-
Bức Thông Điệp Từ
-
Con Người Của Đức Phật
-
Thích Trí Chơn
-
--- o0o ---
-
A. Lời Nói Đầu
-
Cuộc đời hoằng pháp của Đức Thích Ca được nhân loại chiêm
ngưỡng, khảo nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn
giáo học, khoa học, triết học, sử học... Song, tất cả đều có
chung một mẫu số rằng: "Suốt 25 thế kỷ qua, Đức Phật, người
sáng lập ra đạo Phật, luôn được coi là một trong những nhà tư
tưởng vĩ đại nhất của nhân loại".
-
Bằng tuệ giác siêu việt đạt được trong đêm hành đạo, Đức Phật
trải gót khắp xứ Ấn Độ, đem hạt giác ngộ gieo khắp "đất tâm",
muốn tất cả chúng sanh đều được giác ngộ như chính Ngài. Và
chẳng bao lâu, hoa trái giác ngộ rộ nở khắp nơi, tạo thành
vườn đạo lý hiện hữu sinh động giữa cuộc đời và liên tục phát
triển trên khắp năm châu cho đến ngày nay.
-
B. Nội Dung Khái Quát Về Đức Phật
-
Sống giam mình trong ngục thất vàng ngọc, và bị ràng buộc bởi
tình ái thê nhi, Thái tử Siddhattha (Sĩ Đạt Đa) vẫn không có
được chút thảnh thơi, an lạc. Cuộc sống luôn bị rình rập bởi
già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não; chàng quyết định từ bỏ
vinh hoa phú quý, làm vị Sa môn vô gia cư để tìm đường giải
thoát, cứu mình và nhân xưng.
-
Gần một năm theo học với hai đạo sĩ Alara Kalama, lãnh đạo
phái Samkhya ở thành Vesali (Phệ Xá Ly) và với Uddaka
Ramaputta, lãnh tụ phái Yoga (Du già) tại kinh đô Rajagaha
(Vương Xá), Sa môn Gotama đã quán triệt tất cả những gì hai
đạo sĩ đạt được, nhưng Ngài không thỏa mãn; vì cho rằng chúng
chưa phải là quả vị giác ngộ tối thượng. Ngài quyết định từ bỏ
hai đạo sĩ, sau đó cùng với 5 đệ tử của Uddaka là Kondanna,
Bhaddya, Vappa, Mahanama và Assaji xuôi về Nam, đến Uruvela
(Ưu Lâu Tần Loa) lập cứ tu hành. Cuộc tìm kiếm chân lý trên
đường khổ hạnh kéo dài sáu năm, kết quả cũng chẳng có gì ngoài
những cảm giác đớn đau, kiệt sức, ngất xỉu.... Ngài một lần
nữa chối bỏ pháp tu (khổ hạnh) vô nghĩa và "tự mình thắp đuốc
lên mà đi".
-
Sau 49 ngày đêm tư duy thiền quán dưới cội cây Assatha, và một
đêm, khi sao mai vừa ló dạng, tuệ giác siêu việt bừng sáng nội
tâm, Sa môn Gotama chứng Vô thượng Chánh đẳng giác (Anuttara
samma samboddhi), được trời, người cung kính với 10 tôn hiệu:
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên Sahampati (Tự Tại
Thiên), Thế Tôn rời cội bồ đề, bắt đầu cuộc hành trình dài 45
năm, truyền bá đạo giác ngộ.
-
Hình ảnh một Thái tử sống trong nhung lục với vợ đẹp, con
xinh, nhận thức được sự thật cuộc đời, vượt thành xuất gia làm
Sa môn, khổ hạnh, cuối cùng tự tu, tự chứng ngộ, nắm được quy
luật vận hành của vũ trụ-nhân sinh, đã trở thành thiên sử kỳ
diệu vô tiền khoán hậu trong lịch sử tôn giáo của nhân loại.
Thiên sử ấy là bản hùng ca, là khúc khải hoàn trác tuyệt vang
vọng trong sự sống suốt gần 3 thiên kỷ nay với những cung bậc
đầy âm điệu, vừa nhân thế, vừa siêu thế qua các điểm dưới đây.
