhikkhu Paasaadika trong Symp IV, 1, và
bài đóng góp của Chen Yen - huei, D. Seyfort- Ruegg, E. Zabel,
C. T. Zongtse, K. Sagaster, K. T. Schmidt và E. Rosner trong
Symp IV, 2.
-
[24] Hendrik Kern, Manual of Indian Buddhism [Cẩm Nang Phật
Giáo Ấn Độ], Strassburg, 1896, tr. 108.
-
[25] Wilhelm Geiger, The Diipava'msa and Mahaava'msa and their
Historical Development in Ceylon [Đảo Sử và Đại Sử và Quá
Trình Phát Triển Lịch Sử của Chúng ở Tích Lan], Colombo, 1908,
tr. 5 và các trang rải rác khác.
-
[26] Erich Frauwallner, Uber den geachichtlichen Wert der
alten ceylonesischen Chroniken" Nachgelassene Werke, Ernst
Steinkellner biên tập, Wien, 1984, tr. 7-33.
-
[27] E. J. Thomas, "Theraavaadin and Sarvaastivaadin Dates of
the Nirvaa.na" [Niên Đại Đức Phật Niết-bàn của Thượng Toạ Bộ
và Nhất Thiết Hữu Bộ] tập B. C. Law, phần 2, Poona, 1946, tr.
18-22.
-
[28] G. C. Mendis, "The Chronology of the Early Paali
Chronicles of Ceylon" [Bảng Niên Đại của Biên Niên Sử Văn Học
Paali Nguyên Thuỷ], University of Ceylon Review 5, no. 1
(1947), tr.39-54.
-
[29] P.H. L. Eggermont, "New Notes on A'soka and His
Successors" [Các Chú Thích Mới về A'soka và Những Người Kế Vị
Ông], phần 1-4, Persica 2 (1965 / 66), tr. 27-70; 4 (1969),
tr. 77-120; 5 (1970 / 71), tr. 69-102; 8 (1979), tr. 55-93.
-
[31] Để biết thêm chi tiết về vấn đề này, hãy xem Heinz
Bechert, "The Dates of the Buddha and the Origin and Spread of
the Theravaada Chronology" [Niên Đại của Đức Phật, Nguồn Gốc
và Phát Triển của Biên Niên Sử Theravaada], xem cùng tác phẩm,
tr. 265 vctkt, và Bechert, Lebensz, tr. 145-149.
-
[31]Để biết thêm khảo sát của người Nhật Bản về niên đại của
Đức Phật, hãy xem Hajime Nakamura, "Japanese Research on the
Date of the Buddha" [Nghiên Cứu của Nhật Bản về Niên Đại Đức
Phật], xem cùng tác phẩm, tr. 135-137. Xem cùng tác giả, Phật
Giáo Ấn Độ, bài khảo cứu với nhiều ghi chú thư mục tham khảo,
(Indian Buddhism, A Survey with bibliographical notes), Tokyo,
1980, tr. 13-15.
-
[32] Akira Hirakawa, "An Evaluation of the Sources on the Date
of the Buddha" [Đánh Giá về Nguồn Niên Đại của Đức Phật],
Symp,IV, 1, tr. 252-295.
-
[33] Hajime Nakamura "Mauryoo-oochoo no nendai ni tsuite"
[Niên Đại của Triều Đại Maurya], Toohoogaku 10 (1955), tr.
1-16; cùng tác giả "A Glimse into the Problem of the Date of
the Buddha," [Sơ Khảo Vấn Đề Niên Đại Đức Phật], Symp IV, 1,
tr. 296-299.
-
[34] Genmyoo Ono, "On the Problem of Ưaakyamuni's
Nirvaa.na-year" [Bàn Về Vấn Đề Năm Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
Niết-bàn], phần 1., 1905 [trích dẫn theo Hikata, Ryuushoo: "On
the Period of Lifetime of Ưaakyamuni" [Bàn về Giai Đoạn Sinh
Thời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni]; cùng tác giả Studies in
Buddhism and Buddhist Culture [Nghiên Cứu Phật Giáo và Văn Hoá
Phật Giáo], Naritasan, 1985 (Bộ Chuyên Khảo của Phân Viện
Nghiên Cứu Phật Học Naritasan, 1), tr. 6, ghi chú 5 (2); xem
Nakamura, "Japanese Research….," xem cùng tác phẩm, tr. 136.
