-
Mùa Xuân & Thiền Sư
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
- Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
-
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
-
(Mãn Giác Thiền Sư)
-
-
Ðịnh luật tuần hoàn luôn thay đổi. Hết Xuân đến
Hạ, hết Thu nối tiếp mùa Ðông. Nguyên lý vận hành nầy bất di
bất dịch từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Khách quan chúng ta
thấy đó là lẽ tự nhiên của trời đất, cũng vì vậy mà không ai
để ý tới sự thay đổi nữa và mặc nhiên chấp nhận. Thật sự thì
không đơn thuần như chúng ta nghĩ. Nhìn kỹ thì chúng ta mới
thấy những nguyên lý của sự tàn tạ cũng như sự trưởng thành có
sự mâu thuẫn chống trái nhau. Việc xét nghiệm lý giải để tự
tạo cho mình một mớ kinh nghiệm bổ ích cho việc tu tập là việc
làm cần thiết. Tôn Giáo Phật Giáo ra đời nhằm thỏa mãn và hỗ
trợ cho mục đích dẫn dắt con người hiểu rõ được chân giả của
cuộc đời, rồi từ đó chúng ta lần lần đi đến chỗ bỏ giả tìm
chân.
-
A- Nhận Thức Về Vô thường
-
Trong Kinh Bát Ðại Nhân Giác nói về Nguyên Lý Duyên Khởi và Vô
Ngã, Ðức Phật đã dạy: Các pháp là giả dối hư vọng, không có tự
tánh, và vì không có tự tánh nên luôn luôn tùy theo hoàn cảnh
mà biến đổi không một giây phút ngừng nghỉ. Những biến đổi
thuộc về Lý Vô Thường là một sự thật hiển nhiên trước mặt,
được chứng minh bằng kinh nghiệm của những giác quan trong đời
sống hằng ngày. Như có nhà thơ Việt Nam đã từng nói:
-
-
Sông kia rày đã nên đồng
-
Bên làm nhà cửa bên trồng ngô khoai
-
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
-
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
-
Vô Thường làm cho ta thấy mọi sự mọi vật, tất cả
đều không có thực thể, vì luôn luôn biến đổi. Mọi cá thể, mọi
sự, mọi vật đều đặt trong tình trạng bất định diễn biến không
ngừng theo định luật: Sanh, Trụ, Dị, Diệt, hay: Thành, Trụ,
Hoại, Không qua các phương diện:
-
1- Thân Vô Thường
-
Nói đến thân Vô Thường là muốn nói đến kiếp sống của con người
Vô Thường. Sanh, Lão, Bệnh, Tử là bốn đại bất hạnh của kiếp
người. Ðời sống của con người Vô Thường bắt đầu ngay từ khi
đứa bé chào đời:
-
-
Mới sanh ra thì đã khóc oé
-
Trần có vui sao chẳng cười khì?
-
Cho đến khi khôn lớn, cả một sự thay đổi toàn diện, vậy mà
kiếp người vì quá nông nổi nên không thấy trong thân thể chúng
ta các tế bào có sự thay đổi. Các tế bào cũ từng giây từng
phút chết đi, các tế bào mới từng giây từng phút xuất hiện.
Khoa học như Thiên Văn Học có thể dùng Viễn Vọng Kính để coi
thấy sự hình thành của những thế giới trong tương lai, các Bác
Sĩ Y Khoa đã có sự tiến bộ vượt bực làm cho thụ thai nhân tạo,
đem tinh trùng của người nầy cho người khác mang thai, trị
được những chứng bệnh hiểm nghèo bằng những phương pháp Y Khoa
tân kỳ, nhưng vẫn không tránh được luật Sanh, Già, Bệnh, Chết.
-
2- Tâm Vô Thường
-
Nói Tâm Vô Thường là nói đến sự Vô Thường từng sát
na. Tâm niệm của chúng ta thay đổi từng giây từng phút theo
ngoại cảnh, chúng ta có thể thấy vui đó, buồn đó, ghét đó rồi
thương đó. Nên Ðức Phật đã dạy:
-
- Tâm người như Vượn chuyền cây
-
Như Ngựa rông chạy ngoài đồng nội.
