-
ÐƯỜNG VỀ NẺO GIÁC
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
Tôi đang thay bông, phủi bụi trên bàn điện Phật, chợt nghe
tiếng gọi của chú Trúc Tuệ:
-
-
Cô Vân, Hoà Thượng trụ trì gọi cô.
-
Tôi giật mình quay lại:
-
-
Chú Trúc Tuệ, chú làm tôi hết hồn. A, mà chú, thầy gọi tôi có
chuyện gì vậy ?
-
-
Thưa, tôi không được rõ lắm. Cô cứ lên gặp thầy mọi sự sẽ rõ
ràng ngay.
-
-
Ðược rồi chú làm eo với tôi, rồi coi chú có năn nỉ tôi để nghe
chuyện này không cho biết. Chuyện này có liên quan tới chú, và
quan trọng lắm đó.
-
Nghe tôi nói thế, chú Trúc Tuệ đệ tử cưng của Hòa Thượng trụ
trì, và cũng là thị giã thường gần gũi hầu hạ ngài, chợt tò mò
hỏi:
-
-
Cô nói chuyện gì có liên quan đến tôi. Thiệt hã, quan trọng
lắm hã ? Cô nói đi, nói cho tôi nghe đi.
-
-
Thiệt hay không thì chuyện đó cũng đã chắc chắn lắm rồi, còn
quan trọng không thì chuyện đó đến đó chú sẽ biết. Hỏi tôi,
tôi cũng không được rõ lắm.
-
Nghe tôi nói thế, chú Trúc Tuệ biềt tôi làm eo để trả thù, chú
liền giả lã:
-
-
Cô Vân, thật tình tôi không biết thầy gọi cô để làm gì. Tôi
không biết thì nói không biết, chứ tôi không biết mà cứ nói
bừa rồi cô cho tôi là người vọng ngữ sao? Cô tưởng tôi làm eo
thành ra cô làm eo để trả thù tôi phải không ?
-
Ðến đây chú Trúc Tuệ chợt cao hứng :
-
-
Cô Vân, cô có biết không? Ðức Phật Ngài dạy: Oán thù không bao
giờ xóa được oán thù, chỉ có tình thương mới xóa được oán thù.
-
Ðức Phật Ngài dạy vậy, thầy thường nhắc tới nhắc lui để nhớ,
bộ cô không nhớ sao ?
-
-
Thấy bộ điệu chú Trúc Tuệ làm mặt nghiêm cho ra vẽ người lớn,
trên khuôn mặt non choẹt tôi không nhịn được bật tiếng cười
khúc khích:
-
-
Vâng, bạch đại đức con nhớ rồi.
-
Nghe tôi đùa nghịch, chú Trúc Tuệ không hiểu ý, chú hoảng hốt:
-
-
Ý không được, cô gọi vậy tôi tổn phước lắm đó. Hơn nữa thầy
nghe được thầy sẽ rầy đó.
-
Biết chú Trúc Tuệ thật thà, tôi cũng phụ họa theo:
-
-
Chú có lý, tôi không đùa nữa đâu.
-
Hai người vừa nói, vừa đi ra khỏi dãy hành lang dài của chánh
điện. Và kế đó là trên đường lót sỏi trắng dẫn vào tịnh thất
của Hòa Thượng Trụ Trì.
-
Nghĩa là lần thứ nhất tôi đến Ngọc Ấn Tòng Lâm theo sự giới
thiệu của nhà sư hành khất. Lần đó tôi còn nhớ rõ, là Hòa
Thượng đặc biệt tiếp tôi tại tịnh thất của Ngài, và tôi được
chú Giác Tuệ mời tôi dùng chén trà sen thơm phứt. Cũng chính
vì vậy mà tôi có dịp làm quen với chú Trúc Tuệ. Sau đó được
Hoà Thượng chấp nhận cho ở lại chùa tập sự để sửa soạn xuống
tóc xuất gia tu tập. Từ đó đến nay cũng gần sáu tháng tôi chưa
có dịp gặp ngài trở lại. Bởi vì tất cả mọi Phật sự trong chùa
thì có Thầy Quảng Chúng, Thầy Sự, Thầy Tri Khách thay nhau để
giải quyết. Cho nên việc gặp Hòa Thượng trụ trì cũng hơi khó,
hơn nữa ngài cũng bận lo công tác phiên dịch kinh điển cho nên
thì giờ ngài cũng hơi eo hẹp. Ðây là lần thứ hai tôi trở lại
tịnh thất của ngài. Cảnh trí vẫn đẹp, vẫn tươi thắm như xưa.
