-
Thần Lực
-
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
-
Quảng Giáo ghi
-
--o0o--
-
-
I- Giải Thích Ðề Kinh.
-
Kinh Pháp Hoa gọi cho đủ là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
-
Kinh: Là Pháp thường mười phương ba đời chư Phật đều nói như
vậy. Kinh nói cho đủ là khế kinh, nghĩa là pháp thường khế hợp
chân lý và khế hợp với căn cơ của tất cả chúng sanh.
-
Diệu: Có nghĩa là tốt đẹp, tinh tế mầu nhiệm, những đức tánh
ấy nói không kể xiết, không cùng tận. Diệu tức là cái lý thật
tướng. Diệu cũng có nghĩa là thoát khỏi phiền não, năm món dục
của phàm phu. Ðối với chư Phật, chư Ðại Bồ Tát có nhiều chỗ
Diệu như: Cảnh Diệu, Trí Diệu, Hạnh Diệu, Ngôi Vị Diệu, Pháp
Diệu, Cảm Ứng Diệu, Thần Thông Diệu, Thuyết Pháp Diệu, Quyến
Thuộc Diệu, Lợi Ích Diệu, Bổn Quả Diệu, Quốc Ðộ Diệu, Thọ Mạng
Diệu, Niết Bàn Diệu.
-
Diệu Pháp: Cũng gọi là Tri Kiến Phật. Tri Kiến Phật được hiểu
là Diệu Pháp là vì Tri Kiến đó vượt trên tất cả các sự đối
đãi, không thể so sánh với bất cứ các Pháp nào trên thế gian
nầy. Là cái pháp đệ nhất tối thắng không thể suy xét luận bàn.
-
Liên Hoa: Là bông sen. Nói về bông sen nếu đem so sánh với tất
cả các loài bông hoa khác thì bông sen có năm điều đặc biệt:
-
1- Nhân Quả Ðồng Thời: Có hoa là có gương không giống như các
loài hoa khác khi nở. Dụ cho Chân Như Pháp Tánh không do sanh
diệt mà khởi, Phật vốn sẳn đầy đủ tất cả trí đức. Khi hoa sen
nở thì cái gương sen và hạt đồng thời hiển hiện đây là nhân
quả đồng thời. Ðiều nầy dụ cho Chân Như Pháp Tướng tùy thời,
tùy cơ không thời cơ nào mà chẳng hiển hiện. Khi những cánh
hoa rơi rụng, gương sen già hạt viên mãn, điều nầy dụ cho
huyễn vọng đã tiêu tan, thời bản lai diện mục, chân như thật
tướng, tất cả diệu công đức và diệu quả... không một thứ nào
là không viên mãn đầy đủ.
-
2- Tánh Thanh Khiết: Mọc trong bùn mà vẫn trong sạch thơm tho,
được người đời ưa quý. Ưa quý không phải vì sắc đẹp, mùi hương
như các loài hoa khác, mà quý ở chỗ: Hoa mọc từ bùn lầy nhơ
nhớp, mà vẫn giữ được hương sắc thanh khiết. Cũng giống như
thân năm uẩn nầy, nếu chúng ta biết nó là nhơ nhớp bất tịnh,
và biết dùng nó để tu tập thì sẽ tìm thấy được cái chân thường
thanh tịnh. Một ý nghĩa khác, cũng nói lên tính chất cao
thượng của những bậc Bồ Tát. Mặc dầu sống trong cõi đời ác năm
trược nhưng vẫn có thể thực hành được tâm nguyện Bồ Tát và có
thể thành ngôi vị chánh giác trong cuộc đời ác năm trược.
-
3- Tánh đồng nhất: Có những hoa vượt lên khỏi mặt nước hé nụ,
có những hoa còn đang ở trong nước, có những hoa vừa nhô ra
khỏi bùn. Ðiều nầy nói lên ý nghĩa sâu xa: Người, Trời, Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và tất cả những chúng sanh trong lục
đạo tuy căn cơ có sai biệt, nhưng Phật tánh không sai khác.
Nếu tu hành viên mãn sẽ thành Phật giống nhau. Cộng hoa từ gốc
tách riêng không chung với cành lá. Khác hẳn với tất cả các
loài bông hoa khác cành, lá, hoa có sự liên hệ với nhau. Ðiểm
nầy nói tính chất Nhân Quả của Hoa Sen cũng giống như nhân quả
của chư Phật, chư Ðại Bồ Tát không bị chi phối bởi nghiệp lực.
-
4- Ong và Bướm không bu đậu: Hoa sen khi nở không bị ong bướm
bu đậu làm hư hoại, khác hẳn với các loài hoa khác khi nở đều
bị ong bướm hút nhụy làm hư hoại. Ðiều nầy nói lên Tri Kiến
Phật là pháp nhiệm mầu, không bị các Pháp thế gian làm ô
nhiễm.
-
5- Không bị người dùng làm trang điểm: Bởi vì theo tập tục của
người đàn bà Ấn Ðộ thường dùng các loại hoa kết thành các
tràng hoa để làm đồ trang sức, đội hoặc đeo. Ðiều nầy nói lên
cái hạnh nguyện thanh cao của chư Phật, chư Bồ Tát thị hiện
vào đời độ đời, sống như bao nhiêu các chúng sanh khác, nhưng
vẫn được đời kính trọng nể vì.