-
Thật vậy, tâm niệm của chúng ta sanh diệt từng sát
na, và chính vì nó sanh diệt như thế, nên ta có cảm tưởng như
không thay đổi gì cả. Nhưng sự thật tâm niệm của ta được cấu
tạo từng niệm sanh diệt, theo như ở trong Abhidharma có nói:
Một sự kích thích ở ngoài ngang qua năm căn, thời cả một số
tâm tiếp diễn liên tục khởi lên diệt xuống cho đến mười sáu
lần sát na tâm được tiếp diễn như sau:
-
1- Hữu phần chuyển động
-
2- Hữu phần dừng nghỉ
-
3- Ngũ môn hướng tâm
-
4- Nhãn thức hay một trong bốn thức khác
-
5- Tiếp thọ tâm
-
6- Suy đạt tâm
-
7- Xác định tâm
-
8-14 Tốc hành tâm
-
15-16 Ðồng sở duyên tâm.
-
Như vậy từ Hữu Phần Chuyển Ðộng cho đến Ðồng Sở Duyên Tâm có
tất cả mười sáu sát na tâm, nếu chúng ta cộng một tâm sát na
nữa, thì thời gian cần thiết để đối tượng ở ngoài tiếp xúc với
nội tâm, thời chúng ta thấy đời sống một lộ trình của tâm có
đến 17 tâm sát na và có tới bảy loại tâm khởi lên diệt xuống
trong một lộ trình từ ngũ môn hướng tâm, đến Ðồng Sở Duyên
Tâm, nhưng vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ
đó, nên ta cứ tưởng đơn thuần bất biến. Trong Thanh Tịnh Ðạo
Luận, ngài Buddhaghosa nói: Mỗi sát na sanh tồn thoáng qua
trong chớp nhoáng, như một chiếc bánh xe khi lăn đi, chỉ tiếp
mặt phẳng tại một điểm. Cũng vậy, mỗi sát na sanh tồn của
chúng ta, chỉ tồn tại trong một tâm niệm. Khi tâm niệm dứt thì
đời sống của chúng ta cũng dứt. Theo quan niệm đó con người
biến đổi từng sát na một. Cái ta phút trước đâu phải cái ta
phút nầy, cái ta phút nầy đâu phải cái ta phút sau. Cái nầy
diệt thời cái kia khởi liên tiếp không gián đoạn. Vậy cái nào
là cái Ta thật? Có một thi sĩ Việt Nam hỏi:
-
- Ai bảo giùm: Ta có, Ta không?
-
Câu hỏi này mới nghe ta thấy có vẻ ngớ ngẩn, nhưng
khi nghĩ kỹ không phải hoàn toàn vô lý, mà nó còn có ý nghĩa
sâu sắc nữa là khác.
-
3- Nhất Kỳ Vô Thường
-
Hay còn gọi là Vô Thường của Tất cả các Pháp Hữu Vi. Gọi là
pháp Hữu Vi là muốn nói những gì hiện hữu do nhân duyên tạo
thành. Trong sự biến đổi của tất cả các Pháp Hữu Vi, chúng ta
thấy rõ mọi sự mọi vật đều có sinh diệt trên thân, tâm, hoàn
cảnh, sơn hà đại địa. Chúng ta thường lầm tưởng chỉ có sinh
vật mới có biến đổi, chứ những vật lớn như núi sông, đất cát
thì không biến đổi, nhưng sự thật núi sông cũng có núi trẻ núi
già, đất cũng có chỗ lở chỗ bồi. Những sự kiện đó kinh nghiệm
của giác quan bình thường của con người ai cũng nhận được cả.
Hiện nay các nhà Ðịa Chất Học đã chứng minh những Ðại Lục đã
bị tách rời, hoặc sẽ tách rời ra khỏi đại lục như trường hợp ở
California, các nhà Ðịa Chất Học đã tiên đoán phần đất nầy sẽ
tách rời khỏi lục địa của Bắc Mỹ trong một tương lai nào đó.
