Ðịa Tạng Bồ Tát
Nhất Quán
--o0o--
 
            Trang viện nầy người ta không biết có từ hồi nào, có điều người dân ở Giao Châu biết tòa lâu đài nầy có từ khi xứ An Nam còn bị lệ thuộc dưới sự độ hộ của nhà Ðường Trung Hoa (lúc bấy giờ nhà Ðường đặt nền móng cai trị Mãn Châu, Mông Cổ: An Bắc Ðô Hộ Phủ; Tây Tạng: An Tây Ðô Hộ Phủ; Cao Ly: An Ðông Ðô Hộ Phủ; và Việt Nam: An Nam Ðô Hộ Phủ, từ đó đến nay cũng đã khá lâu rồi. Chủ nhân của ngôi trang viện nầy là ông Kim Kiều, và vợ là Nguyên Thị, hai ông bà là Phật Tử rất thuần thành, cho nên trong nhà có thờ Phật, hằng đêm ông và bà tụng kinh bái sám; tất cả những tôi tớ trong nhà ai ai cũng biết ăn chay niệm Phật. Cũng nhờ mọi người cùng nhau tôn thờ một đấng cha lành là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nên dù là tôi tớ trong nhà, nhưng ông bà Kim Kiều đối xử với mọi người rất thân tình, và coi nhau như ruột thịt. Hai ông bà Kim Kiều ăn ở với nhau đã hơn ba mươi năm rồi mà chưa có con, cho nên hằng đêm ông bà phát nguyện thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa để cầu con, ngỏ hầu nối dỏi tông đường.
            Trong dịp đầu xuân, hai ông bà Kim Kiều, cùng với tôi tớ sửa soạn lễ vật lên Ngọc Ấn Tòng Lâm, trước là để trẩy hội đầu năm, sau là để cúng dường Tam Bảo. Ðoàn người vui vẻ ra đi chẳng bao lâu đã đến địa phận Ngọc Ấn Tòng Lâm. Vắt ngang qua cánh đồng lúa phì nhiêu trải dài suốt tận chân mây là con suối con, nước trong vắt chảy róc rách, hòa lẫn với tiếng gió xào xạt, xuyên qua những cội hoa đào mọc dọc theo bờ suối, tạo nên một điệu nhạc thiên nhiên, nên thơ và hùng vĩ. Trên con đường nhỏ lót sỏi dẫn xuyên qua rừng trúc, thì mọi người cũng đã thấy cổng tam quang. Ngôi Ngọc Ấn Tòng Lâm nằm chểm chệ, chợt ẩn, chợt hiện trong rừng tùng rộng rải mênh mông. Chẳng bao lâu mọi người đã đến trước hồ bát giác, Ðức Quan Thế Âm lộ thiên đứng giữa hồ sen nở xanh, trắng, đỏ, vàng thoảng ra mùi hương thơm tho dịu ngọt. Cách tôn trí thờ phượng của Ngọc Ấn Tòng Lâm làm cho ông bà Kiều Công luôn khen ngợi. Ðầu xuân bá tánh đi lễ Phật cầu phước, kẻ ra người vào thật là rộn ràng. Phải khó khăn lắm ông bà Kim Kiều và đám gia nhân mới vào đến Tổ Ðình. Trước tiên ông bà Kiều Công tìm gặp Hoà Thượng Trụ Trì để chúc thọ đầu năm. Hòa Thượng Trụ Trì của ngôi Ngọc Ấn Tòng Lâm là Thông Trí Ðại Pháp Sư, nhìn qua gương mặt hoan hỷ hiền từ của ngài, ông bà Kiều Công có cảm tưởng như mình đang đứng trước Ðức Phật Di Lặc tái sanh. Trong những giây phút đó, bà Kim Kiều chợt cảm thấy trong tiềm thức của mình có một niềm hoan hỷ vô biên, cũng trong giây phút đó bà chợt nghĩ rằng: Phật do tu nhiều đời nhiều kiếp mà đắc đạo, Bồ Tát do nguyện lực mà thành. Ðời nầy mình được gặp ông chồng giàu có sang trọng, chắc là do công quả tu tập vun trồng nhân bố thí từ đời kiếp trước. Hôm nay đứng trước hình ảnh hoan hỷ nầy, mình cũng nên phát đại nguyện để kết duyên với ngài. Nghĩ xong, bà cúi đầu sụp lạy Thông Trí Ðại Pháp Sư và phát ra lời nguyện như vầy:
- Con nguyện từ đời nầy cho đến vô lượng vô biên, vô số kiếp về sau, kiếp nào con cũng được làm người, sinh trong gia đình giàu có, để có dịp cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo, tu tạo Chùa Tháp, khuyến hóa giúp, đở phương tiện để cho mọi người đồng tu.