-
Tôi đang miên man thả hồn theo ý tưởng... Chợt chú TrúcTuệ
lên tiếng:
-
-
Cô Vân, cô nói gì có liên quan đến tôi ?
-
-
Nữa chú nữa, tôi đã nói rồi tôi không biết mà ?
-
Tính trẻ con, khi nghe chuyện gì mà có liên quan tới
mình là phải biết cho bằng được. Chú Trúc Tuệ mặc dù đi tu
nhưng cũng chưa thoát ra ngoài thông lệ đó, chú năn nỉ:
-
-
Chuyện gì vậy cô, nói một chút nghe đi.
-
Biết không dấu được chú, tôi mắng yêu :
-
-
Gớm cái chú này. Thôi được, tôi sẽ kể cho chú nghe.
-
Chú Trúc Tuệ mừng rỡ.
-
-
Nói đi, nói lẹ đi cô.
-
-
Nghe thầy Quảng Chúng bàn tính với Thầy Sự, Thầy Tri Khách, là
theo ý của Hòa Thượng trụ trì, thì hiện nay Phật Giáo tại Hoa
Kỳ cần phát triển và mở rộng Phật Pháp trong xã hội mới. Cho
nên tăng ni ở đây ai cũng phải đi học, nhất là Anh ngữ và Hoa
ngữ, bởi vì Hòa Thượng trụ trì cho rằng đây là hai ngôn ngữ
chính có thể xử dụng để mở mang hoạt động, tạo sự xã giao với
Phật Giáo Trung Quốc, Ðại Hàn, ..v...v... Hòa Thượng có ý định
đó là bởi vì từ trước đến nay có thể nói rằng: Có rất nhiều
đoàn thể Phật Giáo du nhập vào Mỹ, nhất là Phật Giáo Trung
Quốc, và Phật Giáo Nhật Bản, đã du nhập vào Mỹ hơn cả trăm năm
nay, nhưng vì du nhập vào Hoa Kỳ bằng con đường trí thức cho
nên người Mỹ họ chỉ biết tìm hiểu về phương diện học thuật
nghiên cứu mà chưa có dịp đi sâu vào phương diện thực hành.
Hơn nữa, vì trở ngại ngôn ngữ cho nên phần lớn các giáo phái
Phật Giáo có mặt tại Hoa Kỳ đều rơi vào cái vỏ cứng của màu
da, ngôn ngữ. Nghe nói Hòa Thượng trụ trì mới đi dự đại hội
về, trong đó có nhiều đại biểu Phật Giáo các nước, và tất cả
đều quyết định phải mở rộng phạm vi sinh hoạt. Có nghĩa là mở
rộng chương trình tu học khích lệ tăng ni cần phải học thêm
ngoại ngữ để đáp ứng cả hai phương diện. Một là chúng ta có
thể giới thiệu cái nét đặc thù của Phật Giáo Việt Nam cho
người Tây Phương. Hai là chúng ta có đủ tiêu chuẩn để hướng
dẫn con em Việt Nam sinh và trưởng thành tại Mỹ quên tiếng
Việt, điều thiết yếu là chúng ta phải xử dụng cả hai ngôn ngữ
để hướng dẫn, mà Anh ngữ và Hoa ngữ chính được chú trọng. Chú
và một số tăng ni được Hòa Thượng trụ trì chú ý sẽ gởi ra
ngoài để đi học.
-
Từ trước tới trước tới giờ chú Trúc Tuệ lắng tai chăm
chú nghe tôi thuyết giảng. Cuối cùng chú mới vỡ lẽ, nhưng lại
cố trêu chọc tôi :
-
-
À tưởng chuyện gì, chứ chuyện đó, mà cô làm ra vẻ bí mật quá.
-
-
Ừ, thì chú nghe tôi nói rồi thành ra nó không còn bí mật nữa.
Chú còn... Nói đến đây, tôi định đưa tay nhéo lỗ tai của chú
Giác Tuệ, nhưng nhìn lên chợt phát giác mình đã đến trước cửa
tịnh thất của Hòa Thượng. Chú Trúc Tuệ biết thế, vội nhảy chồm
về phía trước, tay gõ cửa tay che miệng lộ vẻ cười tinh
nghịch.