Có những hòn đảo bị chìm sâu trong lòng bể cả, có những vùng
đất sụp do ảnh hưởng của địa chấn như ở San Francisco, những
biến đổi do núi lửa tạo ra như ngọn núi Saint Helen và những
giòng sông khô cạn trở thành bình nguyên..v..v..
-
Những cái Vô Thường như đã nêu ở trên là những biến đổi để đi
đến chỗ phân chia hoặc diệt vong. Ngoài ra chúng ta còn thấy
có những cái biến đổi để trưởng thành, như một em bé, từ khi
sanh ra, nếu không có sự bến đổi của Vô Thường, chắc chắn sẽ
không bao giờ lớn và trưởng thành. Ðiều này chứng minh được sự
Vô Thường không phải chỉ có gây tai họa, phiền não, mà nó còn
có tác dụng tiến hoá trong cuộc sống, vì vậy mà chúng ta không
lạ gì khi nghe ngài Mãn Giác Thiền Sư tuyên bố:
-
-
Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
-
Ðêm qua mai nở trước hành lang.
-
Hai câu thơ trên, Ngài Mãn Giác Thiền Sư đã nói rõ về tính
cách Vô Ngã, Vô Thường của vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Quả
thật sự sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày chỉ là dòng biến
đổi liên tục của nhân duyên. Ðời sống của mỗi chúng ta, cũng
như cuộc sống của tất cả các loại khác hiện hữu do nhân duyên
hợp biến nên giả có, nhưng không có ngã thật vì nó thay đổi
luôn. Những khổ đau của kiếp người phần lớn là do lòng mong
cầu chiếm hữu, mà Vạn Pháp vốn không có tự tánh thì làm sao
chiếm giữ. Như có người nói:
-
-
Tôi muốn cho nắng đừng rọi
-
Cho màu đừng nhạt bớt.
-
Tôi muốn cho gió đừng thổi
-
Cho hương đừng bay đi.
-
Sự thật mình muốn là mình muốn, nhưng định luật biến đổi tự
nhiên nó có chiều ai đâu! Nắng không rọi nhưng theo dòng thời
gian thì màu cũng phai nhạt. Gió không thổi đi nữa nhưng hương
cũng sẽ mất dần với hư vô, vì tất cả Vạn Pháp là Vô Ngã, thay
đổi luôn nên sự tìm cầu không được thỏa mãn lại trở thành bất
mãn:
-
-
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
-
Ðem chi xuân đến gợi thêm sầu
-
Với tôi tất cả đều vô nghĩa
-
Tất cả không ngoài cái khổ đau.
-
(Xuân Diệu)
-
Dục vọng của con người còn là đau khổ còn, nên thi sĩ Ðoàn Như
Khuê đã nói:
-
-
Bể khổ mênh mông sóng ngụt trời
-
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
-
Kìa ai ngược gió ai xuôi gió
-
Ngoảnh lại cũng trong biển khổ thôi.
-
Một khi con người để cho dục vọng lôi cuốn, khởi lên những
hành động tạo tác rồi cho nó là có thật, nhưng thật sự chỉ là
huyển cảnh. Con người mê chấp cái thật ấy vì không phân rõ lý
Vô Thường, Vô Ngã của Ðức Phật đã dạy nên trở thành đau khổ
khi những mong cầu không thỏa mãn. Nếu chúng ta chịu khó nhận
xét chiều sâu thì sẽ thấy: Nhờ sự Vô Thường, Vô Ngã của các
Pháp mà đời sống mới có linh động và con người mới có tài
năng, trí tuệ của mình đẩy mạnh bánh xe tiến hóa của nhân
loại.