-
Nói tóm lại tên Diệu Pháp Liên Hoa được cấu tạo theo cách ghép
chữ, thuộc loại Pháp Dụ. Diệu Pháp là Pháp vi diệu. Liên Hoa
là Dụ. Theo Kinh Pháp Hoa, Diệu Pháp là tri kiến Phật sẳn có
trong mỗi chúng sanh, còn gọi là Pháp Thân Thanh Tịnh hay Phật
Tánh. Nếu người nhận ra Tri Kiến Phật thì không còn kẹt trong
pháp đối đãi hai bên của Phàm phu. Liên Hoa là dụ cho tri kiến
Phật, bởi vì bông sen có những thanh khiết như trên. Như vậy
chúng ta hiểu, nếu có lúc Diệu Pháp của Phật dụ như chiếc
thuyền để cứu vớt tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử thì
gọi là Diệu Pháp Thuyền. Nếu Diệu Pháp của Phật dụ như ngọn
đèn soi tỏ cho thế gian khỏi bị hắc ám của bóng tối vô minh
thì gọi là Diệu Pháp Ðăng. Nếu Diệu Pháp của Phật dụ cho Tri
Kiến thì gọi là Diệu Pháp Tri Kiến. Chân-Như, Trí Ðức chúng
sanh và Phật không hai, nhưng vì chúng sanh vọng tưởng chấp
trước nên chư Phật mới phương tiện khéo léo mà hóa độ, khi nào
chúng sanh thấm nhuần rồi thì bỏ phương tiện để hướng tới vô
thượng nhất Phật thừa, thì lúc bấy giờ các phương tiện kia
cũng dung hòa theo, giống như những cánh hoa sen kia rơi rụng
thời hạt sen hiển hiện ra. Do những ý nghĩa vi diệu như vậy
cho nên kinh nầy mới mệnh danh là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
-
II- Cửa Ngõ Ði Vào Thế Giới Pháp Hoa
-
Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh lớn mà từ xưa tới nay, sau khi
đức Phật nhập Niết Bàn được lưu thông nhiều nhất, và được
nhiều người trì tụng nhiều nhất. Có lẽ kinh nầy hợp với cơ
duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy, và cũng là nhờ công
đức của kinh và thần lực của chư Phật.
-
Những bậc cổ đức đã giải thích kinh nầy rất nhiều như là Pháp
Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Thông Nghĩa, Pháp
Hoa Cú Giải, Pháp Hoa Diễn Giảng Lục...vì vậy mà danh tiếng
của Pháp Hoa vốn đã vang dội lại càng vang dội hơn. Người tụng
được lợi, người trì được nghiệm, hoặc hiện tiền thâm nhập tam
muội, hay lai thế siêu thăng thánh địa, hoặc tiêu tai, hoặc
giải trừ tai nạn... đó là diệu lực bất khả tư nghì của kinh.
Tụng trì kinh Pháp Hoa có hai phương pháp: Sự Tụng Trì, và Lý
Tụng Trì.
-
a- Sự Tụng Trì:
-
Sự tụng trì nghĩa là chỉ biết thọ, trì, đọc, tụng kinh văn,
học thuộc lòng lễ bái từng chữ thời sẽ được phước đức vô
lượng.
-
b- Lý Tụng Trì:
-
Lý tụng trì nghĩa là nghiên cứu, suy ngẫm nghĩa lý chiều sâu,
rộng của kinh mà hành trì theo ý nghĩa đó.
-
Ðối với người kiêm cả sự, lý trì tụng, nghĩa là chẳng những
chuyên đọc tụng kinh văn, mà còn nghiên cứu thấu hiểu nghĩa lý
của kinh thời phải biết là vị ấy đã ngồi toà Như Lai, mặc áo
Như Lai nói Pháp Như Lai để hoá độ chúng sanh. Bởi vì Phật tri
kiến mà được khai thị, được ngộ nhập là ở nơi lý tụng trì chứ
không phải do sự tụng trì. Cho nên người trì tụng muốn được
công đức viên mãn phải thọ, trì, đọc, tụng và, nghiên cứu, suy
ngẫm nghĩa lý huyền diệu của kinh.