-
[35] Hakuji Ui, "On the Time of Buddha's Nirvaa.na" [Bàn về
Niên Đại Đức Phật Niết Bàn], Gendai Bukkyoo, tháng 6/ 10 năm
1924; tái bản tại Indo Tetsugaku Kenkyuu (Khoa Nghiên Cứu
Triết Học Ấn Độ), tập 2, Tokya, 1925, tr. 3-111.
-
[36] Ryuushoo Hikata, "On the Period of Lifetime of
Ưaakyamuni" [Bàn về Giai Đoạn Sinh Thời của Đức Phật
Thích-ca], Transactions of the Japan Academy [Các Văn Kiện của
Viện Hàn Lâm Nhật Bản], tập 36, số 3 (1980), tr. 187-202; cùng
tác giả dịch "On the Period of Life-time of Sakyamuni" "Thời
Đại của Đức Phật Thích-ca sinh thời," "Nghiên Cứu Phật Giáo và
Văn Hoá Phật Giáo, Naritasan, 1985 (Monograph Series of the
Naritasan Institute for Buddhist Studies 1) [Bộ Chuyên Khảo
của Phân Viện Phật Học Naritasan], tr. 1-20. Bàn về giả thuyết
của Hikata, xem Bechert, "The Dates...." xem cùng tác phẩm,
tr. 276-277.
-
[37] Xem "Dotted Record" [Chúng Thánh Điểm Ký], inter alia, P.
H. L. Eggermont, The Chronology of the Reign of A'soka Moriya
[Biên Niên Sử của Triều Đại A'soka Moriya], Leiden, 1956, tr.
141-143 và Bechert, Lebensz, tr. 137-141. Các cách lý giải
cùng chủ đề với nhiều lối giải thích khác nhau được Geni'chi
Yamazaki đóng góp trong Symp, IV, 1, tr. 318-320; Hurberb Durt
(SympIV,1, tr. 486-489); và Heinz Bechert, "the dates…" xem
cùng tác phẩm, tr. 260-261. Cũng nên xem S. Dietz, "History of
Research..." xem cùng tác phẩm, tr. 72.
-
[38] Geni'chi yamazaki, "The Lists of the Patriarchs in the
Northern and Southern Legends" [Danh Sách của các Tổ Sư theo
Truyền Thống Bắc Phương và Nam Phương], Symp IV, 1, tr.
313-325.
-
[39] E鴩enne
Lamotte, Histoire du Buddhisme Indien. (ghi chú 22), tr.
13-15; tái bản trong Symp IV, 1, tr. 22-23.(So sánh Bản dịch
Anh ngữ của tác phẩm Lamotte củaSara Webb-Boin, History of
Indian Buddhism, Louvain-la-Neuve, 1988, tr. 13-14.
-
[40] Lamotte dịch, sđd, (ghi chú 22), tr. 14.
-
[41] E鴩enne
Lamotte, "Le boudidhisme de Saakyamuni" Nachrichten der
Akademie der Wissenschaften in Gưttinggen, Phil.-hist. Kl.
1963, tr. 84, và bài đóng góp của ông trong The World of
Buddhism, được Heinz Bechert và Richard Gombrich, London,
1984.
-
[42] Heinz Bechert , "The Date of the Buddha Reconsidered"
[Xét Lại Niên Đại Đức Phật] Indologica Taurinensia 10 (1982),
tr. 22-36
-
[43] Bechert, sđd, tr. 36, ghi chú 33.
-
[44] Bechert, sđd, tr.32, ghi chú 21. Về bài của Eggermnt, xem
ghi chú 30 ở trên.
-
[45] Heinz Bechert, "A Remark on the Problem of the Date of
the Mahaaviira [Nhận Xét về Vấn Đề Niên Đại của Mahaaviira],
Indologica Taurinensia 11 (1983), tr. 287-290.
-
[46] Bechert, Lebensz, Die Lebenszeit des Buddha_ das
䬴este
feststehende Datum der Indischen geschichte? (The Life Times
of the Buddha- The Earliest Established Date of Indian
History) tr. 127-184.