-
B- Nhận Thức Về Vô Ngã
-
Như trên đã nói, cuộc đời là Vô Thường, nên không
thật có cái gì của ta, do đó Ðức Phật ngài dạy chúng ta luôn
luôn quán các Pháp Hữu vi như mộng như huyển, sắc thân, tri
giác, cảm giác ý thức, và những tạo tác của tinh thần cũng đều
không phải của mình. Ngay cả ý niệm sâu dày thầm kín về cái
ta, về Bổn Tánh Ðồng Nhất và Bổn Tánh Liên Tục cũng không phải
là của ta mà là vọng tưởng. Sở dĩ có ý niệm Ðồng Nhất và Liên
Tục về cái ta là chỉ vì có ký ức. Tất cả như: Hình hài, tế
bào, lục phủ, ngũ tạng, khối óc. các hệ thần kinh, cảm giác và
ý tưởng cũng có ký ức của nó. Tất cả ký ức kết thành một ý
niệm Ðồng Nhất Tính, nhưng cái Ðồng Nhất Tính nầy cũng giả
tưởng, bởi vì cái Ðồng Nhất Tính nầy mà có đều do sự giả hợp
mà có. Có người chấp ngã, thì cho bản ngã là trường tồn là chủ
tể bất biến, tuy nhiên thực tế thì thân và tâm của chúng ta
lại biến đổi từng sat na, cho nên không thể bảo là tự ngã. Như
vậy nếu phân tích Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thì không có cái
gì gọi là cái riêng của ta cả. Nên Ðức Phật dạy: Mọi sự vật
không có sự vật nào có cái ta riêng biệt. Tất cả các Pháp đều
chỉ là hợp tướng tạm thời, khi duyên đủ có nhiều phần tử tụ
hội lại với nhau, lúc nào hết duyên thì các phần tử phân ly.
Như vậy cái ngã của con người chỉ là cái tổng hợp của Sắc Tâm
chứ thật thể của ngã thì không có, mà thân tứ đại nầy lại biến
đổi Vô Thường từng giây từng phút thì cái ta làm sao có thật.
Trong Kinh Kim Cang Ðức Phật có dạy:
-
-
Nhất thiết hữu vi pháp
-
Như mộng huyển bào ảnh
-
Như lộ diệt như điển
-
Ứng tác như thi quán.
-
Nghĩa là:
-
-
Tất cả các Pháp Hữu Vi
-
Như chiêm bao bọt bóng
-
Như sương rơi sấm chớp
-
Phải quán sát như thế.
-
Theo ý đó, ngành Y Khoa Sinh Lý Học ngày nay cho biết rằng
trong cơ thể của mỗi người, cứ từng sát na có hằng triệu triệu
tế bào già chết đi và có hằng triệu triệu tế bào trẻ sanh
trưởng để thay thế( như đã nói ở trên). Như vậy từ bé cho đến
khôn lớn trưởng thành, chúng ta không phải chỉ có một thân mà
là có rất nhiều thân nối tiếp nhau. Trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
có đoạn:
-
Vua Di Lan Ðà hỏi:
-
-
Người thác sanh trở lại
-
Là người cũ hay khác
-
Na Tiên Tỳ Kheo đáp:
-
- Cũng không phải người cũ
-
Cũng không phải người khác.
-
Vua Di Lan Ðà không hiểu xin thí dụ:
-
- Xin ngài cho thí dụ
-
Ðể cho trẫm hiểu rõ.
-
Na Tiên Tỳ Kheo đáp:
-
- Bệ hạ lúc còn nhỏ
-
Với con người bây giờ
-
Là một hay là khác
-
Vua Di Lan Ðà đáp:
-
- Bạch: Khác, không phải là một.
-
Na Tiên Tỳ Kheo hỏi:
-
- Nếu vậy thời Mẫu Hoàng
-
Và Phụ Hoàng bây giờ
-
Và Bệ Hạ đâu có
-
Ông thầy nào dạy học
-
Vì những ông thầy đó
-
Dạy Thái Tử xưa kia
-
Chứ không phải Bệ Hạ?
-
Vua Di Lan Ðà hỏi:
-
- Bạch ngài, lời ngài dạy
-
Tôi chưa được hiểu rõ
-
Ðiều nầy ai hỏi ngài
-
Thì ngài đáp thế nào?
