Cổng Tam Quan
Nguyễn Mộng Khôi
--o0o--
 
Phật Giáo du nhập đến Việt nam vào những thế kỷ đầu Tây Lịch. Từ đó cho đến bây giờ tinh thần đạo Phật được luân lưu trong nhân gian một cách sâu rộng. Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt Nam, Ðạo Phật chỉ mới phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt, và dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo Phật trong phương diện thờ cúng lễ bái. Về sau Phật Giáo Thiền học được truyền vào, nhưng những kinh điển trong giai đọan nầy có khuynh hướng Tiểu Thừa nhiều hơn. Ngài Khương Tăng Hội là người có công đốt lên ngọn đuốc Ðại Thừa Thiền Học. Sau Ngài Khương Tăng Hội thì có các ngài Cảm Thành Thiền Sư, ngài Thiện Hội Thiền Sư..v..v..đó là thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ hai chúng ta thấy có ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và thời kỳ thứ ba thì có Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Phật Giáo đến Nhà Ðinh và Tiền Lê thì phát triển rất mạnh, có thể nói Ðaọ Phật trong giai đoạn nầy đã chiếm một địa vị độc tôn, vì vậy tất cả các phương diện Văn Hóa, chính trị trong nước phần lớn đều do Tăng Sĩ phụ trách. Ðạo Phật đã được phổ cập trong quần chúng một cách sâu rộng, cho nên các Chùa, Viện cũng xuất hiện khắp nơi trên những nẻo đường Việt nam. Từ những miền núi rừng thâm u, hay cạnh dòng sông hiền hòa của đồng quê, cho đến những nơi huyên náo của phố xá thị thành, hình ảnh ngôi Chùa với Cổng Tam Quan trở nên quen thuộc với mọi người. Cổng Tam Quan tức là Cổng Chùa có ba cửa đi: Một cửa giữa lớn và cao, hai cửa nhỏ ở hai bên và hơi thấp hơn cửa giữa. Vì ảnh hưởng sâu đậm bởi tinh thần Thiền Học cho nên khi nói đến Chùa người ta thường nói là Thiền Môn có nghĩa là cửa Thiền, hay còn gọi là Không Môn có nghĩa là Cửa Không, nơi đó có những người tu, hiền lương, giải thoát. Còn về Cổng Tam Quan cũng gọi là Tam Giải Thoát môn, tức là Ba Cánh Cửa Giải Thoát, ba cánh cửa  đó là:
- Cửa Không
- Cửa Vô Tướng
- Cửa Vô Tác, hay cũng gọi là Vô Nguyện.
Tất cả những từ ngữ đó là tiếng nói trong nhân gian, và nguồn gốc xuất xứ những danh từ nầy là phải nói bắt nguồn từ Ba Pháp Ấn trong Ðạo Phật. Trước khi dẫn tới Ý nghĩa của Cửa Không hay Ba Cánh Cửa Giải Thoát, chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị Ba Dấu Ấn trong Ðạo Phật.
            Ấn là dấu in, Pháp là chân lý không thay đổi. Như vậy Ba Pháp Ấn có nghĩa là Ba Chân Lý. Vì là chân lý  nên không bao giờ thay đổi, cho dù ở đâu, quốc độ nào, và bất cứ lúc nào cũng đúng và phù hợp trong nhân gian, cho nên cũng thường gọi là Ba Ðặc Tính trong cuộc đời. Ba Pháp Ấn đó là:
1-   Vô Thường:
Nói về Vô Thường thì chúng ta phải nói từ thân tâm cho đến vũ trụ vạn hữu, muôn vật đều biến đổi từng niệm, từng giây, từng phút. Niệm, giây, phút là chỉ cho thời gian hết sức ngắn ngủi, tuy nhiên mọi sự vật thay đổi còn mau hơn tâm niệm. Niệm sau sanh, niệm trước diệt. Không những chỉ có trên phương diện tâm lý, mà cả trên hiện tượng vật lý cũng đều như thế. Hữu tình thế giới thì có Sanh, Trụ, Dị, Diệt, mỗi tích tắc thay đổi không thường. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết, cho đến trái đất nơi chúng ta đang cư trú cũng rung chuyển vận hành, thay đổi. Ðây là Vô Thường của hiện tượng giới. Trạng thái vui, buồn từ trẻ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, sự thay đổi nầy là Vô Thường tâm sinh lý của nhân sinh. Mọi sự, mọi vật tạo tác, biến chuyển không ngừng vật lý, tâm lý cũng như thế, nghĩa là bị nhân duyên phát động, tất cả đều là sự vật không cố định, cho nên gọi là Vô Thường.