-
I. Ý Nghĩa Thành Đạo:
-
1. Thế Tôn - bậc Thánh khai sáng đạo Phật - là một người như
bao nhiêu con người, tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ
ấy dạy lại cho con người. Ngài không phải là Thượng đế, thiên
sứ hay thần linh ở một thế giới xa xăm nào xuất hiện giữa cuộc
đời. Đức Phật dạy, nếu ai hiểu một cách chân chính về Ngài thì
hãy hiểu rằng, Ngài là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở
đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài
người (Trung Bộ I, kinh số 4, Tr.53). Chân lý được Thế Tôn
chứng ngộ, do đó, cũng ở ngay trong thế giới (hơn 5 tỷ người)
này. Chân lý đó là những quy luật vận hành của vũ trụ-nhân
sinh (định lý Duyên khởi - Paticcasamuppada). Nó tồn tại khách
quan trong sự sống, Đức Phật dù xuất hiện hay không xuất hiện
ở đời, nó vẫn luôn vận hành như vậy (Tương Ưng Bộ kinh II,
Chương I, phẩm 2, tr.51). Định lý này thật là sâu kín, khó
thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu;
chỉ có người trí mới hiểu thấu (kinh Trường Bộ I, số 13,
tr.486).
-
2. Với ý nghĩa đó, Đức Phật là người "thấy" được chân lý mà
không phải tạo dựng ra chân lý. Ngài cực lực phản đối những
luận điệu cho rằng ngài là người sáng tạo ra một học thuyết.
Tỳ kheo Sunakkhatta là người mắc phải sai lầm nghiêm trọng này
khi phát biểu giáo lý của Đức Phật được hình thành là do quá
tình suy tư, phán đoán, suy luận, mường tượng rồi sau đó kiểm
nghiệm, phổ biến và thuyết giảng. Và tất nhiên, Đức Phật đã
cải chính sự hiểu biết sai lệch này (Trung Bộ I, kinh số 22,
tr.161).
-
3. Sống trong sự hưởng thụ dục lạc (khi còn ở cung) không có
hạnh phúc chân thật, nhưng ép sát khổ hạnh (lúc tu với 5 anh
em Kondanna) cũng chẳng được an vui. Từ bỏ hai cực đoan này,
thực hành Bát chánh đạo, Thế Tôn tìm được an lạc trên con
đường này. Và đây cũng là Trung đạo đưa đến sự chứng ngộ tối
thượng (Trung Bộ I, kinh số 9, tr. 111; Tương Ưng 4, chương 8,
tr.518).
-
4. Từ bỏ hai đạo sĩ thời danh và 5 người bạn đồng tu để "tự
mình thắp đuốc lên mà đi", là bài pháp thân giáo sinh động,
thể hiện sự tự tu, tự chứng ngộ của bậc Đạo Sư, cho chúng ta
đang tiến bước trên lộ trình giải thoát giác ngộ. Ngài luôn
dạy đừng giao phó thân mạng, tư tưởng, lý tưởng, mục đích sống
cho bất cứ ai chủ thuyết nào, ý hệ nào dù chúng đã trở thành
truyền thống, tập tục; vì chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp,
tạo nên khổ đau hay hạnh phúc. Từ kinh nghiệm tu chứng bản
thân, Đức Phật dạy các đệ tử hãy tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, hãy tự mình nương tựa nơi chính mình, chớ nương tựa một
gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ
nương tựa, chớ có nương tựa một gì khác (Trường Bộ I, kinh số
15, tr. 584; kinh Tương Ưng III, chương I, phẩm 5, tr.83).
-
5. Mặt khác, "tự mình thắp đuốc lên mà đi" cũng có nghĩa là tự
bên trong mỗi con người, vì rằng "tất cả chúng sinh đều có
Phật tính" (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính - kinh
Pháp Hoa), tức là ai cũng có khả năng thành Phật. Tiến trình
đạt đến quả vị Phật là tiến trình chiến đấu với tự thân, chiến
đấu với vô minh (avijjà) và ái dục (tanhà). Đức Phật tuyên bố:
Biển có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại,
nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh
và ái dục (Tương Ưng III, chương 1, phẩm 5, tr. 267). Ngài đã
đoạn trừ được vô minh và ái dục, nên Ngài là bậc tối tôn ở
đời; Ngài thân dù ở trong muôn loài, tâm đã cao thượng trên
tất cả muôn loài.
-
6. Một yếu tố tối trọng ảnh hưởng đến việc thành đạo của Thế
Tôn: Chánh tinh tấn. Bốn mươi chín ngày đêm ròng rã tĩnh tọa
dưới cội bồ đề là biểu hiện của sự kiên trì, tinh tấn, nhờ
tinh tấn mà Thế Tôn chứng được đạo quả. Cảnh giới Niết bàn
không có bóng dáng của kẻ biếng lười, cánh cửa giải thoát cũng
không hé mở cho người không có sức mạnh tinh tấn.