-
Tiếng Hòa Thượng trụ trì từ trong vọng ra:
-
-
Cửa đã mở, vào đi.
-
Gặp lại Hòa Thượng tôi vội vã quì đảnh lễ dưới chân ngài. Chắp
tay chú nguyện, chờ tôi lạy một lạy xong, Hòa Thượng ôn tồn
bảo :
-
-
Thôi con, một lạy đủ rồi.
-
Chỉ chiếc ghế con bên cạnh, ngài nói tiếp :
-
-
Ngồi đi con.
-
Tôi chắp tay lễ phép :
-
-
Hoà Thượng cho phép con ngồi.
-
Chờ tôi ngồi xong ngài hỏi :
-
-
Vân con, con đến đây được bao lâu rồi ?
-
-
Dạ, bạch Hòa Thượng, con đến đây gần sáu tháng.
-
-
Con thấy không khí cũng như lối sinh hoạt ở đây ra sao?
-
-
Bạch thầy, không khí ở đây thanh tịnh lắm. Lối sinh hoạt ở đây
đượm màu thiền vị. Sống ở đây không bon chen như cuộc sống
trần tục. Con thấy thoải mái và có cảm giác cuộc đời phiền não
của con như được thay thế bằng lẽ sống từ bi và giải thoát.
-
Nghe tôi nói thế ngài khe khẽ gật đầu và nói :
-
-
Con nói như vậy có nghĩa là: Việc thức khuya dậy sớm, sáng kệ
tối kinh không làm cho con buồn nản chứ ?
-
Tôi trả lời không do dự :
-
-
Bạch thầy, những điều đó đã không làm cho con buồn nản, trái
lại còn giúp con hiểu thêm, và giúp con thoát khỏi những phiền
lụy ưu tư của kiếp người ...
-
Ngài khẽ gật đầu và hỏi tiếp :
-
-
Kinh kệ, hôm nay con học được tới đâu rồi ?
-
- Bạch thầy, con đã học thuộc xong hai đường công
phu sáng và chiều, cúng ngọ, Tỳ Ni Nhật Dụng, Luật Sa Di, và
oai nghi .. v.v..
-
-
Con giỏi lắm đó, mới mấy tháng mà đã thuộc xong Lăng Nghiêm
thì không phải tệ đâu; vậy ý định xuất gia của con có gì thay
đổi không ?
-
-
Bạch thầy, dạ không, con đang cần nghe sự dạy bảo của thầy.
-
-
Nếu con còn có ý định xuất gia thì thầy sẽ cho xuống tóc vào
dịp rằm tháng bảy tới. Con thấy thế nào ?
-
-
Bạch thầy, con được sự giới thiệu của nhà sư hành khất đến đây
chỉ có mục đích xuất gia tu học, hôm nay thầy đã hứa khả cho
con mãn nguyện như vậy, thì còn gì sung sướng cho bằng. Ân đức
tế độ của thầy con luôn luôn ghi nhớ trên bước đường tu tập
đạo giải thoát.
-
-
Thôi, con đừng nói vậy. Ðó là thói thường của nhân thế, chúng
ta là con của Phật, chúng ta phải khác ở điểm này. Thầy muốn
con lúc nào cũng giữ tâm niệm tu học cầu tiến là được rồi. Từ
đây tới rằm tháng bảy còn vào khoảng hai mươi ngày nữa, vậy
ngay từ bây giờ con chuẩn bị ít bộ quần áo vạt hò. Ðồng thời
con cũng coi thầy Quảng Chúng, thầy Tri Khách cần con giúp đỡ
gì thì con ráng tiếp tay với qúi thầy để cho ngày lễ thêm phần
chu đáo nghe con.
-
Tôi kính cẩn đáp:
-
-
Dạ. Con kính vâng lời.
-
Từ giã Hòa Thượng trụ trì, tôi trở lại công việc nhiên đăng
trên chánh điện. Trong tối hôm nay bỗng dưng có hơi khác lạ.
Cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng ẩn hiện trong tôi, tôi có cảm
giác như tôi đã trở thành một con người mới. Con người phong
sương phiền não của ba mươi năm về trước hình như đã tan biến,
lẫn trốn ra xa khi nghe lời hứa khả của Hòa Thượng trụ trì:
Con sẽ được xuống tóc xuống tóc xuất gia vào ngày rằm tháng
bảy tới.