-
Trọn bộ kinh Pháp Hoa có bảy cuốn, hai mươi tám phẩm, có trên
sáu vạn lời. Nghĩa lý đã sâu, văn tự lại quá rộng. Nghĩa lý
sâu thì khó lãnh hội, văn tự rộng thì khó nắm bắt. Nắm bắt
không đặng thì không thể hiểu cương lĩnh của toàn bộ kinh. Ðã
không nắm được cương lĩnh thì không thể nào hiểu rỏ nghĩa lý,
trong khi đó nghĩa lý của Kinh Pháp Hoa rất cao sâu rất mầu
nhiệm. Thọ, trì, đọc, tụng Kinh Pháp Hoa mà không lãnh hội
nghĩa lý thời huệ giải không do đâu mà phát sanh, đại thiện
công đức không từ đâu mà thành tựu. Theo trong kinh Vô Lượng
nghĩa có đề cập đến ba điểm: Ðức Hạnh, Thuyết Pháp và Công
Ðức. Ba điểm nầy tiêu biểu cho ba bậc thang hướng dẫn, trau
dồi tư cách hành giả để trở thành sứ giả của Như Lai trước khi
đi vào thế giới Pháp Hoa. Ba bậc thang như sau:
-
1- Ðức Hạnh:
-
Mục tiêu đức Phật ra đời giảng kinh Pháp Hoa, khai tri kiến
Phật, giúp chúng sanh thành Phật. Tuy nhiên quan sát chúng
sanh nghiệp cấu nặng nề, đầy đủ tham sân phiền não, không thể
trong nhất thời chuyển đổi chúng sanh thành thuần thiện được,
ngài mới dùng phương tiện, biện tài vô ngại dìu dắt chúng sanh
từng bước vào đạo. Trong những năm đầu, đức Phật thuyết pháp
Tứ Ðế là tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu hành, trong đó
lấy giới làm căn bản, tác động đại chúng xa rời nghiệp ác phát
triển nghiệp lành để trở thành người tốt trong xã hội. Trong
khoảng thời gian nầy, Ðức Phật ngài xây dựng đại chúng thành
người đức hạnh, đào tạo từ con người phàm phu với những thành
kiến mê lầm chấp ngã để trở thành một Tỳ Kheo là những người
không phải chỉ có tướng hảo bề ngoài mà cả cử chỉ lời nói hành
động đều thánh thiện, có tác dụng làm cho tha nhân vơi đi
phiền não trong cuộc đời.
-
Chúng Thanh văn tu pháp Tứ Ðế, để trở thành con người đức hạnh
thật sự, từ đó mới có thể giáo hóa chúng sanh. Ðức Phật uốn
nắn Thanh Văn trong quá trình 12 năm tu, họ phải lóng nghe, ý
thức hành động để có thể phân biệt được những phạm vi hoạt
động, sở trường, sở đoản, và khả năng của chính mình. Ngoài ra
còn phải lắng nghe những chỉ trích chung quanh để y pháp sám
hối tự sửa mình cho trong sạch và tu tập để diệt trừ mọi kiết
sử lậu nghiệp, không còn bị vướng mắc bởi những khen chê trong
cõi đời
-
Chúng ta là hành giả của kinh Pháp Hoa, mặc dù còn là thân
phàm phu, nhưng vẫn được chư thiện thần kính lễ như là một đại
Pháp sư, như thế tất cả đều nhờ thần lực của chư phật, nên
nhất cử nhất động cũng phải tự kiểm điểm bản thân một cách
nghiêm túc. Trước tiên, phải tự xét cái nhìn của mình trong
cuộc sống hằng ngày có chính xác hay không, mình nghe việc gì
nên kiểm chứng lại những sự kiện đó có đúng sự thật hay không?
Ðừng bao giờ có cái nhìn thiển cận và thiếu hiểu biết. Thông
thường cái nhìn của con người phàm phu thường bị thiên lệch,
vì còn bị lệ thuộc vào yếu tố tình cảm con người. Ðức Phật có
dạy: Ðừng tin tưởng một điều gì vì phong văn. Ðừng tin tưởng
điều gì vì vin vào tập quán lưu truyền. Ðừng tin tưởng những
điều gì vì được nhiều người nhắc lại. Ðừng tin tưởng điều gì
dù là bút tích của thánh nhân. Ðừng tin tưởng điều gì dù thói
quen từ lâu khiến ta nhận điều đó là đúng. Ðừng tin tưởng điều
gì do ta tưởng ra lại nghĩ rằng vị thần linh đã khai thị cho
ta. Ðừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào thầy dạy các
người. Nhưng chỉ tin vào cái gì mà chính các ngươi đã từng
trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và cho kẻ
khác, chỉ có cái đó mới đích thực tối hậu thăng hoa cho con
người và cuộc đời. Nếu không có sự cân nhắc khi nghe, hoặc
trước khi nói mà chỉ căn cứ theo sự hiểu biết thế gian, thì
chỉ thấy những thâm mưu, tham vọng, bè phái, và còn nhiều sự
sai lầm đáng tiếc nữa. Trên bước đường tu tập, tùy trình độ tu
chứng mà chúng hội đạt được những cái thấy khác nhau. Ðể hỗ
trợ cho sự nghiệp tu học của chính mình, hành giả Pháp Hoa
phải tự kiểm tra lời nói của mình có đúng như thật hay không,
có thêm, có bớt hay không. Tâm lý thế gian, thường muốn cho
lời nói của mình được nhiều người chú ý, hoặc muốn cho mọi
người theo về phe mình, nên bằng mọi cách vận động, rỉ tai để
tìm người hậu thuẫn. Cho nên Ðức Phật ngài thường dạy chúng
ta, nhất là hành giả Pháp Hoa đừng nói lưỡi đôi chiều. Sở dĩ
Ðức Phật được mọi người tin cậy, tôn kính vì lời nói của ngài
luôn luôn đúng sự thật, thường suy nghĩ những điều hay theo
đúng chánh pháp. Người đời thường để tâm trí chạy theo những ý
nghĩ ác độc, tà dại, mông lung nên sự tu tập trở thành yếu
kém. Trái lại, đức Phật thường tư duy chân chánh nên mọi hiểu
biết không bao giờ sai lầm. Từ suy nghĩ đúng đắn, hành giả
siêng năng phát huy những việc làm tốt đẹp, mang lợi ích cho
mọi người. Ngoài ra đời sống và hành nghiệp của hành giả Pháp
Hoa phải lương thiện chân chính, cuối cùng phải sống trong tam
tạng giáo điển. Sự hiểu biết của hành giả do trầm mình vào
giáo pháp của Như Lai nên chính xác, thành tựu viên mãn pháp
tu bát chánh đạo, hành giả mới tròn đầy giới đức để thâm nhập
vào thế giới Pháp Hoa. Nếu thiếu phần căn bản nầy thì hành giả
tự đào thải như 500 vị tỳ kheo tăng thượng mạn, không ai đuổi
mà tự xấu hổ bỏ đi.