- Con nguyện đời đời, kiếp kiếp luôn nhớ bản tánh trí Tuệ sáng suốt, đức tánh Tứ Bi, Hỷ Xã của chư Phật, chư Bồ Tát. Con nguyện thọ trì và xiển dương những đức tánh đó để cho chúng sanh được thấm nhuần.
- Con nguyện đời đời, kiếp kiếp sau, chúng sanh còn nghèo đói khổ sở, mọi loài chưa thấm nhuần những đức tánh Từ Bi, Hỷ Xã của chư Phật, con nguyện không bao giờ thành Phật.
            Khi bà Kim Kiều phát nguyện vừa xong, thì như trái đất bỗng nhiên phát ra những chấn động, ngoài trời Chư Thiên mưa hoa cúng dường để tán thán những hạnh nguyện vĩ đại của bà. Thông Trí Ðại Pháp Sư thấy vậy trong lòng rất lấy làm hoan hỷ.
            Sau khi được Thông Trí Ðại Pháp Sư dẫn vào chánh điện lễ Phật, ông bà và gia nhân cùng nhau đi viếng cảnh bên ngoài. Cảnh sắc chỗ nào cũng xanh tươi mát mẻ, nhất là con suối con từ trên đỉnh cao của Thiên Sơn chảy dài ra tận cánh đồng xa xa, trông như con thần long đang uốn mình để bay vút lên trên không. Cuối cùng bà Kim Kiều dừng chân lại trước mặt hình tượng của ngài Ðịa Tạng Bồ Tát. Có lẽ hình tượng nầy đã lâu lắm, cho nên trên vai nước sơn cũng đã bạt màu, cây tích trượng của ngài đang cầm cũng đã sét rỉ, tuy vậy vẫn không kém đi phần trang nghiêm. Nhìn hình tượng của ngài, bà Kim Kiều liên tưởng đến những lời thệ nguyện sâu dày: Chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật. có nghĩa là: Ðộ chưa hết chúng sanh ngài chưa chứng quả bồ đề, ở nơi địa ngục chưa trống không thì ngài nguyện sẽ không bao giờ thành Phật. Chính vì đại nguyện mà trải qua thời gian lâu xa như vậy nên ngài vẫn còn là một vị Bồ Tát. Nghĩ đến đây bà động mối từ tâm, vì nhớ tới công hạnh sâu dày của chư Phật, chư Bồ Tát vì chúng sanh và cho chúng sanh tất cả, thế mà con người trần tục cứ mãi mê trong si mê dục vọng, trong danh lợi phù phiếm giả tạo, không bao giờ tỉnh thức để trở về sống thật với chính lòng mình. Cảm ân đức đó bà cúi đầu sụp lạy, thì lạ lùng thay hình tượng lâu cũ kia cũng từ từ sụp ngã. Thấy hiện tượng lạ lùng như vậy, mọi người lấy làm kinh sợ, lật đật quay trở lại Tổ Ðình trình bày mọi việc xảy ra như vậy với Thông Trí Ðại Pháp Sư. Nghe xong Ðại Sư lấy làm hoan hỷ và bảo ông bà Kiều Công rằng: Xin ông bà đừng lo, đây là điềm báo ứng ông bà sẽ sanh một quý tử. Người nầy nếu tu hành thì chứng quả vị Bồ Tát, để tiếp tục cái hạnh nguyện trong đời kiếp trước. Còn nếu vị nầy ở tại gia, thì sẽ là một Ðại Trưởng Giả giàu có, và cũng là một Phật Tử thuần thành, hết lòng xiển dương Giáo Pháp của Phật. Nghe Ðại Sư nói xong ông bà Kim Kiều rất lấy làm mãn ý.