-
Na Tiên Tỳ Kheo đáp:
-
- Người bần tăng hồi nhỏ
-
Với người bây giờ đây
-
Vốn là một mà thôi
-
Những khoảng đời tuy khác
-
Nhưng cũng một thân thể
-
Và cũng một tinh thần.
-
Vua Di Lan Ðà hỏi:
-
- Xin ngài cho thí dụ
-
Ðể cho trẫm hiểu rõ.
-
Na Tiên Tỳ Kheo đáp:
-
-
Như người có ngọn đèn
-
Ngọn đèn ấy có thể
-
Cháy đến sáng hay không?
-
Vua Di Lan Ðà đáp:
-
- Có thể cháy đến sáng
-
Na Tiên Tỳ Kheo hỏi:
-
- Ngọn đèn lúc đầu hôm
-
Ngọn đèn lúc giữa đêm
-
Ngọn đèn lúc hừng sáng
-
Có giống nhau hay không?
-
Vua Di Lan Ðà đáp:
-
- Bạch ngài không giống nhau
-
Na Tiên Tỳ Kheo hỏi:
-
- Trong ba khoảng cùng đêm
-
Vậy người ta có thắp
-
Ngọn đèn nào khác không?
-
Hay chỉ một ngọn đèn đó?
-
Vua Di Lan Ðà đáp:
-
- Vốn một ngọn đèn thôi
-
Một tiêm một thứ dầu
-
Nhờ đó mà cháy được
-
Từ đầu hôm đếm sáng
-
Na Tiên Tỳ Kheo dạy:
-
- cũng như thế chẳng khác
-
Sự liên tiếp các Pháp
-
Vốn là trường tồn vậy
-
Cái Pháp nầy đã đi
-
Cái Pháp kia sẽ lại
-
Tinh thần của con người
-
Là trường tồn bất diệt
-
Nhưng nó và thai sanh
-
Sanh ra rồi lớn lên
-
Thân thể già rồi chết
-
Nó thác sanh trở lại
-
Nhập vào bào thai khác
-
Cho nên mới nói rằng
-
Cũng không phải người cũ
-
Cũng không phải người mới.
-
Qua đoạn kinh nói trên làm cho chúng ta hiểu rằng chúng ta có
rất nhiều thân, sở dĩ chúng ta thấy có một thân vì sự thay đổi
quá vi tế, nên giác quan bình thường của con người không đủ
khả năng trực nhận. Trong khi đó Ðức Phật hiểu rõ con người
cũng như tất cả mọi sự vật không có bản chất vĩnh cửu, toàn
trí toàn năng, bất sinh bất diệt. Dưới cái nhìn Trung Ðạo,
Phật Giáo không chủ trương tiêu diệt hẳn, cũng không chủ
trương trường tồn. Vì nếu như các Pháp trường tồn thì các Pháp
phải là những cái gì có thật, vĩnh cửu, bất biến, phải hoàn
toàn độc lập và không bị lệ thuộc vào một sự vật khác để sinh
ra, hay nói một cách khác rõ ràng hơn là không bị chi phối bởi
luật duyên sanh. Ðiều nầy không thể có được. Nhưng các Pháp
không phải hoàn toàn không thật, vì một vật một khi đã không
có thật thì không bao giờ xuất hiện. Chủ trương Trung Ðạo quan
niệm rằng các Pháp tuy có nhưng không phải có một cách tuyệt
đối. Bởi vì Vạn Pháp Sanh Khởi do Lý Duyên Sanh, nhưng thật
thể của nó đều tự nơi Bản Thể Nhất Như lưu hiện. Vì thế mà
Vạn Pháp chỉ có hình tướng giả hợp mà không có thật. Như thế
thuyết Vô Ngã Ðức Phật ngài dạy không phải không có cái ta,
nhưng cái ta ấy không thực thể vì theo định luật Vô Thường nên
nó biến đổi không ngừng.