-
2- Khả Năng Hiểu Biết:
-
Trước khi hành giả thuyết pháp, phải thấu rõ Pháp,
nếu không biết mà giảng nói trở thành phi pháp. Ðức Phật dạy,
hành giả quán sát các pháp nghĩa là quán sát sự vật biến
chuyển để biết được sự thay đổi chính xác của nó, có như thế
hành giả sẽ không sai lầm. Ðức Phật ngài cũng từng đã nói: Ta
thành đạo cũng nhờ ở cõi đời ác năm trược nầy mà thành. Như
vậy Ðức Phật đắc đạo là do quán thế gian, thế nên Pháp Phật
không rời thế gian pháp. Vì vậy mà quán sát Pháp là quán sát
thế gian, lìa bỏ thế gian mà tu hành thì không thể thành tựu.
Hành giả Pháp Hoa phải trang bị bằng sự thật, sự hiểu biết,
không mơ hồ hoang tưởng. Từ lúc ban đầu Ðức Phật sơ chuyển
pháp luân ở Lộc Uyển đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, qua Trúc Lâm và sau
cùng ở Pháp Hội Linh Sơn, đức Phật thuyết pháp qua các đối
tượng khác nhau: Thinh Văn, Duyên Giác, A La Hán, Bích Chi
Phật, Bồ Tát, tùy theo căn cơ của chúng hội mà thọ nhận, và có
những lợi lạc khác nhau. Giáo Pháp của Phật cho chúng sanh tu
tập để tiêu diệt tham sân si phiền não, giống như nước có thể
rửa sạch những thứ dơ bẩn, cho dù là nước sông, nước suối,
nước giếng, hay nước trong biển lớn, mặt dù nó có khác, nhưng
công dụng cũng đều rửa sạch mọi thứ nhơ uế. Nước Pháp cũng
vậy, nó rửa sạch những cấu uế phiền não cho chúng sanh. Tuy
nhiên, nếu gặp đối tượng có đủ khả năng, trình độ để tiếp nhận
ngài mới giảng, như đối với các bậc Thanh Văn ngài nói Pháp Tứ
Ðế, cũng nói các Pháp bản lai rỗng lặng tàn tạ không ngừng.
Ðối với những vị Duyên Giác cũng gọi Bích Chi Phật là những
người có trí, do phuớc đức trí tuệ tích lũy từ nhiều đời, sanh
ra bẩm tánh thông minh, Ðức Phật dạy họ pháp quán Nhân Duyên,
quan sát vũ trụ từ hữu tình đến vô tình. Khi tu pháp quán 12
nhân duyên để trở thành Bích Chi Phật, Ðức Phật còn dạy hành
giả quán sát ngũ ấm có 6 căn tiếp xúc với 6 trần sanh ra 6
thức tổng cộng 18 giới. Mười tám giới nầy tác động trong sáu
đường chúng sanh gây ra 108 phiền não. Ngài dạy cặn kẽ như vậy
là để hàng Duyên Giác thấy được cội nguồn chân thật các pháp
và mối tương quan tương duyên tạo nên sự tồn tại giữa các pháp
với nhau. Tất cả những lời nầy cũng là bản lai rỗng lặng, niệm
niệm sanh diệt, tàn tạ thay đỗi không ngừng. Từ đó Duyên Giác
đạt quả vị Bích Chi Phật. Ðức Phật còn dạy quan sát tận cùng
thân ngũ uẩn để cho thấy, tất cả đều do nhân duyên giả hợp mà
có, do tứ đại tạo nên, một khi nhân duyên ly tán thì thân cũng
mất. Cho đến những hàng Bồ Tát thì ngài nói lục độ: Bố Thí,
Trì Giới, Nhẫn Ðộ, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh, Trí Huệ, và mười độ
như: Bố Thí, Giới, Xuất Ly, Trí Huệ, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Chân
Thật, Quyết Ðịnh, Từ Bi, Hỷ Xã, và các bộ Kinh Phương Ðẳng,
Kinh Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm..v..v.. Tất cả những lời nầy
cũng là bản lai rỗng lặng, niệm niệm sanh diệt, tàn tạ thay
đổi không ngừng
-
Lời nói của Phật không có hai lời, lúc nào ngài cũng nói Khổ,
Không, Vô Thường, Vô Ngã, Không Phải Chân, Không Phải Giả,
Không Phải Lớn, Không Phải Nhỏ, Bản Lai Bất Sinh, Bất Diệt,
tuy nhiên ý nghĩa có sai khác, vì ý nghĩa sai khác cho nên
chúng sanh hiểu ngộ sai khác, vì hiểu ngộ sai khác cho nên
chứng đắc cũng sai khác. Cho nên mới có các thừa Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát...Ðối với con người, theo lời Phật dạy là
một sinh vật tối linh so với các loài khác, và chỉ có con
người mới có khả năng tu thành Phật, nhờ ở tám giác quan mà
các loài khác không hội đủ.