            Thời gian thấm thoát trôi qua, đã đến kỳ khai hoa nở nhụy, trong lúc sanh sản, hào quang sáng rực cả nhà, mùi thơm bay bát ngát. Ông bà Kim Kiều nhớ tới lời tiên đoán của Thông Trí Ðại Pháp Sư: Ông bà sẽ sanh           quý tử.. Ông liền cho người tới Ngọc Ấn Tòng Lâm cung thỉnh Ðại Sư đến nhà và yêu cầu ngài đặt tên cho đứa bé. Nhìn qua tướng mạo khôi ngô phúc hậu của đứa bé, ngài liền đặt tên là Kim Kiều Giác. Kim là cái họ, còn Kiều Giác ý Ðại Sư muốn nói: Vị bồ tát hóa thân nầy lúc nào cũng nhớ bổn nguyện của mình mà hoằng hoá chúng sanh, thức tỉnh chúng sanh ra khỏi nhà lửa trong ba cỏi. Kiều Giác càng lớn, càng biểu lộ là một thanh niên thông minh, đầy đủ nghị lực để thực hành những gì mình mong muốn. Ðiểm đặt biệt là Kiều Giác lúc nào cũng tỏ ra mình là một Phật Tử hiểu đạo thuần thành, và trong tâm tư lúc nào cũng thương tưởng đến tất cả mọi người nghèo đói, bơ vơ lạc lõng ở đầu đường xó chợ trong xã hội ly loạn nầy. Ðó là động cơ chính thúc đẩy vị công tử khả ái kia phải làm một cái gì đó để cứu độ nhân quần. Nhiều đêm thao thức, vị công tử kia nghĩ rằng: Gia đình mình của cải giàu có, nếu đem bố thí hết cho mọi người nghèo đói thì cũng được, nhưng như vậy vẫn còn trong giới hạn. Bởi vì của cải trong gia đình mình tuy nhiều, nhưng những người nghèo đói khổ sở trong xã hội cũng không phải là ít. Bố thí như vậy chỉ trong lúc nhất thời mà thôi, hơn nữa không tạo cho chúng sanh kết duyên với Tam Bảo Phước Ðiền. Người kết duyên với Tam Bảo Phước Ðiền sớm muộn gì chắc chắn cũng thóat khỏi những đói khổ bức bách, chắc chắn sẽ ra khỏi nhà lửa ba cỏi. Nghĩ như vậy chàng quyết định xuất gia học đạo để trên là đền trả bốn ân nặng, dưới là cứu khổ chúng sanh trong ba đường khổ não. Kiều Giác nhiều lần xin cha mẹ đi tu, nhưng ông bà Kim Kiều tìm đủ mọi cách ngăn cản, lý do Kiều Giác là con một trong gia đình. Ý chí từ bỏ cha mẹ theo thầy học đạo, hầu mong một ngày kia thức tỉnh tự tâm, thấu suốt được bản tánh, để trở thành một bậc sa môn chân chính, hầu có thể cứu độ tất cả chúng sanh cứ nung nấu trong lòng. Nhân dịp một ngày nọ, Kiều Giác theo cha mẹ lên Ngọc Ấn Tòng Lâm kính lễ Phật, đảnh lễ Thông Trí Ðại Pháp Sư, và nghe ngài thuyết Pháp. Kiều Giác nghe tới Phẩm Chúc Lụy của Ðịa Tạng Bổn Nguyện Kinh, Ðức Thế Tôn nhiều lần dặn bảo: Ðịa Tạng! Ðịa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức Từ Bi của ông không thể nghĩ bàn, Trí Tuệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho các đức Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không thể nghĩ bàn của ông, trăm nghìn muôn kiếp cũng không thể hết đặng. Nầy Ðịa Tạng! Ðịa Tạng! Ông nên nhớ hôm nay ta ở trong Cung Trời Ðao Lợi, nơi Pháp Hội lớn, có trăm ngàn muôn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết tất cả các đức Phật, các vị Bồ Tát, các hàng Trời Rồng, Tám Bộ Thánh Chúng ở đây, một lần nữa ta đem các hàng chúng sanh còn đang ở trong nhà lửa Ba Cõi