-
7. Từ góc độ lịch sử, sự kiện thành đạo của Thế Tôn là điểm
son trong lịch sử tôn giáo của nhân loại, mở ra một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên của nhân bản, bình đẳng, vô ngã và từ bi. Bậc
thầy vĩ đại của nhân loại xuất hiện từ đây, đạo Phật - đạo
giải thoát vì hạnh phúc cho muôn loài - cũng bắt đầu từ đây.
-
II. Thánh Hạnh Vĩ Đại Của Đức Phật
-
Với thánh cách vô thượng và thánh hạnh vô song, Thế Tôn đã du
hành qua nhiều quốc gia, cảm hóa được nhiều thành phần trong
xã hội. Từ vua, quan, quý tộc, thức giả, tỷ phú đến giới
thương gia, nông gia, nô lệ, tướng cướp, kỹ nữ, cho đến ngoại
đạo, tất cả đều được Ngài thâu nhận làm đệ tử tu hành thanh
tịnh trong hội chúng của Ngài. Sự tổng hợp đa thành phần trong
xã hội hỗn tạp thành đoàn thể hòa hợp thanh tịnh là điều kỳ
diệu, nếu không phải Thế Tôn sẽ không thực hiện được điều này.
Kết quả kỳ diệu này là do đức chiêu cảm của bậc giác ngộ,
nhưng phần lớn nhờ vào những lời dạy nhiệm mầu cùng với những
phương thức giáo hóa vi diệu của Thế Tôn. Trong phần này, ta
không lật lại những trang giáo lý, mà chỉ tìm hiểu những thánh
hạnh, thánh cách và một vài con đường hoằng pháp của Ngài.
-
1. Sau khi hành đạo, Thế Tôn nghĩ ngay đến việc giác ngộ cho
hai vị đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Tuy không phải
là hai vị thầy đối thượng, hai vị này là những vị thầy đầu
tiên hướng dẫn Thế Tôn tu tập mà Ngài đã đạt được những quả vị
nhất định. Không độ được vì họ đã qua đời, nhưng lòng tưởng
nhớ của Thế Tôn vẫn gợi lên trong ta tinh thần đại nghĩa của
Ngài. Sau đó, Ngài nghĩ ngay đến năm anh em Kondanna và khởi
hành đến Baranasi, cảm hóa họ thành những đệ tử đầu tiên. Ngài
cũng không quên cảm hóa những thân chủ năm xưa: Sujata - cô
thôn nữ cúng Ngài bát sữa, đánh dấu sự từ bỏ khổ hạnh vô
nghĩa; Svastika - cậu thiếu niên cúng 8 bó cỏ mịn để lót ngồi
thiền mà sau đó Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng giác. Hình ảnh
bậc Đạo Sư nhớ đến những vị thầy đã theo học lúc chưa thành
đạo, những người bạn đồng tu, những thân chủ năm xưa, cho ta
một cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng vào tình người của Ngài.
-
2. Tín - một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực
giữa con người với con người. Đức Phật, dù đối với vua chúa,
quý tộc hay thứ dân, đều trân trọng chữ tín. Vua Bimbisara,
lúc Thế Tôn chưa thành đạo, có đề nghị nếu tìm được đạo thì
hãy nhớ hóa độ vua; vì vua vừa muốn có bậc Đạo Sư nương tựa
tinh thần, vừa muốn giao hảo với Thế Tôn để cho xứ Magadha có
mối quan hệ tốt với Kapilavatthu. Đồng thời, nếu Thế Tôn trở
thành bậc Thầy vĩ đại thì vua Bimbisara sẽ ảnh hưởng được Ngài
về mặt quần chúng. Đức Thế Tôn thừa hiểu việc này, vẫn giữ lời
hứa năm nào, đến
Magadha
cảm hóa vua Bimbisara, cuối cùng vua đã trở thành vị đệ tử
nhiệt thành.
-
Một lần khác, trong lúc đang ở Vesali, Đức Phật nhận lời mời
của kỹ nữ Ambapàli đến thọ thực tại nhà cô ta vào ngày hôm
sau. Cùng lúc ấy, nhóm quý tộc Licchavi cũng thỉnh Ngài thọ
thực tại nhà của họ, đúng vào ngày Ambapàli mời. Đức Phật từ
chối trong sự thật rằng, Ngài đã nhận lời mời của Ambapàli
trước rồi nên phải giữ chữ tín (Trường Bộ I, kinh số 15, tr.
579).