-
Một hành giả Pháp Hoa phải biết Ðức Phật vì phương tiện mà mở
bày Ba Thừa, quan sát phiền não qua pháp nhân duyên để nhận
thấy sự tương quan, nhân duyên biến hoá và đưa đến tám muôn
bốn ngàn trần lao, thì phải cố gắng nhiều hơn nữa để bước vào
cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Phật. Cảnh giới nầy không
phải chỗ hay biết của hàng nhị thừa, cũng không phải chỗ theo
kịp của các vị ngôi thập trụ Bồ Tát, mà chỉ có Phật với Phật
mới hiểu nổi. Vì những ý nghĩa sâu mầu như vậy, cho nên đòi
hỏi hành giả Pháp Hoa phải có khả năng hiểu biết tường tận,
biết được diễn biến vật lý và tâm lý đúng như thật của các
pháp rồi mới thuyết Pháp. Một bài pháp biết được căn bản chính
xác thì bài pháp của hành giả mới có thể thỏa mãn được sở cầu,
sở nguyện của chúng sanh mới giáo hoá được chúng sanh.
-
3- Công Ðức Thọ Trì Kinh Pháp Hoa
-
Mỗi người tuỳ theo sự hành trì tu tập mà được xử dụng từng
phần công đức khác nhau. Nếu hành giả một lòng thọ trì không
xao lãng thì chắc chắn sẽ bước vào thế giới Pháp Hoa, nhận
được những công đức bất khả tư nghì. Tất cả những công đức có
được là nhờ vào con người của Pháp Hoa và cũng là Bồ Tát ở
dưới dạng thức thứ hai chớ không phải là con người phàm phu
nầy. Tất cả các việc hành giả làm dù là hữu lậu, hay vô lậu,
nhưng nếu biết nương theo Bồ Tát hạnh đều được chuyển sang
thật báo độ, nhờ vậy tuy thân còn ở thế giới nầy mà đã có thể
liên hệ với các thế giới khác. Khi hành giả làm việc với tâm
vô cầu, thì mọi công đức nhiệm mầu sẽ tuần tự hiện ra. Nhưng
nếu hành giả khởi lên tà niệm, thì là tạo một sự ngăn cách với
Ðức Phật, hành giả liền rơi trở lại thực tế của phàm phu. Lý
do tà niệm đó là mầu sắc của cuộc sống Sắc thọ tưởng, hành,
thức nghĩa là bị con người ngũ uẩn ngăn che, lúc đó hành giả
sẽ không còn có những sự mầu nhiệm nữa. Mười công đức nhờ ở sự
thọ trì Kinh Pháp Hoa như sau:
-
1- Khi hành giả thọ trì Kinh, tâm duyên với kinh và Phật, công
đức lành sanh ra nên những ngăn che của phàm phu tự tan biến,
sáu căn trở thành thanh tịnh. Nương công đức và thần lực của
chư Phật, hành giả chuyển đổi toàn bộ con người của chính mình
như: Chưa phát tâm bồ đề thì phát tâm. Không có lòng nhân từ
thì khởi ra lòng nhân từ. Hay sát hại thì khởi ra tâm đại bi.
Hay ghen ghét thì khởi ra tâm tùy hỷ, Giận dữ nhiều thì khởi
ra tâm nhẫn nhục. Những tâm ganh ghét, tham ái, sẻn tham, kiêu
mạn, sân hận, si mê, thoái chuyển, phiền não không còn tác
dụng nữa và biến thành tâm tùy hỷ, hỷ xã, giữ giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định, trí tuệ..v..v.. Tất cả những phiền não
trước đây tác hại hành giả bao nhiêu, thì nay đều trở thành
phương tiện tốt để hành giả hành đạo bấy nhiêu. Do đó Bồ Tát
tuy mang thân phàm phu mà cảm nhận được Kinh thì tất cả nghiệp
ác đều trở thành tánh Bồ Ðề. Ác hoá thiện, ví như sen hút bùn
nhơ chuyển ra hương sen thơm ngát
-
Tuy nhiên nếu hành giả khởi niệm đắc Pháp nầy tức thì công đức
cũng tự động tiêu tan theo vọng niệm điên đảo. Sử dụng được
công đức bất khả tư nghì thứ nhất, hành giả hành đạo như Bồ
Tát Sơ Ðịa, chẳng những không qua giai đoạn tiệm tu của hàng
Thanh Văn, mà bỏ luôn 40 giai đoạn của Bồ Tát từ Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng để đi thẳng vào Bồ Tát
Thập Ðịa.