2-   Vô Ngã
Nói về Vô Ngã thì có hai sự phân biệt: Nhân Vô Ngã, và Pháp Vô Ngã.
a- Nhân Vô Ngã:
Con người do năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức do nhân duyên kết hợp với nhau mà có, nương theo sự giả hợp đó mà gọi là con người. Sự thật khi phân tích kỹ thì chúng ta thấy không có chi là con người hết. Do đó mà gọi là Nhân Vô Ngã.
b- Pháp Vô Ngã:
Muôn vật ở đời do Sắc Pháp và Tâm Pháp tạo duyên kết hợp với nhau mà có. Cái nầy nương cái kia mà sanh, vật nầy nương vào vật nọ mà có. Nghĩa là tất cả mọi sự vật tương đối mà có, tuyệt đối không có vật chi có thể tồn tại được. Nói một cách khác, không luận là sự vật có tạo tác hay không tạo tác đều không có thật thể tồn tại cho nên nói là các Pháp Vô Ngã.
3-   Khổ hay Niết Bàn Tịch Tịnh
            Nói về tất cả những cảnh khổ trong thế gian thì không bao giờ cùng, tuy nhiên Ðức Phật dạy là có Ba Thứ Khổ, hoặc là Tám Thứ Khổ được trình bày như sau:
a-   Khổ Khổ
Tự bản thân của chúng ta đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ và không bao giờ làm chủ được, cũng không sao tránh khỏi như: Bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh tàn phá, bị áp bức, sưu cao thuế nặng..v..v..Có nghĩa là cái khổ nầy chồng chất lên cái khổ kia cho nên gọi là Khổ Khổ.
b- Họai Khổ
Trong Kinh Ðức Phật ngài có dạy: Tất cả những cái gì có hình tướng đều bị hoại diệt. Thật như vậy, vạn vật trong vũ trụ đều bị Vô Thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá cũng có ngày họai diệt, những vật lớn như trái đất lâu ngày cũng có lúc tan rã. Yếu ớt nhỏ nhắn như thân con người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi hơn. Cái búa thời gian nó đập nát tất cả, mỗi giây, mỗi phút ta đang sống cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hoai diệt mà không nể vị bất cứ một ai. Cho dù ta có quyền lực bao nhiêu đi nữa cũng không tránh khỏi dòng thời gian tiêu diệt đời ta, nên gọi đó là Hoại Khổ.
c- Hành Khổ
Về phương diện vật chất thì chúng ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại. Còn về phương diện tinh thần chính ta cũng không tự chủ, tự do được. Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vật, lôi kéo thúc đẩy từng phút từng giây, tư tưởng của chúng ta cũng biến chuyển nhảy vọt từ chuyện nầy sanh chuyện khác như vưọn chuyền cây không bao giờ ngừng nghỉ. Ði sâu vào trạng thái tâm hồn là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ và hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét...tất cả đều bị kềm chế. Nói tóm lại, ta không được tự do mà trái lại bị chi phối bởi những ý tưởng đam mê dục vọng, và luôn luôn chịu mệnh lệnh nô lệ bởi đam mê tham dục, nên gọi đó là hành khổ.
Ngoài ra, có tính cách tỷ mỉ hơn, còn có tám lọai khổ khác như: Sanh Khổ, Lão Khổ, Bệnh Khổ, Tử Khổ, Ái Biệt Ly Khổ, Cầu Không Ðược Khổ, Thường Gặp Người Mình Không Thích Khổ, Năm Ấm Thạnh Khổ. Tám thứ khổ nầy tựu trung cũng không ngoài ba cái khổ như đã trình bày ở trên.
Như trên chúng ta thấy, tất cả mọi sự mọi vật đều bị định luật Vô thường chi phối thay đổi, cho nên nó không còn nguyên vẹn như thưở ban đầu. Như một con người từ khi lọt lòng mẹ sinh ra đời, theo thời gian lớn lên để trở thành một cậu thanh niên, hay một cô thiếu nữ, rồi cũng theo thời gian biến đổi để trở thành một ông già hay bà cụ, Như vậy cũng một con người có lúc chúng ta gọi là em bé, có lúc chúng ta gọi là cô cậu thanh niên, thiếu nữ, có lúc chúng ta gọi ông già, bà cụ..v..v..Vì thế chúng ta nói: Tất cả đều tuân theo định luật Vô Thường mà thay đổi cho nên mọi sự mọi vật đều Vô Tướng, hay nói một cách ngắn gọn hơn: Vì Vô Thường nên Vô tướng. Vậy Vô Tướng là tên khác của Vô Thường.
Vì là Vô Tướng nên không có cái gì là của tôi, như nói: Tôi là một em bé mới sinh ra, hay là một cô, cậu thanh niên, hay một ông già bà cụ. Tất cả những tên nầy cùng là một con người, nhưng khi mới sanh thì gọi là em bé, khi lớn lên thì gọi là thanh niên, thiếu nữ, khi già thì gọi là ông già bà cụ, tất cả những cái tên nầy là giả danh, không có cái gì là thiệt của tôi. Ðể rõ ràng vấn đề nầy chúng ta hãy nghe cuộc đối thoại giữa Ðức Phật và Ngài Tu Bồ Ðề về phá Tướng Ngã trong Kinh Kim Cang như sau:
- Này Tu Bồ Ðề, ý ông nghĩ thế nào! có thể do nơi thân tướng mà được thấy Như Lai không?