-
[47] Người viết xin phép được nói rằng niên đại Đức Phật
Niết-bàn là khoảng 85-105 năm trước lễ đăng quang của vua
A'soka (Bechert, "The Dates.., tr. 36.
-
[48] Lamotte trong The World of Buddhism, [Thế giới Phật Giáo]
(ghi chú 42), tr. 41
-
[49] Bechert," The Dates …, xem cùng tác phẩm, , tr. 253-286.
-
[50] Jens-Uwe Hartmann, "Research on the date of the Buddha:
South Asian Studies Pulished in Western languages" [Nghiên Cứu
về Niên Đại của Đức Phật: Nam Á Học, Được Xuất Bản Bằng Ngôn
Ngữ Phương Tây], tr. 107-124.
-
[51] M. Krishnamacharia, History of the Classical Sanskrit
Literature [Lịch Sử Văn Hoá Sanskrit Cổ Điển], (ấn bản lần thứ
nhất, 1937), ấn bản lần 3, Delhi, 1974.
-
[52] Krishnamachariar, sđd, Lời giới thiệu,
䤠33-98,
tr. XLIII-CX.
-
[53] Krishnamachariar, sđd,
䠶0,
tr. LXXXI.
-
[54] Krishnamachariar, sđd,
䠴1,
tr. LI.
-
[55] V. G. Ramachandran, Gautama Buddha, the Date and Time
[Đức Phật Gautama,Niên Đại và Thời Gian], Madras, khoảng 1984,
tr. 38; và Hartmann, Research on the Buddha… [Nghiên cứu về
Niên Đại Đức Phật...,] tr.118.
-
[56] Shriram Sathe, Dates of the Buddha [Niên Đại của Đức
Phật], Hyderabad, 1987. Xem thêm Hartmann, Research on the
Date of the Buddha [Nghiên Cứu về Niên Đại Đức Phật], tr. 119.
Theo người viết, năm Đức Phật Niết-bàn là 2066 TCN, nếu dựa
vào nguồn sử Ấn Độ truyền thống (D. R. Mankad, Puranic
Chronology [Biên Niên Sử của Puraa.na], Vallabhvidnagar, 1951,
tr. 169-176.
-
[57] Chen Yen-huei, "Die Chinesischen Studien zum Datum des
Buddha" (Symp IV, 2, pp. 84-102).
-
[58] Bài viết cùng chủ đề của N.L. Westergaard đã được tái bản
trong Hội Thảo Chuyên Đề IV, tr. 366-400.
-
[59] xem phần sau trang 107-124;
-
[60] Cùng tác phẩm, tr. 125-130.
-
[61] Cùng tác phẩm, tr. 131-133.
-
[62] Cùng tác phẩm, tr. 135-137.
-
[63] Cùng tác phẩm, tr. 343-350.
-
[64] Lewis Lancanter, "The Dating of the Buddha in Chinese
Buddhism" (Symp IV, 2, pp.84-102).
-
[65] Chen Yen-huei, "Chinesische Studien zum datum dé Buddha,"
(Symp IV, 2, pp.84-102).
-
[66] Herbert H䲴el,
"Archaeological research on Ancient Buddhist Sites," (below,
pp.141-159).
-
[67] Hermann kulke, "Some Considerations on the Significance
of Buddha's Date for the History of North India" (below,
pp.161-167).
-
[68] Georg von Simson, "The Historical Background of the Rise
of Buddhism and the Problem of Dating" (below, pp.169-177).
-
[69] Adelheid Mette, "The Synchronism of the Buddha and the
Jina Mahaaviira and the Problem of the Chronology in Early
Jainism" (below, pp.179-183).
-
[70] Oskar von Hmuber, "Linguistic Considerations on the Date
of the Buddha" (below, pp. 185-194).
-
[71] Wilhelm Halbfass, "Early Indian references to the Greeks
and the First Encounters between Buddhism and the West,"
(below, pp.195-209).
-
[72] André Bareau, "Some Considerations on the Problem Raised
by the Date of the Parinirvaa.na of the Buddha" (below,
pp.211-219).
-
[73] Heinrich von Stietencron, "The puraa.nic Genealogies and
the Date of the Buddha" (below, pp. 221-249).