-
2- Thông thường khi nói tu, sửa từ một con người Phàm phu, đến
quả vị thánh, thì phải tu từ những quả vị thấp lên cao. Như
xưa, khi mới chuyển Pháp Luân, Ðức Phật nói Pháp Tứ Ðế cho năm
anh em Kiều Trần Như và các ông tiếp nhận được dễ dàng. Pháp
nầy là Tư Nghì Sanh Diệt Tứ Ðế, không phải là Pháp chân thật,
đức Phật phương tiện để hướng hàng Thanh Văn, vì pháp nầy có
thể tu và hiểu bằng tri thức của phàm phu. Từ Pháp nầy lần lần
tu lên, tâm niệm của chúng hội cũng lần lần đổi thay từng giai
đoạn và nhận được nghĩa lý khác nhau, nên quả vị cũng theo đó
mà lớn dần. Ðến giai đoạn nầy chúng hội bước sang Bất Tư Nghì
Sanh Diệt Tứ Ðế, vượt ngoài sự hiểu biết của loài người. Khi
đạt đến quả vị A la Hán chúng hội vượt qua ranh giới sanh diệt
môn mà vào cảnh giới Bất Tư Nghì Bất Sanh Bất Diệt. Ðắc được
Bất Tư Nghì Bất Sanh Bất Diệt Tứ Ðế Pháp, hành giả tiến thêm
một bước tiến nhảy vọt để đặt chân lên cảnh giới bao la bát
ngát của Ðại Thừa, lúc bấy giờ mới hoàn toàn tự tại nói Pháp
không chướng ngại. Ðó là con đường hành đạo thông thường của
mọi người. Tuy nhiên đối với hành giả Pháp Hoa không theo
phương hướng nầy. Một khi hành giả dùng tâm hoàn toàn thanh
tịnh, vô nhiễm trước mọi phiền não trần lao, để đọc, tụng Kinh
Pháp Hoa. Dù chỉ chuyển đọc một lượt, một bài kệ, cho đến một
câu thì cũng có thể thông đạt trăm nghìn muôn ức nghĩa. Bởi vì
kinh nầy giống như một hột giống phát sinh ra trăm nghìn muôn
hạt khác. Từ trăm nghìn muôn hạt giống kia lại phát sanh ra
hàng trăm nghìn muôn nữa. Cũng vậy hành giả tu một pháp thông
tất cả các pháp. Vì vậy mà hành giả có thể đốt giai đoạn vượt
bỏ thời gian 40 năm theo Phật nghe Pháp để đạt đến tiền Pháp
Hoa. Ở cảnh giới nầy hành giả vẫn làm công việc như lạy Phật,
tụng kinh, như bao nhiêu con người tầm thường khác, nhưng có
thể tạo được một lực dụng công đức bất khả tư nghì, từ đây
hành giả có thể thông được với tam thiên đại thiên thế giới.
Hành giả thông được Pháp Phật và căn tánh hành nghiệp của
chúng sanh. Vì vậy từ một câu, một chữ trong kinh giảng vô số
nghĩa nói một ngày một tháng một năm không hết. Tất cả những
chúng sanh đến, hành giả đều biết những chúng sanh ấy
muốn cái gì, làm gì, tu pháp gì và tuỳ căn cơ mà chỉ dạy cho
họ được lợi ích.
-
3- Khi Hành giả thông được tất cả các pháp, và
thông đạt trăm nghìn ức nghĩa rồi, thì mặc dầu hành giả còn
thân ngũ ấm, và phiền não, nhưng hành giả có thể qua lại trong
ba cõi, xuống lên trong sáu nẻo luân hồi. Nghĩa là từ Bồ Tát
giới đến Ðịa Ngục giới tùy ý ra vào trong sanh tử luân hồi để
hoá độ chúng sanh hoàn toàn không chướng ngại, không ô nhiễm.
Mặc dù còn mang thân ngũ ấm nhưng có thể học đạo được với chư
Phật. Sau khi học đạo với chư Phật, và Bồ Tát rồi, hành giả có
đủ tư cách làm sứ giả của Như Lai. Do đó mà hành giả mặc dầu
chưa có thể độ cho mình mà đã có thể độ cho người, cho nên dù
ở trong nhà lửa của Tam Giới nhưng vẫn an nhiên tự tại đưa mọi
người về thế giới Cực Lạc. Ðây là tư thế của một bậc Ðại Thừa
Bồ Tát giống như Tùng Ðịa Bồ Tát ở thế giới Ta Bà để trợ hoá
cho Ðức phật, tương đương với Bồ Tát Ðệ Tam Ðịa.
-
4- Tuy còn thân phàm phu vẫn có thể độ người khác
và làm bạn được với chư Bồ Tát trong mười phương. Dù là chỉ
mới phát tâm hành giả cũng được coi như là Pháp Vương Tử, và ở
vị trí đồng đẳng với chư Bồ Tát trong mười phương, thâm nhập
vào pháp bí mật của chư Phật. Hành giả một mặt trụ ở Ta Bà,
một mặt tham dự với các Bồ Tát học xứ, trau dồi trí tuệ. Vì
vậy hành giả có thể dùng thần lực nầy để đưa những ai có tâm
nguyện muốn gặp chư Phật, chư Bồ Tát. Ðạt được công đức nầy
hành giả tuy còn là phàm phu với phiền não, nhưng nhờ nhận
được Phật lực, Bồ Tát lực nên tạo được lực dụng bất khả tư
nghì, do đó ngày đêm có thiên long che chở, ác ma không dám
khuấy phá, hoặc xâm hại được.