-
Gần tới ngày rằm tháng bảy, trong chùa rộn rịp chư thiện tín
lui tới tấp nập. Hơn bao giờ hết, tôi cũng cảm thấy nao nao
trong tâm tư hơn, dĩ nhiên là tôi vui vẻ vì tôi sắp được xuất
gia, sắp được từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới,
một người đang tập sự đi vào con đường Chân Thiện Mỹ, và sự
mong ước đã đến.
-
Sáng tinh sương ngày mười lăm tháng bảy, Phật lịch 2529. Trên
đỉnh Thiên Sơn, Ngôi Ngọc Ấn Tòng Lâm như có một sức sống tràn
ngập cả núi đồi và một sức huyền diệu mênh mông khắp cỏ cây
đồng nội. Nhiệm vụ của tôi hôm nay là thay bông trái và tắm
Ðức Quan Âm lộ thiên. Từ dưới nhìn lên Ðức Quan Âm ngự trì
trên núi Phổ Ðà Sơn giả, chiếc bàn con, lư nhang nhỏ, cặp
chưng đèn, bình bông, đĩa quả vẫn ở vị trí cũ như ngày nào,
nhưng lại có vẻ tươi thắm hơn.
-
Chiếc cầu nhỏ leo lên núi Phổ Ðà Sơn giả bắt ngang hồ sen, hôm
nay như cũng có một sự thay đổi, tươi hẳn lên. Không biết có
phải nhờ vào bông sen, bông súng dưới hồ thi nhau đua nở và đã
điểm tô cho cảnh sắc hôm nay tươi đẹp? Hay hôm nay là ngày
xuất gia của tôi mà cảnh vật chung quanh tôi tự nhiên vui
tươi?
-
Bao sái trên đài Quán Âm Lộ Thiên, lâu lâu nhìn xuống dọc theo
con suối thiên nhiên chảy dài từ trên núi uốn mình ra xa là
con đường lát sỏi dẫn lên đỉnh Thiên Sơn, Ngọc Ấn Tòng Lâm.
Trời lúc này chưa sáng hẳn, tuy vậy cũng có khách thập phương,
nhóm năm, nhóm ba lũ lượt đi lễ chùa. Ðoàn người tiếp tục vượt
đường đồi, xuyên qua rừng tùng, rừng trúc, đang còn tràn ngập
sương mai, để tiến vào đại điện. Dáng người đi chập chùng
trong sương, dưới ánh nắng ban mai tạo thành sự ẩn hiện trong
đồi núi thành một bức tranh thủy mạc vô cùng ngoạn mục.
-
Xong nhiệm vụ, tôi trở về chánh điện để phụ giúp chú Trúc Tuệ
lo sửa soạn trên điện Phật.
-
Và đại lễ chính thức của đại lễ Vu Lan 2529 đã bắt đầu.
-
Ba hồi chuông trống bát nhã cung đón chư tăng đăng
lâm chính điện. Sau phần giới thiệu thành phần tham dự, mở đầu
buổi lễ là diễn văn khai mạc của đại đức Trị Sự kiêm trưởng
ban tổ chức, kế đó là buổi thuyết pháp về ý nghĩa của ngày đại
lễ Vu Lan do đại đức Giãng Sư đảm trách. Sau phần thuyết pháp
là phần nghi lễ chính thức, và cuối cùng là thọ trai. Trong
lúc chư phật tử gần xa đang vui vẻ dùng cơm chay thân mật tại
giảng đường, thì trên điện Phật buổi lễ xuất gia của tôi cũng
bắt đầu long trọng cử hành.
-
Trong lúc chư đại tăng niệm hương chứng minh dâng lên cúng
Phật, quỳ trước điện Phật, mắt nhìn lên Ðực Từ Phụ, tôi cũng
thì thầm khấn nguyện: Kính lạy thập phương Phật, Pháp, Tăng
bảo thùy từ gia hộ cho con, để con đủ nghị lực tiến tu trên
đường đạo hạnh giải thoát, để con tròn ước nguyện tự cứu mình
và độ đời để tất cả cùng thành Phật đạo.