-
[74] P.H.L Eggermont, "The Year of Mahaaviira Decease" (Symp
IV,1, pp.138-151).
-
[75] Lambert Schmithausen, "An Attempt to Estimate the
Distance in Time between A'soka and the Buddha in Terms of
Doctrinal History" (Symp IV,1, pp.110-147).
-
[76] Siegfried Lienhard, "Note on the Date of the Historical
Buddha and Classical Poetry" (Symp IV,1, pp.194-196).
-
[77] Ryotaro Tsuchida, "Die geanologie des Buddha und seiner
Vorrfahren" (Symp IV, 1, pp.108-131).
-
[78] Symp IV, 2, p.143.
-
[79] Symp IV, 2, p.196.
-
[80] Cách lý luận này chưa được bàn thảo trong hầu hết những
bài đóng góp trong Hội thảo chuyên đề, nhưng nó được xem xét
trong bài viết của người viết trong tập này "Niên Đại của Đức
Phật...," tr. 282-283.
-
[81] Gananath obeyesekere, "Myth, History and the Numerology
in the Buddhist Chronicles" (Symp IV, 1, pp. 152-182).
-
[82] Otto Stein, "Số 18," The Poona Orientalist 1, số 3 (tháng
10, 1936), tr. 1-37, và "Ghi chú thêm về số 18," The Poona
Orientalist 2 (1937), tr. 164ff; Otto Stein giải thích lại,
KleineSchriften, Friedrich Wilhem biên tập, Stuuugart, 1985,
tr. 513-553; xem phần đặc biệt tr. 538-542. Tầm quan trọng của
số 18- như số quy uwowcs trong Phật giáo đã được các học giả
đề cập đến, như: H. Kern và É. Lamotte; xem H. Bechert,
"Einleitung," Zur Schulxu gehưrigkeit von Werken der
Hiinayaana Literatur, H. Bechert biên tập, tập 1. Gưttingen,
1985, tr. 40.
-
[83] Carl Joachim Classen, "Computing Dates of the very
Distant past: Some remarks on the Greek and Roman Practice"
[Cách Tính Niên Đại của Thời Thái Cổ: Vài Nhận Xét về Cách
Tính của Người Hy Lạp và La Mã], Symp IV, 2, tr. 351-362.
-
[84] André bareau, "Some Considerations Concerning the Problem
Posted by the date of the Buddha's parinirvaa.na" below,
pp.211-219.
-
[85] Xem ghi chú số 8 ở trên.
-
[86] Đoạn trích dẫn từ "English Summary: Some Considerations
Concerning the Problem Posted by the date of the Buddha's
Parinirvaana" [tóm tắt của người Anh: Một Số Ý Kiến Về Vấn Đề
Niên Đại Đức Phật Niết-Bàn], Symp IV, 1 pp. 220-221.
-
[87] David P. Hennige, Chronology of Oral Traditions: Quest
for a Chimena, Oxford, 1974.
-
[88] "The Year of the Buddha's Mahaaparanirvaa.na, (Symp
IV,1,pp. 237-251).
-
[89] Giả thuyết biên niên sử này làm cơ sở cho bài "The Year
of Mahaaviira's Decease" [Năm Nhập Diệt Của Mahaaviira] của
Eggermont, Symp,IV, 1, tr. 138-151.
-
[90] Akira Hirakawa, "An Evaluation of the Sources on the Date
of the Buddha" (Symp, IV,1, pp.252-295)
-
[91] Symp IV, 1, pp. 295
-
[92] Hajime Nakamura, "A Glimpse into the Problem of the Date
of the Buddha" (Symp IV,1 pp. 296-299).
-
[93] Nakamura, Symp IV, 1, p. 299.
-
[94] Xem bài ở Tohogaku của nakamura được trích ở trên, ghi
chú 34
-
[95] K.R. Norman, "Observations on the Dates of the Jina and
the Buddha" (Symp IV, 1, pp. 300-312).
-
[96] Bài viết của Norman trong Hội Thảo Chuyên Đề đã được in
trong Các Bài Viết Chọn Lọc IV của ông, Oxford, 1993, tr.
185-201.
-
[97] Phụ lục B, (1) trong Symp IV,1, tr. 322-323.
-
[98] Symp IV,1, p. 319.