-
Khi ở tuổi 80, sắp vào Niết bàn, Đức Phật giảng bài pháp về 4
thần túc của bậc giác ngộ, có khả năng kéo dài tuổi thọ. Tôn
giả A Nan nghe nhưng không thỉnh Thế Tôn trụ thân ở đời một
thời gian trong khi ác ma thỉnh Ngài nên sớm vào Niết bàn. Đến
khi Thế Tôn sắp nhập diệt, A Nan khẩn nài Ngài trụ thêm một
thời gian, Ngài đã từ chối vì đã "hứa" với ác ma.
-
3. Không ít người đã dùng lăng kính "nhân giới" để tìm chữ
hiếu trong "Phật giới" nên đã không tìm thấy, rồi vội kết luận
Đức Phật bỏ gia đình, trốn cha mẹ xuất gia là bất hiếu. Cái
hiếu của bậc hiền trí không phải là "quạt nồng ấp lạnh" hay
"sửa gối dâng trà", mà là cảm hóa phụ mẫu về với chánh đạo.
Muốn vậy, phải tu theo chánh đạo và đạt được chánh đạo. Tinh
thần hiếu của Đức Phật là cái đại hiếu của người đi phương xa
để tìm "món thuốc" trường sinh bất tử về để cứu cha mẹ, mà
không chịu ở quanh cha mẹ lo bát cơm, tách nước. Do đó, ta
thấy sau khi thành đạo và đã có được một số đông đệ tử, Đức
Phật trở về quê hương Kapilavatthu để hóa độ thân phụ và các
thân tộc họ Thích-ca (Sakya). Kinh còn kể, Đức Phật vận thần
thông lên cõi trời Đâu suất để giáo hóa thân mẫu Maya chứng
quả A La Hán.
-
Như thế, rõ rằng Đức Phật là bậc đại hiếu. Lòng hiếu của Ngài
thoát khỏi chữ hiếu thường tình, không nhuốm màu ái dục. Đó là
tinh thần hiếu đạo xuất thế của bậc giác ngộ.
-
III. Một Vài Đặc Tính Hoằng Pháp Của Đức Phật
-
Với trí tuệ siêu phàm , Đức Phật đã hóa độ vô số thành phần
trong xã hội với vô số phương thức khác nhau. Những phương
thức này tùy vào bối cảnh, đối tượng mà Ngài tùy cơ giáo hóa.
Ngài không bao giờ đặt ra những bài học hay công thức cho việc
truyền pháp. Ở đây có thể rút ra một vài phương thức được tìm
thấy trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài.
-
1. Tính nhất quán: Nước trong bốn bể vô lượng, nhưng chỉ có
một vị duy nhất - vị mặn. Cũng vậy, giáo lý của Đức Phật nhiều
vô số, nhưng chỉ có một vị duy nhất - vị giải thoát. Bốn mươi
lăm năm truyền đạo của Ngài là 45 năm khai mở đạo mạch giải
thoát để tưới nhuần cho muôn loài, giải thoát khỏi tham, sân,
si; giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu
não. Dưới cặp mắt của bậc Đại Giác, thế giới này là vô thường,
cuộc sống này là vui ít khổ nhiều, con người này là vô ngã.
Đây là ba dấu ấn để thẩm định lời dạy của Đức Phật. Một bản
kinh, một bài kệ thiếu những dấu ấn này được xem là không phải
lời Phật thuyết. Những ai chấp nhận rằng thế giới này là
thường còn, cuộc sống này là hạnh phúc, con người này là thật
ngã, thì không bao giờ đặt được chân lên bờ giải thoát. Cho
nên, dù kinh điển có nhiều, pháp môn tu có nhiều, nhưng chỉ có
một mục đích duy nhất là đưa ta đến sự giải thoát tối thượng.
-
2. Tính ảnh dụ thực tiễn: Có lẽ đây là phương thức phổ biến
nhất trên đường hoằng pháp của Đức Phật. Hầu như các bộ kinh
Đức Phật thuyết đều ít nhiều mang đặc tính này. Cho đến ngay
cả các tên kinh đều là biểu hiện của tính ảnh dụ, chẳng hạn
như: kinh Ví dụ tấm vải, kinh Mật hoàn, kinh Gò mối, kinh Ví
dụ cái cưa, kinh Dụ dấu chân voi, kinh Ví dụ lõi cây... Những
bộ kinh này, Ngài đưa ra những ảnh dụ thực tiễn, cụ thể để làm
sáng tỏ lời dạy của Ngài. Chẳng hạn như kinh Ví dụ con rắn, số
22 trong Trung Bộ I, Ngài dạy các dục ví như đầu rắn; người
học giáo lý áp dụng cho việc tu hành mà không nắm được những
pháp môn căn bản, cũng như bắt rắn mà không biết cách bắt sẽ
bị rắn cắn.