mà giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh đó phải bị đọa vào ba ác đạo, dầu chừng một ngày một đêm, huống chi lại để cho chúng nó đọa Ðịa Ngục Ngũ Vô Gián, cùng Ðịa Ngục A tỳ, mãi mãi đến cả nghìn muôn ức kiếp không lúc nào ra khỏi ư? Nầy Ðịa Tạng, tâm tánh của chúng sanh ở cỏi Diêm Phù không định, phần đông đều quen theo thói ác, thỉnh thoảng có người có tâm lành, nhưng rồi không bao lâu cũng thối thất, còn như duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng. Cũng vì lẽ đó nên ta chia thân nầy ra muôn ức để hoá độ, thuận theo căn tánh của chúng sanh, hầu làm cho chúng được giải thoát. Nầy Ðịa Tạng! Ðịa Tạng! Hôm nay ta ân cần đem chúng trời người gia phó cho ông. Trong hội trường chư Thiện Nam Tín Nữ thì đông, mà lời kinh nầy Thông Trí Ðại Pháp Sư như thầm nhắc nhở và khơi dậy trong tìm thức của Kim Kiều Giác, cho nên ngài cứ lập đi lập lại nhiều lần, gương mặt hiền hòa đạo hạnh của ngài cứ nhìn chầm chập vào Kim Kiều Giác, như thầm thúc dục: Nhanh, nhanh lên nhân loại chúng sanh đau khổ đang mong đợi thần lực nhiệm mầu của ông. Nhanh, nhanh lên, ông còn chần chờ gì nữa..Trên đường về ông bà Kim Kiều cứ luôn mồn khen ngợi buổi thuyết Pháp hay có ý nghĩa cho cuộc sống..v..v..Nhưng Kim Kiều Giác lại khác, trong tâm cứ quay cuồng nhớ nghĩ đến những lời kinh vừa nghe. Hôm nay ta ân cần đem chúng trời người giao phó cho ông..,và mắt theo dỏi những đám mây bạc bay bềnh bồng về nơi vô tận, mà xót thương cho kiếp người quá đau khổ đọa đày. Ý chí từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo, lúc bấy giờ bừng dậy trong tâm thức của Kiều Giác một cách mãnh liệt.
            Thế rồi một hôm giữa trời đêm tịch mịch, vầng trăng khuya chiếu vằn vặc trên không, Kiều Giác một mình lặng lẽ rời khỏi Giao Châu đi thẳng đến Cửu Hoa Sơn (Trung Hoa). Quang cảnh nơi đây vô cùng xinh đẹp, gió thổi, thông reo, muôn hương ngàn sắc, bất giác chàng buộc miệng ngâm bài thơ:
- Lắm phong trần cũng nên thơ
Làm thân chim én bao giờ mới thôi
Trăng khuya giờ đã lên rồi
Sương khuya lát đát nghe môi mặn thầm
Gió vô tình rét lạnh căm
Ðời mê ta tỉnh âm thầm đứng lên
Ði vào trong cỏi mông mênh
Bóng mình thoai thoải trên nền xa xa
Ai hay trong cõi bao la
Ðường dài rộng bước ai mà cản ngăn
Cái quan rộng rãi không ngằn
Phù vân cũng biết cảnh trăng lưng đồi
            Trang kinh huyền hoặc không lời
            Âm vang ba động cuộc chơi vô bờ
            Thông reo, nước chảy liễu hờ
            Quanh quanh ngọn suối tụng nhờ trang kinh
            Cánh tùng mở rộng mông mênh
            Rảo chân đi thẳng lộ trình đầu non
            Rồng mây hội giữa lối mòn
            Kỳ duyên vi diệu đời còn với ta
            Hiện thân trở lại Ta Bà
            Ðạo vàng nay đã nở hoa rạng ngời
            Lối đi vào giữa cuộc đời
            Lời trang kinh cũ thành bài ca vang
            Trần sa phiền não bên đàng
            Không còn vướng bận gót ngàn vân du.