-
C- Tìm Cái Chân Thường Chân Ngã Trong Vô Thường, Vô Ngã
-
Chánh Pháp của Ðức Phật đã khai mở Diệu Lý Bát Nhã
giống như lăng kính muôn mặt, với nghìn vạn sắc mầu để từ đó
chúng ta dùng ánh sáng của Bát Nhã soi vào hai mặt Lý-Sự,
Tánh-Tướng của vũ trụ, để từ đó ta có cái nhìn dự phóng về
tương lai chính xác hơn, chứ không phải dụng ý thuyết minh về
Nguyên Lý Duyên Khởi, Triết Lý Vô Thường, Vô Ngã để dạy chúng
ta có cái nhìn bi quan yếm thế như một số người đã không biết
hay đã cố ý không biết đã từng xuyên tạc. Chủ ý của Ðức Phật
nói ra điều nầy để chỉ dạy cho chúng ta biết được: Vạn Pháp
giai không, hay duyên khởi tánh không để từ những cái Vô Ngã,
Vô Thường chúng ta phải tìm cho được cái Chân Ngã, Chân
Thường.
-
Những bậc thánh nhân, thường thì các ngài nhìn đời
bằng đôi mắt tinh tường và thấy rõ giả tưởng của cuộc đời như
mộng, như huyển, nên cuộc sống của các ngài thanh đạm, không
bị trói buộc trong cảnh giàu sang danh lợi, như cụ Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã từng nói:
-
-
Một mai một cuốc một cần câu
-
Thơ thẩn cùng ai vui thú nào
-
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
-
Người khôn người đến chốn lao xao
-
Thu ăn măng trúc, Ðông ăn giá
-
Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao
-
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp
-
Nhìn xem phú quý tợ chiêm bao.
-
Những vị có tham cứu chút ít về nghĩa lý sâu xa của Ðạo Phật
nên sống với tâm hồn thanh tịnh, và thản nhiên trước mọi sự
đua đòi của thế sự.
-
-
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
-
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
-
Nghĩa là:
-
-
Biết đủ là đủ, chứ chờ đủ thì không bao giờ đủ
-
Biết nhàn là nhàn, chứ chờ nhàn thì sẽ không bao giờ có được
nhàn.
-
Riêng về những ai đã thâm nhập Phật Lý hiểu rõ Lý Duyên Khởi,
Thuyết Lý Duyên Sanh, thì sẽ nhận chân được vạn sự vạn vật
không thật có tự ngã riêng biệt, mà chỉ theo duyên hoà hợp kết
thành. Duyên hoà hợp kết thành hiện ra tuồng như có. Duyên hết
phân ly tan biến dường như không. Có và Không đều do ảnh tượng
kết hợp hình thành không chắc thật. Các Thiền Sư đã thấy được
sự Vô Thường, và đã vượt ra ngoài cuộc sinh hoá của vũ trụ
như:
-
1- Mãn Giác Thiền Sư
-
Ngài mãn Giác Thiền sư đắc đạo vào thời vua Lý Nhân Tôn, thế
kỷ thứ 11 đã thấy được những cảnh vật trong vũ trụ, tất cả đều
do những huyển tượng không có gì vĩnh cửu. Giống như hoa với
mùa Xuân: Mùa Xuân hết trăm hoa đều héo rụng, mùa Xuân đến
trăm hoa lại đua nở. Ðời người cũng như vậy, những lúc tuổi
trẻ, công việc hằng ngày từng giây từng phút đi qua trước mắt
mình không để ý, cái già nó đến trên đầu mình lúc nào mà không
hay, tuy nhiên cũng đừng tưởng rằng Xuân qua rồi tất cả các
hoa đều phải rụng hết, mà giữa lúc trời Ðông giá lạnh, giữa
những cây cối trơ trụi đó vẫn còn có một cành mai nở rộ. Ngài
Mãn Giác Thiền Sư đã thấy được sự Vô Thường, và ngài vượt ra
ngoài cuộc sinh hóa của vũ trụ:
-
- Xuân khứ bách hoa lạc
-
Xuân đáo bách hoa khai
-
Sự trục nhãn tiền quá
-
Lão tùng đầu thượng lai
-
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
-
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai.