-
3. Tính bất biến-tùy duyên: Tính bất biến-tùy duyên dạy ta có
thể uyển chuyển trong mọi tình huống để làm việc đạo, nhưng
không đánh mất tính chất thật của mình. Nhờ phương thức này mà
giáo lý của Đức Phật dễ dàng có mặt ở mọi nơi, mọi chốn, mọi
hoàn cảnh, đi đến đâu cũng dễ thích nghi, phù hợp với nơi đó.
Đức Phật, với tinh thần này, rất linh hoạt trong mọi hoàn cảnh
để thực hiện việc truyền bá chánh pháp. Nhờ vào tinh thần này
mà Phật giáo mang nhiều màu, nhiều vẻ nhưng không đánh mất
chất Phật - bản thể của đạo. Phật giáo Việt Nam không giống
Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa không giống Phật giáo
Thái Lan (tùy duyên), nhưng tất cả các hình thức Phật giáo đều
thể hiện tinh thần từ bi, bình đẳng, giải thoát của Đức Thích
Ca (bất biến).
-
4. Tính khế lý-khế cơ: Đây là một trong những yếu tố quan
trọng mà Đức Phật ứng dụng trong việc hoằng pháp độ sinh. Tính
khế lý dạy ta phải nắm vững chân lý, quy luật vận hành của thế
giới nhân sinh. Tính khế cơ dạy ta phải biết áp dụng chân lý
sống đúng thời, đúng lúc, đúng đối tượng; đặc biệt hiểu được
căn cơ, trình độ và tư tưởng của đối tượng để theo đó sử dụng
những "khế cơ" trình độ và tư tưởng của đối tượng để theo đó
sử dụng những "khế cơ" thích hợp áp dụng cho đối tượng. Tính
khế lý-khế cơ khi mới khảo sát, nó gần giống với tính bất
biến-tùy duyên, nhưng nghiên cứu kỹ thì hai phương thức này
khác nhau. Tính tùy duyên-bất biến dùng để áp dụng trong bối
cảnh không gian-thời gian; trong khi đó, tính khế lý-khế cơ
dùng ứng dụng cho đối tượng là con người. Cũng là giáo lý vô
thường (bất biến), nhưng có lúc Đức Phật xem nó như một dòng
chảy, có khi Ngài nhìn nó như sự bốc cháy (tùy duyên). Vô
thường là chân lý tồn tại khách quan trong cuộc sống (khế lý),
Đức Phật xét thấy cơ bản, trình độ của 3 anh em ông Uruvela
Kassapa - những Bà La Môn thờ lửa - có thể thích hợp với giáo
lý này, Ngài đã thuyết giảng cho họ một bài pháp rất vô
thường, rất tâm lý (khế cơ): tất cả đều đang bốc cháy, đang
thiêu hủy. Sau bài pháp này, 3 anh em Kassapa và 1.000 đệ tử
của họ đều quy y Phật. Như vậy áp dụng tính khế lý-khế cơ đòi
hỏi hành giả phải có tuệ nhãn sâu sắc hơn để tùy đối tượng
trí, ngu mà ứng dụng giáo lý cao thấp để hóa độ.
-
C. Kết Luận
-
Đức Phật, một con người hùng vĩ xuất hiện trong thế giới
thường nhân, với trí tuệ siêu xuất thể hiện qua ngôn ngữ, văn
tự thường tình đã gây âm vang chấn động trong lịch sử tôn giáo
và triết học.
-
Gần ba thiên niên kỷ trôi qua, tiến trình phát triển của con
người đã bao lần thay da đổi thịt, vô số bài diễn văn được
chép vào trang đại sử; trong đó, cuộc đời hoằng pháp của Đức
Phật là bức thông điệp muôn thuở cho con người khảo nghiệm,
nghiên cứu, thực hành. Đức Phật chỉ là một con người, nhưng là
con người kết tinh của vô vàn tinh hoa tuyệt mỹ của nhân loại.
Vì thế, đứng ở góc độ nào, người ta vẫn thấy được hiện thân
của Ngài. Đó là hiện thân của chân lý, của trí tuệ và từ bi.
Thật vậy, không phải thấy được xác thân bốn đại của hơn 2.000
năm trước mới gọi là thấy Phật. Ngài dạy, những ai thấy được
lý Duyên khởi -- luật vận hành của nhân sinh-vũ trụ -- người
ấy thấy được Pháp; những ai thấy được Pháp, người ấy thấy được
Như Lai (Trung Bộ I, kinh số 28).
-
Vâng, tất cả nhân loại đang tìm về chân lý, hướng về chân lý,
đang mơ ước được diện kiến Như Lai....
|