            Giữa núi rừng rộng mênh mông, âm vang ba động của chúnh mình, lan lan dần trong sương khuya vô tận. Nhìn trời đêm, trên môi cậu công tử khả ái kia điểm một nụ cười sung sướng. Sau đó Kiều Giác tìm một hòn đá thạch bàn, lấy lá làm nơi cư trú, tự tay cắt tóc và ẩn tu từ đây.
            Thời gian thấm thát trôi qua mau, mới đó mà đã 75 năm rồi. Trong núi rừng tịch mịch thâm u, hôm sớm chiều trưa, chung quanh chàng công tử khả ái kia giờ đây chỉ có cỏ cây, núi rừng, khỉ, vượn, Chồn cheo, Chim chóc bầu bạn mà thôi. Kiều Giác giờ không còn là một thanh niên trần tục nữa, mà kiều Giác bây giờ là Kiều Giác Thiền Sư với râu tóc bạt phơ, đoan nghiêm tướng mạo.
Dưới chân Cửu Hoa Sơn có một trang viện nguy nga lộng lẫy không thua gì non bồng trên tiên cảnh. Chủ nhân ngôi trang viện nầy là ông Các Mẩn Công. Dòng họ gia phả của ông người ta không biết ra sao, có điều ngôi trang viện nầy có từ đó đến nay cũng đã lâu lắm rồi. Ðiều đáng lưu ý và đáng nói là vào đời Ðường, Phật Giáo đã du nhập vào Trung Hoa, và chiếm giữ một vai trò rất quan trọng trong nền Văn Học, có thể nói đây là thời đại Hoàng Kim của Phật Giáo. Các Mẫn Công là một Phật Tử rất Thuần thành. Do lòng kính Phật trọng Tăng, nên ông thường mời chư Tăng các nơi về Trang Viện để tụng kinh cầu phước, nghe thuyết pháp và cúng dường. Một hôm nhân tiết trời về mùa Thu, khí trời nhè nhẹ trong lành mát mẻ, ông cùng gia quyến, và người ở tất cả cùng dắt nhau lên đầu non của Cửu Hoa Sơn để ngắm cảnh lá vàng của rừng phong thu nhuộm. Nơi đây, trên hòn đá thạch bàn dưới cây cổ thụ, ông chợt gặp một Tăng Nhân râu tóc bạc phơ, mặt mũi phương phi thoát tục. Ðộng tính hiếu kỳ, ông đến thăm hỏi mới biết rõ vị Tăng Nhân ấy chính là Kim Kiều Giác Thiền Sư, người từ Giao Châu đến, và tu tại Cửu Hoa sơn nầy cách đây 75 năm rồi, thế mà cho đến hôm nay ông mới biết. Từ đó về sau, ông và gia đình thường lui tới nơi cư trú của Kiều Giác Thiền Sư để hỏi đạo, cũng từ đây Kiều Giác Thiền Sư cũng được Các Trang Chủ thường mời về nhà Thuyết Pháp và cúng dường trai Tăng. Một hôm nhân lúc ông bà Các Mẫn Công nhắc lại duyên kỳ ngộ, và trở thành thầy trò, Kiều Giác Thiền Sư mới biết được Mẫn Công là chủ nhân của dãy núi Cửu Hoa vĩ đại. Ngài liền nói với Mẫn Công: Bần Tăng lâu nay muốn thiết lập một đạo tràng tại núi nầy để xiển dương Chánh Pháp, nhưng vì không biết ai là chủ nhân, nên chưa biết bày tỏ cùng ai. Từ khi gặp ngài, và biết ngài là chủ nhân, bần tăng xin được bày tỏ ý của mình, và mong rằng ngài