-
[99] Sđd, tr.320.
-
[100] Xem Bechert, "The Dates…" xem cùng tác phẩm, tr. 263.
-
[101] Phụ lục B (3) trong Symp IV,1, p.263.
-
[102] Bechert, Lebensz, xem phần trên, ghi chú 1.
-
[103] Htel, "Archaeological research…," xem cùng tác phẩm, tr.
141-159; Kulke, "Some Considerations…," xem cùng tác phẩm, tr.
161-167; G. v. Simson, "The History Background ," xem cùng tác
phẩm, tr. 169-177.
-
[104] Richarch Gombrich, "Dating the Buddha: A Red Herring
Revealed," (Symp, IV, 2, pp.237-259).
-
[105] Đi sâu vào vấn đề này, xem H. Bechert, "The Dates…), xem
cùng tác phẩm, tr. 257-258.
-
[106] Tựa bằng tiếng Anh: "Indicating in a rather vague manner
some dates on the Budha."
-
[107] Ruth Walldén, "Notes on somes Days on the Buddha in the
Ma.nimekalai" (Symp, IV, 2, pp. 200-207).
-
[108] Niên đại khá sớm được A. S. P. Ayyar (1947) rút ra từ
tác phẩm Ma.nimèkalai; M. Mathialagan đã tham khảo niên đại
này trong Bách Khoa Văn Học Tamil (Encyclopaedia of Tamil
Literature), Shu Hikosaka và nhiều tác giả biên tập, tập 2,
Madras, 1992, tr. 536. Giáo Sư P. Schalk, Uppasala đã giới
thiệu phần tham khảo này.
-
[109] Xem A. K. Narain, "The Dates of the Gotama Buddha's
Parinirvaa.na" [Niên Đại của Đức Phật Niết-bàn], (Symp IV, 2,
pp.185-199).
-
[110] K. T. S. Sarao, The Origin and Nature of Ancient
Buddhism [Nguồn Gốc và Bản Chất Phật Giáo Cổ Đại], Delhi,
1989, tr. 13-28; cùng một tác giả, "Did the Buddha Really
Belong to the Sixth-Fifth Century BC" [Đức Phật Sống vào thế
kỷ VI-V TCNcó thật không?], Philodophy, Grammar, and Indology:
esays in Honour of Professor Gustav Roth, [Nghiên Cứu về Triết
Học, Văn Phạm và Ấn Độ học: Các Bài Bình Luận Giá Trị củaGiáo
Sư Gustav Roth], do Hari Shankar Prasad biên tập, Delhi, 1993,
tr. 303-317.
-
[111] Sarao, "Did the Buddha Really Belong…" [Đức Phật Sống
vào Thế Kỷ VI-V TCN có thật không?] (ghi chú 73), tr. 304.
-
[112] Kailash Chandra Varma, "Date of the Nirvaa.na of the
Buddha" [Niên Đại Đức Phật Niết-bàn], History and Archaeology:
Prof. H. D. Sankalia, Felicitaion Volume [Lịch Sử và Khảo Cổ
Học: Giáo Sư H. D. Sankalia], Bhaskar Chatterjee biên tập,
Delhi, 1989, tr. 25-38.
-
[113] Varma, sđd, (ghi chú 75), tr. 38.
-
. [114] Ancient India in A New Light [Ấn Độ Cổ Đại
trong Nguồn Sáng Mới],
New Delhi, 1989.
-
[115] J. U. Hartmann, "South-Asian Studies…" [Những Nghiên Cứu
Nam Á…], xem cùng tác phẩm, tr. 118-119K. D. Sethna, Ancient
India in A New Light [Ấn Độ Cổ Đại trong Nguồn Sáng Mới], New
Delhi, 1989.
-
[116] Sonam Morup, The Date of the Buddha's Parinirvaa.na
[Niên Đại Đức Phật Niết-bàn], New Delhi, 1990.
-
[117] Sonam Morup, The Date of the Buddha's Parinirvaa.na, New
Delhi, 1990.