-
Sau phần niệm hương chứng minh là phần nghi lễ truyền trao tam
quy ngũ giới. Nhìn lên Hòa Thượng trụ trì, thầy tuyên luật sư,
thầy điễn lễ, sao thấy oai nghiêm chi lạ. Trong tôi chợt nảy
lên một niềm tôn kính vô biên. Chợt thanh âm hiền hòa nhưng
nghiêm nghị của Hoà Thượng trụ trì mở đầu cho buổi lễ :
-
-
Vân con, bây giờ đây, là giờ phút quan trọng để con lựa chọn.
Con có thể từ bỏ cuộc sống thế tục, để noi theo chân chư Phật,
chư tổ trên đường đạo hạnh, hoằng pháp lợi sanh hay không, tất
cả đều do tâm ý của con quyết định. Vậy con phải có thái độ
dứt khoát trước khi thầy cử hành lễ chính thức để truyền trao
tam quy năm giới cho con.
-
-
Kính bạch Hoà Thượng, kính bạch chư đại tăng. Cho tới giờ phút
giây này, trong tâm tư của con lúc nào cũng cầu mong lên Hoà
Thượng và chư đại tăng thùy từ thương xót hướng dẫn con trên
đường về nẻo giác, đó là một tâm niệm duy nhất của con và mãi
mãi không bao giờ thay đổi.
-
A
Di Ðà Phật thật là qúy hóa quá.
-
Sau phần Kệ Khai Luật Tạng, là lời khai đạo của Hoà Thượng trụ
trì. Với giọng hiền hòa nghiêm nghị, Hòa Thượng trụ trì tiếp:
-
-
Nầy chư thiện nam tín nử! Quý vị hãy lắng nghe cho kỷ: Bể khổ
không bờ, nếu không có thuyền từ Bát Nhã thì không vượt lên bờ
giải thoát được. Người muốn chứng Vô Thượng Bồ Ðề, cần phải
lãnh thọ giới Pháp. Tất cả muôn công đức lành đều lấy giới làm
nền tảng. Không những chư Phật nhân giới đây mà thành bậc
Chánh giác, Ðại Thừa, Tiểu Thừa cũng đều giữ giới Pháp. Tại
gia xuất gia cũng đều thọ giới. Giới như chiếc thuyền bè đưa
người qua bể khổ, giới như mặt đất bằng muôn vật đều từ đấy mà
phát sanh, giới như ngọn đèn sáng chiếu phá tất cả các chỗ tối
tăm, giới là con đường tắt đưa đến cỏi Nhân Thiên, là cửa ngõ
vào cảnh Niết Bàn. Cho nên trong Kinh có nói: Nếu có chúng
sanh nào muốn dức trừ các khổ, hưởng sự vui vô thượng Niết Bàn
thì phải thọ Tam Quy, trì Năm Giới, phát tâm xuất gia. Người
nào làm được như vậy, thì ở đời vị lai sẽ chứng quả vị Bồ Ðề.
-
Sau phần khai đạo là Sám Hối trước khi quy y Tam
Bảo, vẫn giọng nói hiền hòa, Hòa Thượng Trụ Trì dạy tiếp:
-
-
Vừa rồi con đã sám hối, thân tâm được thanh tịnh, bây giờ đây
là giây phút quy y Tam Bảo. Trước khi quy y con cần phải biết
rõ Quy Y là gì con hãy lắng nghe cho kỹ ý nghĩa của Tam Bảo.
-
-
Mô Phật.
-
-
Quy Y nói cho đủ là Quy Y Tam Bảo. Chữ Quy có nghĩa là quay
trở về, trở về nương tựa với Phật Pháp Tăng. Nương tựa với
Phật là một đấng từ bi bình đẳng. Nương với Pháp là một phương
pháp giải khổ. Nương tựa với Tăng là bậc đại trí hoằng Pháp
Lợi sanh.
-
Ðịnh nghĩa về Tam Bảo xong, Ngài giảng tiếp :
-
-
Thế nào gọi là Phật ? chữ Phật tiếng Anh gọi là Buddha, Tàu
dịch là Phật Ðà, nói tắt là Phật, dịch nghĩa là Giác Giả, là
một đấng đã giác ngộ hoàn toàn, toàn năng, toàn trí, toàn Ðức.
Phật là ông cha lành của chúng sanh, vị đạo sư của mười phương
thế giới. Phật là một bảo hiệu chung cho tất cả những bậc tu
hành đã giác ngộ. Bây giờ thì con đã hiểu rõ cái ý nghĩa Phật
rồi. Con phải cố gắng mà ghi nhớ.
