-
SỰ PHỤC VỤ CỦA ĐỨC PHẬT CHO
-
NHÂN LOẠI TRÊN THẾ GIAN
-
Hòa thượng K.Sri.Dhammananda
-
--- o0o ---
-
-
Đức Phật thị hiện nơi cuộc đời này nhằm mục đích xua tan cái
bóng tối của vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự
đoạn tận của khổ đau.
-
Đức Phật là sự hiện thân của tất cả những phẩm hạnh do Ngài
thuyết giảng. Trong suốt 45 năm thực hiện thành công sứ mệnh
và để lại những sự kiện quan trọng của Ngài, Ngài đã chuyển
dịch tất cả những ngôn từ, lời nói của Ngài thành những hành
động cụ thể thiết thực. Không có lúc nào mà Ngài không chỉ ra
sự yếu đuối và nỗi đam mê thấp hèn của con người. Giới hạnh
của đức Phật là tấm gương hoàn hảo nhất mà thế gian đã từng
chứng kiến.
-
Hơn 25 thế kỷ, hàng triệu con người đã tìm thấy nguồn cảm hứng
và sự khuây khoả nơi giáo lý của Ngài. Sự vĩ đại của Ngài vẫn
còn toả sáng mãi cho đến ngày nay giống như mặt trời chói sáng
rực rỡ hơn ánh sáng mờ đục của những vật sáng kém hơn. Giáo
pháp của Ngài vẫn vẫy tay mời gọi phái đoàn hành hương mệt lã
người đến nơi an toàn và cảnh giới an lạc của Niết-bàn. Không
có một nhân vật nào ngoài Ngài đã hy sinh quá nhiều những thú
vui vật chất của mình vì nỗi khổ đau của nhân loại.
-
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên trong lịch sử nhân loại khiển
trách và chống lại nghi thức tế lễ động vật cho quỷ thần vì
bất cứ một lý do nào khác và kêu gọi nhân loại không nên làm
hại các loài sinh vật sống.
-
Đối với đức Phật, tôn giáo không phải là một sự giao kèo trong
mua bán mà là một con đường đưa đến sự giác ngộ. Ngài không
muốn chư đệ tử Ngài tin một cách mù quáng mà Ngài muốn họ hãy
suy nghĩ một cách tự do và thông thái.
-
Toàn thể nhân loại trên thế gian này được ban phước bằng sự
hiện hữu của Ngài.
-
Chưa từng có khi nào đức Phật bày tỏ thái độ không thân thiện
đối với một ai. Thậm chí đối với những địch thủ và kẻ thù xấu
xa nhất của Ngài, Ngài cũng không bày tỏ thái độ không thân
thiện đối với họ. Có một vài người mang đầu óc thành kiến muốn
chống đối lại Ngài và tìm mọi cách giết hại Ngài; song đức
Phật không bao giờ đối xử với họ như là kẻ thù. Có một lần đức
Phật nói:
-
“Ta như voi giữa trận,
-
Hứng chịu cung tên rơi,
-
Chịu đựng mọi phỉ báng,
-
Aùc giới rất nhiều người”. (PC-320)
-
Trong biên niên sử thế giới, chưa có một nhân vật nào có thể
được công nhận là đã tự hiến dâng quá nhiều cho những lợi ích
của chúng sanh như đức Phật đã làm. Ngay từ giây phút giác ngộ
cho đến lúc nhập diệt, Ngài phấn đấu không biết mệt mỏi để
nâng cao địa vị con người. Ngài chỉ dành hai tiếng đồng hồ
trong một ngày cho việc ngủ nghỉ của mình. Mặc dù 25 thế kỷ đã
trôi qua kể từ khi bậc đạo sư vĩ đại này đã nhập diệt, song
thông điệp về tình thương và trí tuệ của Ngài vẫn còn hiện hữu
trong hình thức thuần khiết tinh khôi. Thông điệp này vẫn có
ảnh hưởng quan trọng đối với vận mệnh của nhân loại. Ngài là
bậc thầy từ bi nhất đã làm toả sáng thế gian này bằng tình
thương và lòng nhân từ.
-
Sau khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã để lại một bức thông điệp
bất tử vẫn còn gái trị đối với chúng ta. Ngày nay, chúng ta
phải đương đầu với một sự đe doạ kinh hoàng về nền hoà bình
của thế giới. Không có thời điểm nào trong lịch sử thế giới mà
bức thông điệp của Ngài lại cần thiết hơn như hiện nay.
-
Đức Phật thị hiện nơi cõi đời này nhằm mục đích xua tan đi cái
bóng tối của vô minh và chỉ cho nhân loại cách chấm dứt khổ
đau và bệnh tật, già và chết và tất cả những nỗi lo lắng và
khổ sở của kiếp sống nhân sinh.
-
Theo một số tôn giáo, một số vị thần linh thỉnh thoảng sẽ xuất
hiện trên cõi đời này để tiêu diệt những con người ác độc và
che chở cho những con người lương thiện. Ngược lại, đức Phật
không thị hiện trên cõi đời này để tiêu diệt những kẻ ác mà là
để chỉ cho họ con đường đi đúng đắn.