-
[118] Xem ở trên
䱮
-
[119] Wilhelm Geiger, "The Trustworthiness of the Mahaava'msa"
(1930) [Niềm Tin của Mahaava'msa], cùng tác giả Kleine
Schriften zur Indologie und Buddhismuskunde, Heinz Bechert
biên tập,
Wiesbaden,
1973, tr. 289-290
-
[120] xem cùng tác phẩm, tr. 287-295
-
[121] Xem Bechert phía dưới, tr. 255.
-
[122] Xem Gưnbold, xem cùng tác phẩm, tr. 325-326.
-
[123] Mahes Ra Pant, "On the dates of the Historical Buddha
according to Nepalese Traditions" (Symp IV, 1,pp. 358-362).
-
[124] Giáo Sư O.v. Hin좥r
tham khảo: H. Penth, Gaa'm ca.rk dii.thaan braauddharuup
nai nagar jieya"n hmai (Inscriptions on the Pedestal of Buddha
images in Chiang Mai),
Bangkok,
2519 / 1976, Nr. 12, tr. 88, dòng thứ 2 của bia ký. Muốn
nghiên cứu các mối liên hệ giữa biên niên sử Phật giáo và các
biên niên sử
-
khác ở Thái Lan, xem thêm Sao sainmưng, "Cuula Sakarạa and the
Sixty Cyclical year," Journal of the Siam Society 69 (1981),
tr. 4-12. Về tài liệu tham khảo này, người viết trân trọng ghi
ơn Giáo Sư Oskar von Hin좥r.
-
[125] Siglinde Dietz, "Remark on a Fragmentary List of Kings
of Magadha in a Lokapraj~naapti Fragment," Wiener Zeitschrift
f철die
Kunde S줡siens
33 (1989), tr. 121-128; xem thêm Bechert, Lebensz, tr.
181-182.
-
[126] Trong bài viết, tr. 311-328
-
[127] Xem cùng tác phẩm, tr. 329-341.
-
[128] Per Kvaerne, "The Dates of Ưakyamuni according to Bompo
Sources" (Symp IV, 2, tr. 263-290).
-
[129] David Sey fort Ruegg, "Notes on Some Indian and Tibetan
Reckonings of the Buddha's Nirvaa.na and the Duration of His
Teachings" (symp IV, 2, tr. 263-290).
-
[130] Champa Thupten Zongtse, Tibetan Calculations of the
Parinirvaa.na of the Buddha, (Symp IV, 2, tr. 299-318).
-
[131] E. Zabel, "Tibetische Quellen zur datierung dé
historischen Buddha" (Symp IV, 2, tr. 291-298).
-
[132] Xem cùng tác phẩm, tr. 351-353.
-
[133] Werner Sundermann, "Manichaean Traditions on the Dates
of the Histarical Buddha" (Symp IV, 1, tr. 426-438).
-
[134] K.T.Schmid, "Eine tocharische Quelle zur
Buddha-Datierung" (Symp, IV, 2, tr. 332-333).
-
[135] Người viết xin cảm ơn Giáo sư David N. MacKenzie, người
đã khảo duyệt vấn đề nàyliên quan đến các bản văn của người
Sogdian (lá thư đề ngày 29 tháng tư, 1989). Giáo sư Ronald E.
Emmerck đã báo cho tôi biết ông đã tìm ra dữ liệu niên đại Đức
Phật trong một tác phẩm của người Khiết -đan, đó là lời chú
thích trong bản thảo viết tay cuốn sách của Zambasta, cho
chúng ta biết nó đã được viết 800 năm sau khi Đức Phật
Niết-bàn (nói chuyện cá nhân, ngày 14 tháng 2 năm 1995).
-
[136] Klaus Sagaster, "Das Datum des Buddha nach mongolischen
historischen Texten," (Symp IV, 2, tr.321-331).
-
[137] Herbert Franke, "On Chinese Traditions Concerning the
Dates of the Buddha," (xem cùng tác phẩm, tr. 343-350).
-
[138] Hubert Durt, "La date du Buddha en Corée et au Japon"
(Symp IV, 1, pp. 458-489).
-
[139] Lewis Lancaster,"The Dating of the Buddha in Chinese
Buddhism" (Symp IV, 1, pp. 449-457).
-
[140] Bhikkhu Paasaadika, "Traditional Buddhist Chronological
Systems: Vietnamsses traditions" (Symp IV, 1, pp.490-499).