-
-
Mô Phật.
-
Chờ cho tiếng chuông ngân nga trong bảo điện chấm dứt, ngài
chậm rãi giảng tiếp.
-
-
Pháp có nghĩa là muôn Pháp, chính là những lời Ðức Phật dạy.
Ðơn cử một vài Pháp như: Quán Sát Tứ Ðế, Thập Nhị Nhân Duyên,
Bát Chánh Ðạo ..v..v.. Nếu tất cả mọi người ai cũng y theo
giáo Pháp mà tu hành, thì quyết định sẽ thoát ly sinh tử,
chứng thành quả Phật. Cho nên trong kinh có nói rằng: Pháp là
mẹ sinh ra chư Phật. Giờ đây con đã hiểu rõ chữ Pháp, con phải
gắng mà ghi nhớ.
-
-
Mô Phật.
-
Vẫn giọng nói hiền hòa nghiêm nghị, ngài giảng tiếp:
-
-
Chữ Tăng, nói cho đủ là Tăng Già, nghĩa là một quần chúng hòa
hợp không chống trái nhau, như nước với sữa. Tăng là người
đứng trung gian giữa Phật và chúng sanh, thực hành những Pháp
của Phật dạy và thay Phật diễn nói Pháp cho chúng sanh. Hay
nói một cách khác, Tăng là cái tên gọi chung cho những đệ tử
của Phật. Từ bốn vị Tỳ kheo trở lên mới được gọi là Ðại Tăng.
Con đã nghe và hiểu sơ lược ý nghĩa của Tam Bảo rồi, vậy con
hãy cố gắng nhớ quy y và lãnh thọ.
-
-
Mô Phật.
-
-
Ý nghĩa Tam Bảo thầy đã giảng rồi, bây giờ là phần lãnh thọ.
Con hãy nghe thầy Ðiển Lể xướng thế nào thì lập lại thế ấy.
-
-
Mô Phật.
-
Âm điệu oai hùng của thầy Ðiển Lễ vang vọng trong Bảo Ðiện:
-
-
Ðệ tử tên ... Xin suốt đời quy y Phật, quy y Pháp , quy y
Tăng.
-
Tôi lập lại lời thầy Ðiển Lễ và xá ba xá
-
Chờ cho tôi lập lại xong, thầy Ðiển Lễ xướng tiếp:
-
-
Ðệ tử chúng con, quy y Phật rồi khỏi đọa vào địa ngục, quy y
Pháp rồi khỏi đọa vào ngã quỷ, quy y Tăng rồi khỏi đọa vào
bàng sanh.
-
Chờ tôi lập lại ba lần, thầy Ðiển Lễ xướng tiếp:
-
-
Chí tâm đảnh lễ Công Ðức Lâm Bồ tát ma ha tát.
-
Sau khi tôi đảnh lễ xong, quỳ lại vị trí cũ, Hòa Thượng trụ
trì chứng minh giảng tiếp:
-
-
Con đã nghe ý nghĩa và quy y Tam Bảo rồi, giờ đây thầy lại
truyền cho con lời dạy về ba phép quy không tướng:
-
-
Con đã quy y Phật tức là con đã quay trở về cái giác tánh của
chính mình, là phép tôn quý gồm đủ cả hai công đức: (Quy y
Giác, Lưỡng Túc Tôn). Con quy y Pháp là quay trở về cái pháp
tánh của chính mình, là phép tôn quý lìa bỏ các điều tà dục.
(Quy y Chánh, Ly Dục Tôn). Quy y Tăng là quay trở về bản thể
thanh tịnh của chính mình, là phép tôn quý nhất trong các
hạnh. (Quy y Tịnh, Chúng trung Tôn). Vậy từ nay trở đi, con
hãy xưng Giác( bổn tánh giác ngộ) là thầy, chẳng nên quy y tà
ma ngoại đạo. Hãy lấy ba phép báu của chính mình mà thường tự
chứng tỏ các công đức của mình. Con nay đã quy y với ba Pháp
Bảo của tánh mình là: Phật nghĩa là Giác, tánh giác ngộ. Pháp
nghĩa là Chánh. tánh chân chánh. Tăng là Tịnh, tánh thanh
tịnh.