-
Ðạt được công đức nầy rồi, hành giả tương đương
với những bậc Bồ Tát Ðệ Tứ Ðịa.
-
5- Trì Kinh Pháp Hoa đạt được bốn điều công đức nói trên, hành
giả tuy còn phiền não, trông thật là tầm thường như bao nhiêu
người khác nhưng, có thể làm được việc phi thường như: Thị
hiện đại đạo Bồ Ðề, một ngày có thể làm cho mọi người có cảm
giác là một trăm kiếp, và cũng có thể làm cho một trăm kiếp
chóng như một ngày. Có được như vậy là vì hành giả đã thâm
nhập được pháp thân thanh tịnh, và phép tu thiền định sâu xa,
có thể giảng giải chân lý một cách rõ ràng. Ðó là những bậc Bồ
Tát bên ngoài hiện thân Phàm Phu, nhưng bên trong có đầy đủ
thần thông để độ được vô lượng chúng sanh. Việc làm của những
vị nầy không thể nghĩ bàn, vượt ra ngoài sự thấy biết của Phàm
Phu. Họ hành đạo dưới dạng tâm chân như của một bậc Bồ Tát hóa
sanh từ liên hoa là Bồ Tát thuộc dạng thức thứ hai chứ không
phải từ thân ngũ ấm, do đó mà những việc giúp ích cho chúng
sanh chính người nầy cũng không hay biết. Hành giả ở giai đoạn
nầy ngang hàng với Bồ Tát Ðệ Ngũ Ðịa.
-
6- Hành giả còn đủ phiền não ràng buộc nhưng vẫn có thể thuyết
pháp hoá độ chúng sanh. Lời nói nào của hành giả cũng đều là
sự thật, làm cho chúng sanh xa rời phiền não ô trọc, đồng thời
có thể làm bóng mát, là nơi nương tựa cho chúng sanh, do đó mà
những tâm hồn đau khổ tuyệt vọng một khi đã đến với hành giả
đều được bình yên. Ngay như chỉ nghe tên hoặc chỉ nghĩ đến
hành giả, chúng sanh đó cũng nhận được sự an lành.
Nương công đức kinh mà trấn át được nghiệp lực chúng sanh.
Chúng sanh nào có duyên với hành giả, chỉ một lần gặp mặt, một
lòng phát tâm tu trì thì chúng sanh đó có thể đoạn trừ phiền
não, đắc pháp, đắc quả, cho đến đắc đạo. Ðược công đức nầy
hành giả ngang hàng với Ðệ Lục Ðịa Bồ Tát.
-
7- Các hàng Thanh Văn đệ tử của đức Phật như ngài
Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Ðề..v..v..theo Phật từ ban đầu,
gia công tu hành Pháp Tứ Ðế và 37 phẩm trợ đạo chứng diệt đế
Niết Bàn. Nay hành giả Pháp Hoa không cần phải trải qua A Tăng
kỳ kiếp để tu pháp đoạn dục khử ái, chỉ nhất tâm thọ trì Kinh
Pháp Hoa, không chấp tướng mà còn quán sát lẽ Vô Tướng, nhờ
vậy mà có được trí tuệ cao xa, cho nên tự động nhàm chán mọi
say đắm dục lạc trong thế gian. Hành giả không tu Tứ Ðế, Thập
Nhị Nhân Duyên và 37 phẩm trợ đạo, sáu Ba La Mật, và các thần
thông, nhưng những pháp nầy cũng được thành tựu vì trong một
niệm vô tướng, thanh tịnh tương ứng với Kinh nên thấy được các
pháp như thật không còn tà vạy.. và chứng được quả vô sanh
Pháp Nhẫn. Tuy nhiên đây không phải là thực chứng như những
hàng A La Hán, Bồ Tát đạt được, mà sự chứng đắc nầy hành giả
đã nương vào công đức của Kinh và thần lực của chư Phật mà có
được những điều bất tư nghì như vậy. Nếu hành giả nào chỉ cần
khởi lên một niệm ngã mạn thì ngay tức khắc rơi trở lại thân
phận của Phàm phu.
-
Ðược công đức nầy hành giả tương đương với Bồ Tát
Ðệ Thất Ðịa.
-
8- Hành giả ngoài việc thọ trì kinh Pháp Hoa, còn
phải kiên trì giới hạnh nhẫn nhục, gồm những việc bố Thí, phát
lòng từ bi sâu rộng, nhờ thần lực đó mà hành giả có khả năng
làm cho những người chống đối với mình phát Bồ Ðề Tâm. Ðến
giai đoạn nầy thì hành giả cũng đồng như thân Phật không khác.