-
[141] Erhard Rosner, "Somes Remarks on Yui Cheng-hesieh Essay
concerning the Date of the Buddha" (Symp IV,2, pp. 341-347).
-
[142] Chen Yen-heui, "Chinesische Studien zum Datum des
Buddha" (Symp IV,2, pp. 84-102).
-
[143] J. Ensink, "Ưiva-Buddhismus in Java und B ali," Buddhism
in Ceylon and Studies on Religious Syncretism in Buddhist
Countries [Phật Giáo ở Tích Lan và Nghiên Cứu Sự Hỗn Hợp Các
Tôn Giáo ở Các Nước Phật Giáo], ed. Heinz Bechert, Gưttingen,
1978, pp. 178-198.
-
[144] J. G. de Casparis, Indonesian Chronology, [Biên Niên Sử
Indonesia], Leden, 1978 (Handbuch der Orientalistik, III, 1,
Lfg. 1).
-
[145] Lá thư của Giáo Sư Ensink, ngày 12 tháng 2 năm1986.
-
[146] W.Sundermann, "Eine Bemerkung zur Datierung des Buddha
in der mitelpersischen Literature der Zoroastrier," (Symp
IV,2, pp.334-338).
-
[147] E. Lamotte, Histoire, (note 22), pp. 210-222; Ernst
Leumann, Maitreya-Samiti: Das Zukunftsideal der Buddhisten,
Strassburg, 1010. Cũng nên xem Emil Abegg, Der messiasglaube
in Indiien und Iran, Berlin, 1982, pp. 143-230; và cùng tác
giả, Der Buddha Maitreya, St. Gallen, 1946.
-
[148] Daniel L. Overmyer, Folk Buddhist Religion: Dissenting
Sects in Late traditional China [Phật Giáo Dân Gian: Các Phái
Phi Chính Thống trong Truyền Thống Trung Quốc Cổ], Cambrigde,
Mass., 1976; Erik Z첣her,
"Prince Moonlight: Messianism and Eschatology in Early
Medieval Chinese Buddhism" [Thái Tử Nguyệt Quang: Chủ Nghĩa
Cứu Độ và Mạt Pháp ở Phật Giáo Trung Quốc vào Sơ Kỳ Trung Cổ],
T'oung Pao 68 (1982), pp.1-75.
-
[149] Ví dụ theo tín ngưỡng của I-kuan Tao có 3 giai đoạn có
thể được đề cập; xem David K. Jordan and Daniel L. Ovenmyer,
The Flying Phoenix: Aspects of Chinese Sectarianism in
Taiwan,[Phượng Hoàng Tung Cách: Các Phương Diện của Chủ Nghĩa
Bộ Phái ở Đài Loan] Princeton, N. J. ,1986, pp. 261-263.
-
[150] Heinz Bechert, "Buddhism in Modern Java and bali" [Phật
Giáo ở Java và Bali Ngày Nay], Buddhist Studies (Bukkyoo
Kenkyuu) 20 (1991), p. 175.
-
[151] H. Durt, "La date du Buddha en Corée et au Japon," Symp
IV, 1, pp. 472-473; và Peter Fisher, Studien zur
Entwicklungsgeschichte dé Mappoo-Gedankens and zum
Mappoo-Toomyoo-ki, Hamburg. 1976 (Mitteilungen der
Gesellschaft f철Natur-und
Vưlkerkunde Ostasiens, 65).
-
[152] Niềm tin này và mối liên hệ của chúng với truyền thống
được ghi lại trong sách vở, xe, Richard Gombrich, Precept and
Practice: Traditional Buddhism in the Rural Highlands of
Ceylon [Khái Niệm và Tu Tập: Phật Giáo Truyền Thống ở Cao
Nguyên-Nông Thôn Tích Lan], Oxford, 19______, pp. 284-293.
-
[153] M. Sarkisyanz, Chilliastic Asociations of the Buddha
Jayanti" (Symp IV, 1, pp. 378-382). Đói chiếu: Kitsiri
Malalgoda, "Millennialism in Relation to Buddhism,"
Comparative Studies in Society and History 12 (1970), pp.
424-441; E.M. Mendelson, "A Mesianic Buddhist Asociation of
Upper Burma," Bulletin of the School of Oriental and African
Studies 24 (1961), pp. 560-580.