-
Như vậy trở về với tánh giác của chính mình thì tà mê chẳng
sanh, ít có sự ham muốn quá độ, thường biết đủ trong công việc
làm của mình, xa lìa được cả tiền tài danh vọng. Quy y với
tánh chánh, thì tâm niệm không tà kiến, nên không có tham ái,
cống cao, chấp trước. Quay trở về với tánh thanh tịnh thì tất
cả các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng
vương.
-
Tu các hạnh này, là quay trở về bổn tánh của mình. Hôm nay
thầy giảng rõ ràng cho con, vậy từ nay trở đi, trong con phải
điều hòa tâm tính, ngoài phải kính nể mọi người. Ðược như vậy
là con đã quy y với Tam Bảo. Quy y với Tam Bảo là quay trở về
với chính mình vậy.
-
Trước kia khi nghe nói đến tam quy: Quy y Phật, quy y Tăng thì
tôi hiểu ngay là đấng đã giác ngộ hoàn toàn đó là Phật Thích
Ca Mâu Ni, còn Pháp tức là những lời nói phương pháp tu tập do
Phật nói ra. Quy y Tăng là những bậc đạo cao đức trọng, là
hình ảnh tăng già đại diện cho Ðức Phật. Nhưng nay thì lại
khác, nghĩa là sau khi nghe Hoà Thượng trụ trì giảng về ý
nghĩa sâu xa của lý quy y, tôi cảm thấy chân trời Phật Pháp
quả thật vô biên. Bây giờ giác tánh của mình với Phật cũng như
tất cả chúng sanh vạn loại hữu tình không sai khác, chỉ vì mê
muội mà ta lại lãng quên đi cái tánh giác cao quý của chính
mình. Nghĩ vậy tôi vô cùng cảm động, thương chư Phật vì đời
nên thường tận tụy cứu độ chúng sanh.
-
Chư đại tăng có lẽ đã hiểu được hiện giờ hiện giờ tôi đang
nghĩ gì, nên các ngài lẳng lặng chờ đợi. Sau khi tôi đảnh lễ
Tam Bảo xong, thầy Tuyên luật sư mới bắt đầu giảng về đại ý sơ
lược của năm giới xuất gia. Một lần nữa trong tâm tư tôi lại
khởi lên nhiều ý nghĩ : Từ năm giới cho những cư sĩ tại gia
cho đến mười giới cho những bậc xuất gia, quả thật là khuôn
vàng thước ngọc. Nếu tất cả mọi người cùng sống y theo lời
Phật dạy, thì chắc chắn thế giới đâu đâu cũng sống một cuộc
sống hòa bình an lạc.
-
Sau khi lãnh thụ năm giới xuất gia rồi, Hòa Thượng trụ trì
tiếp tục điều khiển buổi lễ:
-
-
Con đã nghe ý nghĩa và đã lãnh thọ ba quy ránh, tướng và năm
giới xuất gia rồi, vậy từ nay trở đi con là đệ tử Phật. Pháp
danh của con là Trúc Pháp, con phải ghi nhớ.
-
Tôi sung sướng chắp tay cuối đầu và xá:
-
-
Mô Phật.
-
Giờ đây thầy nói cho con rõ về nguồn gốc tông phái mình:
-
Nguồn gốc tông Lâm Tế bắt nguồn từ Trung Hoa, sau đó dòng
Thiền này được ngài Minh Hoàng và ngài Nguyên Thiều truyền
sang Việt Nam, về sau đệ tử thầy Minh Hoàng lập ra Thiền Liễu
Quán. Hầu hết những vị danh tăng trụ trì Viện chủ của các ngôi
Tổ Ðình như: Tổ Ðình Thiên Mụ (Huế), Tổ Ðình Thập Tháp (Bình
Ðịnh), Tổ Ðình Hà Trung ( Phú Lộc Thừa Thiên ), Tổ Ðình Quốc
An (Huế), Tổ Ðình Từ Ðàm (Huế), Tổ Ðình Chúc Thánh (Quảng
Nam), Tổ Ðình Bảo Quốc (Nay là Phật Học Ðường Bảo Quốc), Tổ
Ðình Thuyền Lâm (Huế), Tổ Ðình Thuyền Tôn (Huế),. Các Ngài nối
tiếp trụ trì, trùng tu những ngôi Tổ Ðình như trên đã nói, và
đạo hiệu của các ngài đều bắt đầu bằng dòng kệ:
-
Minh thiệt Pháp toàn chương
-
Ấn chơn như thị đồng
-
Trúc thánh thọ thiên cửu
-
Kỳ Quốc tô địa trường
-
Ðắc Chánh luật vi tuyên
-
Tổ Ðạo giải hạnh thông
-
Giác Hoa Bồ Ðề Thọ
-
Sung mãn nhơn thiên trung
-
Ngài Minh Hoàng là đời thứ ba mươi bốn giòng Lâm Tế tại Trung
Hoa. Ngài Nguyên Thiều đứng vào đời ba mươi ba thuộc giòng Lâm
Tế tại Trung Hoa. Tuy nhiên cả hai ngài là sư tổ của giòng
Thiền Lâm Tế tại Việt Nam. Tổ khai sơn bắt đầu bằng chữ Minh,
chữ Minh truyền xuống chữ Thiệt từ đó cứ truyền mãi cho đến
đời thầy là chữ Ðồng. Giờ đây thầy truyền cho con chữ Trúc.