-
Trong lịch sử thế giới mãi cho đến thời kỳ đức Phật, chúng ta
đã từng nghe bất cứ một vị đạo sư nào có tấm lòng chan chứa
tình yêu thương và nỗi cảm thông đối với nỗi khổ đau của nhân
loại như đức Phật chăng? Đồng thời với đức Phật, chúng ta nghe
một số triết gia thông thái tại Hy Lạp như: Socrates, Plato và
Aristole và nhiều nhà hiền triết khác, song họ chỉ là những
triết gia, những nhà tư tưởng và những nhà đi tìm chân lý; họ
thiếu đi tình yêu thương cảm kích đối với nỗi khổ đau của nhân
loại.
-
Con đường cứu độ nhân loại của đức Phật là dạy cho họ cách làm
thế nào để tìm được sự giải thoát, an lạc. Ngài không quan tâm
đến việc làm dịu một vài trường hợp liên quan đến chứng bệnh
về thân và tâm. Ngài quan tâm nhiều hơn với việc tiết lộ con
đường mà tất cả mọi người có thể đi theo.
-
Chúng ta hãy đem tất cả những triết gia, tâm lý gia, khoa học
gia, nhà duy lý, những nhà cải cách xã hội, những tư tưởng gia
vĩ đại và những vị đạo sư của các tôn giáo khác, với một tinh
thần không thiên vị, so sánh sự vĩ đại, đức hạnh, tinh thần
phục vụ và trí tuệ của chư vị đối với đức hạnh, lòng từ bi và
sự giác ngộ của đức Phật. Chúng ta có thể hiểu được địa vị của
đức Phật đứng ở đâu trong số tất cả những bậc vĩ nhân này.
-
Nhân quyền và ngũ giới của Phật giáo
-
Khái niệm nhân quyền xuất phát trong giai đoạn hiện đại. Chúng
ta không tìm thấy một từ ngữ nào biểu thị khái niệm này trong
ngôn ngữ Sanskrit hoặc Pàli. Thay vì nói quyền, những trách
nhiệm được đề cao trong những nền văn hoá được tượng trưng bởi
những thứ ngôn ngữ này. Đó không phải là một sự trùng hợp xa
lạ rằng từ trách nhiệm, hoặc pháp trong cổ ngữ Sanskrit hoặc
Pàli cũng tượng trưng cho chân lý. Nền tảng của triết học
dường như đó là trách nhiệm đưa đến chân lý. Tuy nhiên, trong
Anh ngữ, từ quyền (right) có hai nghĩa: đó là chân lý và yêu
sách. Theo chức năng xã hội của nền triết học Đông phương,
việc hoàn thành nhiệm vụ của một người nào đó đưa đến sự hoàn
tất quyền của những người khác.
-
Khi chúng ta so sánh sự ảnh hưởng về mặt xã hội của những
trách nhiệm với những quyền, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng một
bầu không khí hài hoà và hợp tác lẫn nhau có thể thịnh hành
trong một xã hội khi mà trách nhiệm được đề cao, trong khi đó
có thể tính chất bất đồng và cạnh tranh sẽ không còn hiện hữu
nếu mỗi người có thói quen khẳng định những quyền hạn của anh
ta hoặc cô ta.
-
Sự thiếu vắng một thuật ngữ đơn lẻ biểu thị những quyền của
con người không có nghĩa những nền văn minh cổ đại ở Đông
phương không có những phương thức bảo vệ nhân quyền. Nhân
quyền ở đây được đi kèm với một lối diễn đạt vòng quanh tế nhị
mà con người thậm chí không ý thức rõ ag rằng anh ta đang thụ
hưởng những quyền nhất định như thế chính từ lúc mới sinh ra
đời. Cơ chế là sự tình nguyện chấp nhận của mỗi người và mỗi
một người phải tuân thủ giữ 5 giới cấm.
-
Mỗi con người trong xã hội được mong đợi phát nguyện không sát
hại sanh mạng. Sinh mạng hay sự sống là thiêng liêng và con
người không nên vi phạm mà phải tôn trọng sự sống. Khi thái độ
phi bạo lực này được lan truyền rộng rãi thì quyền được sống
của mỗi cá nhân sẽ tự động được thoả nguyện. Hơn thế nữa, thái
độ phi bạo lực này đảm bảo sự an toàn của mỗi con người, sự
thân thiện và từ tâm trong xã hội, phát huy những mối quan hệ
hài hoà giữa các cá nhân trong xã hội.
-
Giới thứ hai mà con người phải tuân giữ là tình nguyện không
nên trộm lấy những gì không cho. Nguyện không biển thủ là để
bảo vệ quyền sở hữu tài sản của mọi con người. Yù thức về sự
bảo vệ tài sản cho nhau tạo ra một bầu không khí của sự tin
tưởng lẫn nhau trong xã hội. Một xã hội như thế là xã hội hoàn
toàn tự do và dân chúng có thể tận tâm chính mình cho sự
nghiệp theo đuổi những nghề nghiệp mà họ đã chọn lựa mà không
cần bổn phận phải bảo vệ tài sản của họ với sự lo âu.
-
Giới thứ ba cấm con người không nên quan hệ tình dục một cách
trái với luật pháp. Giới này bảo vệ quyền của mỗi cá nhân chọn
lựa một
-
|