-
Tạm dịch:
-
- Xuân đã qua thời tiết đổi thay
-
Trăm hoa tàn úa rụng rơi đầy
-
Ðịnh luật tuần hoàn luân lưu mãi
-
Rồi lại Xuân về trăm hoa khai.
-
Kiếp người ngắn ngủi với thời gian
-
Trẻ đi già đến thật ngỡ ngàng
-
Ðừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết
-
Ðêm qua mai nở trước hành lang.
-
2- Vạn Hạnh thiền Sư
-
Là một vị Thiền Sư đắc đạo vào đời Lê-Lý. Ngài là người có
công đào tạo Lý Công Uẩn, sau nầy là vua Lý Thái Tổ, trước khi
thị tịch ngài có để lại bài kệ giác ngộ, trong bài kệ đó ngài
đã nói lên cả tánh tướng của vũ trụ:
-
-
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
-
Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô
-
Nhậm vận thịnh suy vô úy thí
-
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
-
Nghĩa là:
-
-
Thân như bóng chớp chiều tà
-
Cỏ Xuân tươi tốt Thu qua rụng rời
-
Xá chi suy thịnh cuộc đời
-
Thịnh suy như giọt sương rơi đầu cành.
-
3- Viên Chiếu Thiền Sư
-
Một khi đã thấy được bản ngã thì đối với Vạn Hữu là đại vũ
trụ, và bản thân là tiểu vũ trụ, tuy hai mà là một. Ngài Viên
Chiếu Thiền Sư đã nhận thức được điều đó nên sự chuyển dịch
của thời gian năm tháng như không còn có ý nghĩa:
-
-
Chẳng thấy Xuân sanh cùng Hạ trưởng
-
Theo liền Thu chín với Ðông tàn.
-
4- Vua Trần Nhân Tôn
-
Nói đến vua Trần Nhân Tôn, trước hết chúng ta hãy nói đến khía
cạnh của người anh hùng cứu nước. Ngài làm vua 14 năm từ năm
1279-1293. Trong thời gian ấy đất nước Ðại Việt đứng trước
hiểm họa xâm lược lần thứ hai, lần thứ ba của giặc
Nguyên-Mông. Trong hai lần kháng chiến nầy, Trần Nhân Tôn đã
trở thành là sợi dây kết chặt lòng dân, lãnh đạo quân dân Ðại
Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi
huy hoàng. Qua hai cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tôn đã chứng
minh ngài vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm
quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào những lúc đầu của
cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không
cân sức với đối phương, Trần Nhân Tôn đã viết lên đuôi chiến
thuyền hai câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm
tàng của quân ta:
-
-
Cối kê cựu sự quân tu ký
-
Hoan diễn do tồn thập vạn quân.
-
Nghĩa là:
-
-
Cối kê chuyện cũ ngươi nên nhớ
-
Hoan diễn đang còn chục vạn quân.
-
Hai câu thơ nầy cùng với hai câu Trần Nhân Tôn viết bên lăng
Trần Thái Tôn tại Long Hưng (Thái Bình)lúc làm lễ dâng tù binh
mừng chiến thắng lần thứ ba:
-
-
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
-
Sơn Hà thiên cổ điện kim âu.
-
Nghĩa là:
-
-
Xã Tắc hai lần lao ngựa đá
-
Non sông nghìn thưở vững âu vàng.
-
Tất cả đều đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công
bình Nguyên-Mông năm 1285 và 1288 trong đó Nhân Tôn là vị chủ
soái. Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành
được trong sự nghiệp cứu nước, Trần Nhân Tôn đã chú ý tới vai
trò của người dân lao động mà thời đó gọi là gia nô, gia đồng.
Ngài cho rằng họ mới là những người trung thành với đất nước
khi có giặc ngoại xâm.
-
Xét trên bình diện Triết Học, Trần Nhân Tôn có một vị trí
quan trọng. Ông là một triết gia lớn của Phật Học Việt Nam.