Bây giồ thì con rõ chữ Trúc là tên của dòng Lâm Tế và Pháp là
cái tên của con?
-
-
Mô Phật.
-
Buổi lễ kết thúc trong bầu không khí nghiêm tịnh. Tên Vân trần
tục của tôi giờ đây không còn nữa mà được thay thế bằng Trúc
Pháp. Cái tên Trúc Pháp giải thoát đó như có một cái gì cao
quý. Tôi đã trở thành con người mới thật sự. Tôi vui mừng bởi
vì giờ đây con đường Chân Thiện Mỹ dẫn tôi đến hướng giải
thoát sẽ không còn xa vời đối với tôi nữa. Bây giờ tôi không
còn thắc mắc nữa. Thắc mắc bởi lẽ có khi cùng một thầy có lúc
lại cho học trò chữ Diệu, có lúc cho chữ Minh, có lúc cho chữ
Quảng, cho loạn cào cào giống như người không có tông, cây
không có gốc. Còn bây giờ tôi đã biết cây có cội nước có
nguồn, con người ở thế gian có tổ tông gia phả, trong đạo giáo
có tổ truyền. Hơn bao giờ hết tôi mới thấy giáo Pháp của Ðức
Phật quả thật cao sâu vi diệu. Nó không phải như những người
đời thường ngộ nhận. Ngộ nhận cho rằng Phật giáo là đạo bi
quan yếm thế, là đạo cho ông già bà cả chẳng hạn như bài ca có
tính cách chế diễu:
-
Sở dĩ bần tăng đi tu đấy là vì ba mươi năm sương gió Cõi trần
ai còn lở dỡ mộng công hầu.
-
Ðiều nầy cũng có một số người cố tình xuyên tạc
Phật Giáo họ cho rằng giới xuất gia đi tu là vì trên đường
hoạn lộ không thông, gặp phải những bất đắc chí trong cuộc
đời. Hoặc chán đời vì thất tình lục dục mới vào nương náo nơi
cửa Thiền để quên đi cái tháng thảm năm sầu, và như vậy thì
Ðạo Phật là cái thứ đạo cho những người bệnh hoạn. Nhưng nếu
hiểu như thế thì chứng tỏ chưa hiểu gì về Ðạo Phật., và như
thế theo tôi nghĩ cần phải đánh giá lại sự hiểu biết đó trăm
ngàn lần mới được. Kinh nghiệm chính bản thân tôi cho thấy,
chỉ có Phật Pháp mới có đủ khả năng làm cho cuộc sống buồn
thảm chính tôi hồi sinh. Chỉ có Phật Pháp mới có đủ tư cách
làm cho tâm hồn tôi cởi mở nhiều hơn. Quá khứ vàng son của tôi
đã qua rồi, đã chôn vùi trong khói lửa chiến tranh, trong trận
chiến được kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thương lai
thì chưa tới, và hiện tại thời gian luôn luôn liên tục trôi
chảy. Buồn thảm lo âu cũng chẳng giải quyết được gì. Ðiều quan
trọng là phải làm gì cho cuộc sống hiện tại có ý nghĩa. Ðức
Phật đã dạy như thế. Phật Pháp vi diệu như thế, tôi không còn
ngạc nhiên khi nghe:
-
Phật Pháp cao sâu rất nhiệm mầu
-
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
-
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
-
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
|