-
[154] S. N. Eisenstardt, "The Dispute about the Birthday of
the Buddha from a Comparative Civilizational Perspective,"
(Symp, IV, 1, pp. 503-504).
-
[155] Reinhard Wenskus, "Mittel-und Norderuopa in der fr쨥n
Eisenzeit," Symp, IV, 12, pp. 506-522.
-
[156] Xem cước chú số 1.
-
[157] K. V. Zvelebil, Tamil Literature,
Wiesbaden,
1974 (A History of Indian Literature X, 1), p.9, note 11;
Idem, Tamil Literature, Leiden 1975 (Handbuch der
Orientalistik, II, 2, 1) pp. 38-39.
-
[158] Gananath Obeyesekere, "Gajabahu and the Gajabahu
Synchronism," The Ceylon Journal of the Humanities 1 (1970),
pp. 25-26 and idem, The Cult of the Goddess Pattini, Chicago,
1984, pp. 361-377.
-
[159] M. krisknamachariar, History of Classical Sanskrit
Literature, [lịch Sử văn Học Sanskrit Cổ Điển], loc.cit. (ghi
chú 52), p.135 (䠳9);
W. Ruben, Kaalidaasa: Die menschliche bedeutung seiner Werke,
berlin, 1956, p. 12.
-
[160] The Jaanakiiharana of Kumaaradaasa, do
S. Paranavitana
và C. E. godakumbura biên tập,
Colombo. 1967, phần Giới Thiệu
-
[161] Symp IV, 1, pp. 226-227) và "The Dates…" xem cùng tác
phẩm, pp. 258-259.
-
[162] Trong phần bình luận về Symp IV, 1 trong Gưttingische
gelehrte Anzeigen 247 (1994), tr. 55-64, mà tôi mới biết gần
đây, R. Gombrich đã chỉ trích tôi một cách sai lầm khi cho tôi
là đã phát biểu trong kỳ đại hội năm 1981: "Có hai loại biên
niên sử, một loại có tính chất ở trong tu viện, một loại thuộc
triều chính. Loại biên niên sử có tính chất thuộc cung đình
dường như được tin cậy hơn" (tr. 46). Tôi chưa bao giờ phát
biểu loại phán đoán như vậy, do đó những lời nhận xét của
Gombrich rõ ràng là lời giải thích sai quan điểm mà tôi đã
liên tục trình bày trong tất cả những ấn phẩm về đề tài này,
và những lời phát biểu của tôi từ năm 1980 cho đến tuyển tập
này. Nếu Gombrich lắng nghe một cách cẩn thận nội dung các bài
hội thảo, tham khảo các bản báo cáo chính thức của hội nghị
đó, thì ông sẽ nhận ra, lời phát biểu đó không phải của tôi mà
của Tiến Sĩ Guruge. Guruge cho rằng "các thông tin dựa trên
những năm được tính theo lịch hoàng gia trong các tập tài liệu
này được xem là có thẩm quyền hơn bởi vì những tác phẩm này
phản ánh rất nhiều truyền thống Hoàng gia như là truyền thống
tu viện" (Tenth International Conference of the International
of Buddhist Studies, Paris 1991, Summary Report, by A.W. P.
Guruge, Paris, 1982, p.4). Trong một cách vội vã khác,
Gombrich truyền bá cái gọi là khám phá niên đại chính xác của
Đức Phật Niết-bàn (xem ở trên, tr.28 và phần sau, tr.275-276)
trong bài mà đã được đăng tải trong Symp IV, 2, như một cống
hiến cho buổi hội thảo về đề tài gây nhiều tranh luận này. Mặc
dù người viết rất ngưỡng mộ tính cách tự tin của ông khi ông
đưa ra giải pháp cuối cùng cho vấn đề của chúng ta, nhưng tôi
phải nói rằng học thuyết của ông dựa vào những giả định chưa
được chứng minh. Vì thế nó có thể được xem như một nỗ lực khác
về cách tính niên đại chính xác, giống như những giả định của
K. T. S. Sarao, G.H. de Zoysa và những người khác. Người viết
sẽ trình bày những nhận định của Gombrich trong một bài viết
khác chi tiết hơn.
|