vì Ðạo Pháp mà phát Bồ Ðề tâm cho bần tăng xin một khoảnh đất chừng bằng một mãnh y nầy mà thôi. Nghe Kiều Giác Thiền Sư nói, Mẫn Công rất lấy làm hoan hỷ. Thế là hai người cùng nhau đi lên trên đỉnh của núi Cửu Hoa. Lạ lùng thay khi chiếc y vàng vừa tung ra, một sự huyền diệu lạ thường, chiếc y vàng kia cứ từ từ lớn dần, lớn dần ra và bao trùm cả dãy núi Cửu Hoa. Thấy vậy Mẫn Công chợt tỉnh ngộ, ông thầm nghĩ: Oai lực như vậy nếu đây không phải là bậc La Hán, Bồ Tát tái sanh thì còn là gì nữa. Nghĩ xong ông liền cúi đầu đảnh lễ Kiều Giác Thiền Sư và cầu xin sám hối nếu có điều gì thất kính. Từ đó Các Mẫn Công phát đại nguyện: Nguyện đời đời, kiếp kiếp, sanh ra thời nào cũng được giàu có, gặp Phật, chư Ðại Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tổ để ủng hộ cúng dường Phật Pháp. Sau đó Mẫn Công vì cảm mến đức độ của Kiều Giác Thiền Sư, nên ông cho con trai lớn của mình là Các Mẫn Giác quy y xuất gia theo Kiều Giác Thiền Sư. Mẫn Giác theo thầy tinh tấn học đạo, ngày đêm tu tập, không lúc nào biến trễ. Chẳng bao lâu Mẫn Công ngộ được lý vô thường, cảm mến đức hạnh của Mẫn Giác, con trai lớn của mình, ông liền phát tâm quy y với Mẫn Giác. Từ khi ngôi đạo tràng nầy được lập, Phật Tử xa gần, Tăng Chúng kắp nơi về tham học rất đông.
            Một hôm vào buổi sáng đẹp trời, sương mai còn đọng trên cành cây kẻ lá, Kiều Giác Thiền Sư cho người đánh bảo chúng triệu tập Tăng Tín Ðồ lại và căn dặn: Ngày xưa khi Ðức Thế Tôn còn tại thế, ngài đã ân cần đem Tám Bộ Chúng giao phó cho ta, hôm nay vì cơ duyên hoá độ nơi đây đã mãn, ta phải đi nơi khác. Trước khi đi, ta cũng ân cần nhắc nhở các ông phải cố gắng tu tập đừng có chểnh mản biến trể mà sa đoạ vào ác đạo. Các ông phải tùy theo cơ duyên và phương tiện mà cứu độ chúng sanh. Căn dặn xong ngài nói bài kệ:
            - Nay ta ân cần phó các ông
Trổ đại thần thông mở phương tiện
Tế độ cho khắp cỏi nhân thiên
            Ðời nầy đời sau thoát đường ác
            Nói bài kệ xong, Kiều Giác Thiền Sư cỡi con Ðề Thính, tay cầm tích trượng, hướng dưới núi Hoa Sơn mà đi thẳng. Từ đó về sau người ta không còn gặp và cũng không biết Kiều Giác Thiền Sư đi đâu. Cũng từ đó người dân Trung Hoa lúc bấy giờ cho đó là hóa thân của ngài Ðịa Tạng Bồ Tát, cho nên họ tạc tượng ngài Ðịa Tạng Bồ Tát cỡi con Ðề Thính, tay cầm tích trượng, còn hai người hầu hai bên là hai cha con Các Mẫn Công và Các Mẫn Giác, và chọn 30 tháng 7 ngày ra đi của Kiều Giác Thiền Sư là ngày vía của Ðịa Tạng Bồ Tát.
-- o0o --