Với Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử mà Trần Nhân Tôn đứng đầu,
triết học Phật Giáo Việt Nam thời Trần đã phát triển rực rỡ và
thể hiện đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc
trưng nổi bật của tư tưởng triết học Trần Nhân Tôn là tinh
thần thực tiễn. Về phương diện thi sĩ ngài là một người có tâm
hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã,
nhất là đối với cảnh vật thiên nhiên. Thơ của Trần Nhân Tôn,
ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị
thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết.
-
Sau 14 năm làm vua, theo truyền thống của nhà Trần, Nhân Tôn
nhường ngôi cho con là Anh Tôn rồi làm Thái Thượng Hoàng và
Ngài đã ý thức được cảnh đời phù du giả tạm, nên đã từ bỏ cảnh
phồn hoa đô hội, những xung đột của cuộc đời, thăng trầm của
thế sự để đi tìm cái vô tâm vô cầu, sau nầy trở thành tổ thứ
nhất của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu
ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Một khi tâm của
con người bình an phẳng lặng thì thiên nhiên vạn hữu cũng hiện
ra đầy đủ một cách trung thực như:
-
-
Ðịa tịch đài thêm cổ
-
Thời lai Xuân vị thâm
-
Vân Sơn tương viễn cận
-
Hoa kính bán tình thâm
-
Vạn sự thủy lưu thủy
-
Bách niên tâm giữ tâm
-
lan hoành ngọc địch
-
Minh nguyệt mãn hưng khâm.
-
Nghĩa là:
-
-
Ðất hoang đài thêm cổ
-
Xuân vẫn đầy khí sắc
-
Núi mây xa gần đó
-
Ðường hoa sáng bóng mờ
-
Dòng đời trôi chảy mãi
-
Trăm năm lòng với lòng
-
Lan can cầm ngọc địch
-
Trăng sáng đầy chân tâm.
-
Và:
-
-
Niên thiếu chưa từng hiểu Sắc Không
-
Ngày Xuân hoa nở rộ trong lòng.
-
Kết Luận:
-
Khi thấu rõ danh lợi trên thế gian là huyển mộng, con người
khi ra đời cũng như lúc từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng,
thì chúng ta nên tập sống tri túc tức là sống biết đủ. Người
biết tri túc thì đời sống an vui, thủ thường hành đạo. Ðể tạo
tư lương cho chính mình tiến bước trên con đường giác ngộ giải
thoát, bằng cách tìm về thiên nhiên với cỏ cây ngoài đồng nội:
-
-
Mùa Xuân bỏ vào suối chơi
-
Nghe chim hót núi gọi trời mưa hoa
-
Múc bình bát nước về qua
-
Ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa.
-
Cũng có người:
-
-
Xuân đến đồng hoa cỏ nội
-
Xuân về một mái tranh cài
-
Tùng cúc đi về ngõ hẹp
-
Phù du bào ảnh nhập thiên thai.
-
Nhìn hình ảnh của chư Phật, chư Tổ, chư vị Thiền
Sư đã là tấm gương sáng chói vượt hẳn thời gian và không gian
để trở thành những đối tượng vĩnh viễn trong lònh nhân loại.
Ngày nay nếu tất cả mọi người con cùng hiểu thấu được định
luật của vũ trụ, thì sẽ thấy được thiên nhiên vốn sẵn có sức
sống vô bờ, và những vẻ đẹp thuần khiết. Những cái nầy chỉ
thấy khi mà tất cả mọi người biết giữ tâm trí tự nhiên trước
mọi cảnh vật, không sôi động, không mang cái chủ quan vọng
động đầy mặc cảm của mình, có như thế mới thấy được mùa Xuân
liên miên bất tận chứ không phải chỉ có mùa Xuân theo bốn mùa
của nhân thế.
-
-
Tài liệu tham khảo:
-
-
Bát Nhã Cương Yếu
-
-
Văn Học Lý Trần
-
-
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo Vấn Ðáp
-
-
Phật Học Phổ Thông
-
-
Văn Hoá Việt Nam
|