Người đến với hành giả thực không phát tâm Bồ Ðề, nhưng nhờ
nương năng lực chính hành giả hành trì, và công đức Kinh nên
hành giả chuyển được họ. Một khi tâm đã được chuyển thì những
vị ấy được coi như là Bồ tát Sơ Phát Tâm. Nếu những vị sơ phát
tâm ấy khởi một niệm thanh tịnh duyên với kinh, sẽ khơi dậy
tâm Bồ Ðề của người khác, những người đó có thể là thuận với
con đường học của mình thì tâm bồ đề của họ càng được tăng
trưởng thêm, Hành giả làm được việc giáo hoá như vậy, thì ngay
trong đời mặc dầu còn là thân phàm phu mà chứng được vô sanh
nhẫn và được ngôi thượng địa cùng với Bồ Tát làm quyến thuộc,
chẳng bao lâu sẽ thành vô thượng Bồ Ðề. Như trên là nói đến
những vị Sơ Phát Tâm mà uy lực còn như thế, nếu nói đến các vị
Bồ Tát lớn thì sao? Các Bồ Tát lớn thanh tịnh miên viễn, công
đức tròn đầy, nên bất cứ lúc nào nghĩ tưởng đến các ngài thì
những chúng sanh ấy cũng đều thanh tịnh.
-
Ðược công đức nầy hành giả tương đương với Bồ Tát Ðệ Bát Ðịa.
-
9- Ðến giai đọan nầy những nghiệp chướng của hành giả từ đời
kiếp trước còn sót lại, tất cả đều tan hoại và được thanh
tịnh. Hành giả được tài hùng biện không ngăn ngại, giảng giải
các Pháp Ba La Mật, chứng được các môn Tam Muội như Thủ Lăng
Nghiêm Tam Muội, vào được môn tổng trì. Lúc bấy giờ hành giả
được thông suốt mọi vấn đề mà không cần phải học. Tất cả những
công đức nầy đều nhờ vào sự phát tâm Bồ Ðề, nương công đức
kinh tu tập, do đó mà bất cứ một người nào khi đến với hành
giả cũng sẽ tìm thấy sự an lạc trong tâm hồn. Hành giả đạt
được pháp nầy tuy còn ở địa vị phàm phu nhưng đã có thể phân
thân đi giáo hóa khắp các thế giới, ngay cả trong cuộc sống
hiện tại có thể dạy cho các lòai thú tu học vì vậy mà loài
người và các loài cầm thú đều kéo về quy ngưỡng. Hành giả
giảng kinh, thuyết Pháp khuyên dạy mọi người tu học dưới dạng
người của Liên Hoa nên chính hành giả cũng không biết. Cũng
nhờ dưới dạng thức thứ hai nầy nên hành giả có thể phân thân ở
khắp mười phương để cứu vớt tất cả chúng sanh. Ðến đây tương
đương với Bồ Tát Ðệ Cửu Ðịa.
-
10- Sử dụng được công đức thứ mười Bồ Tát tương đương với Bồ
Tát Ðẳng Giác. Do đó tuy còn ở chốn phàm phu mà đã phát được A
Tăng Kỳ Thệ Nguyện sâu rộng như đức Phổ Hiền Vương Bồ Tát,
đồng thời cũng phát lòng đại bi thệ cứu độ hết thảy chúng sanh
vô lượng vô hạn. Nương công đức kinh giáo hóa khắp mười
phương. Ðem tình thương đi trang khắp mọi nơi và ban cho hết
thảy chúng sanh được yên vui, rồi dần dần vượt lên Pháp Vân
Ðịa. Do ân đức thấm nhuần, lòng từ cứu độ không bờ bến tiếp
dắt chúng sanh thâm nhập con đường đạo, nên hành giả được coi
như là Bồ Tát tại nhân gian. Nhưng nếu hành giả để một vọng
niệm khởi lên thì liền rớt trở lại thế giới Phàm Phu.
-
Mười công đức nói trên được đức Phật xác định chỉ có Bồ Tát
Nhân Gian mới sử dụng được. Bồ Tát Nhân Gian là Bồ Tát vì
thương chúng sanh nên trở lại thế giới Ta Bà để hóa độ. Các
ngài thọ ngũ ấm thân như con người trần thế, vẫn còn phiền não
trần lao như mọi người, còn bị nghiệp tập quán chi phối, nhưng
bên trong hoàn toàn thanh tịnh. Khi thọ trì kinh trong ngoài
đều thanh tịnh nên phá được bức màn Vô Minh thông suốt từ
trong ra ngoài và do đó mà lúc trở lại với tư thế của Phàm phu
vẫn thanh tịnh
-
Nói Tóm lại, muốn đi vào Thế Giới Pháp Hoa để tham dự vào cảnh
giới vô thượng nầy, Hành giả trước tiên phải nghiêm túc tự
kiểm điểm lại mình. Bước đầu tiên là tự xét về Ðức Hạnh, bước
thứ hai là kiểm điểm sự hiểu biết của mình, và bước thứ ba là
xác định khả năng truyền bá Pháp Hoa của mình, như đã trình
bày ở trên. Bước qua ba cấp bậc nầy rồi, hành giả là mẫu người
lý tưởng, đầy đủ tư cách để bước và cảnh giới mầu nhiệm của
Pháp Hoa.
-
-
Tài
liệu tham khảo:
-
-
Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
-
- Lược Giải Kinh pháp Hoa
-
- PhápHoa Diễn Giảng Lục
-
- Phật Học Tự Ðiển
|