- Bạch Thế Tôn! Không, không thể do nơi thân tướng mà thấy được Như Lai. Bởi vì sao? Như Lai nói thân tướng tức là không phải thân tướng.
Ðó là nói về Pháp Thân của Ðức Phật, tuy không phải là tướng, nhưng cũng không phải ly hẳn tướng, tất nhiên phải ngộ đúng lý mới thấy thật được, chớ không thể chấp trước 32 tướng kia là Pháp Thân của Ðức Phật. Ngài Tu Bồ Ðề đã lãnh hội về hình tướng Phật, Bồ Tát, Chúng Sanh đều là ảnh tượng của tự tâm phân biệt vọng tưởng, chớ không phải thật có. Nên một khi ông nghe Phật hỏi: có thể do thân tướng mà thấy được Như Lai không? Ông liền đáp: Không, bởi vì thân tướng của Như Lai nói đó tức là giả tướng của bốn đại, năm ấm hòa hợp tương tục, chớ không phải do thân tướng chân thật. Câu trả lời của ngài Tu Bồ Ðề được Ðức Phật xác định như sau:
- Tu Bồ Ðề: Phàm cái gì có thân tướng đều là hư dối. Nếu thấy rõ các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai.
Ở đây chúng ta thấy Ðức Phật ngài dạy rất rõ ràng: Không riêng gì sắc thân, mà phàm tất cả các tướng của căn thân thế giới, hình hình sắc sắc, cái chi cũng đều hư vọng, giả dối, như hoa trong gương, trăng dưới nước, tất cả đều không có tướng nào là chân thật. Nếu hiểu rõ các tướng đều là hư dối như thế tức là thấu rõ được thật tướng của các pháp là Không. Không  là tên gọi khác của Vô Ngã.
Kiếp người do vì Vô Thường, Vô Ngã bức bách cho nên chúng ta đau khổ. Ý thức sự đau khổ thâm trầm, thiên thu vạn đại đó thì đâu còn muốn làm gì nữa. Bởi vì làm một em bé cũng khổ, làm một người ăn xin ở đầu đường xó chợ cũng khổ, mà làm một ông Thủ Tướng hoặc Tổng Thống cũng khổ, trong địa vị nào cũng có cái khổ của nó. Ngộ được chân lý nầy rồi thì không còn nguyện ước làm cái gì hết. Do đó nói là Vô Nguyện, hay Vô Tác là tên khác của Khổ.
Trên bước đường tu học, nếu muốn hiểu được cảnh đời là Vô Thường thì hành giả cần phải có Ðức Tin rất là kiên cố mới có thể thấu triệt được cảnh đời Vô thường. Khi thấu triệt cảnh đời Vô Thường thì đắc được Vô Thường Quán tức là được Vô Tướng Giải Thoát Môn. Muốn hiểu thấu Lý Vô Ngã thì hành giả cần phải xử dụng đến Trí Tuệ, để phân tích tất cả mọi sự vật đều không có thực chất chính nó. Thâm nhập được lý Vô Ngã thì được Không giải thoát Môn. Muốn hiểu thấu những cảnh đời đau khổ thì cần xử dụng đến định lực. Thấu triệt được những đau khổ của kiếp người rồi thì hành giả đạt được Vô Nguyện Giải Thoát Môn, hay cũng gọi là Vô Tác Giải Thoát Môn.
Như trên chúng tôi đứng trên lập trường của nam truyền trình bày khái lược về Ba Pháp Ấn để dẫn tới ý nghĩa và điểm xuất xứ của Tam Giải Thoát Môn. Tuy nhiên đứng trên lập trường của Bát Nhã thì chúng ta lại có cái nhìn sâu sắc hơn. Cái nhìn toàn bích của Trí Bát Nhã, là không phải trải qua một quá trình Vô Thường, Vô Ngã để dẫn tới ý thức cuộc đời đau khổ, để chuyển hóa từ đó trở thành Không, Vô Tướng, và Vô Tác mà có thể thấy được liền tất cả đều là Không. Bởi vì nếu chúng ta phân tích thì chúng ta sẽ thấy:
Vô Thường tức là mọi sự vật đặt trong tình trạng bất ổn nên là Không.
Vô Ngã, là tự tánh, thật chất không có nên nói là Không.
Hay nói một cách khác Chữ Không của Ðại Thừa Bát Nhã có nghĩa là Không Thật. Không Thật đồng nghĩa với Vô Ngã; cũng có nghĩa là Không Bền, Không Bền đồng nghĩa với Vô Thường. Theo lập trường của Ðại Thừa Bát Nhã thì chữ Không nầy giống như tia Quang Tuyến X, nghĩa là khi chiếu vào cơ thể của con người, mặc dầu con người còn hiện hữu, nhưng dưới tia sáng của quang tuyến X thì chỉ thấy là bộ xương khô mà thôi. Vì thế mà cái Không của Bát Nhã không làm chướng ngại cho cái có, cũng như khi nhìn vào cái có chúng ta có thể thấy được những cái Không, như Chúng ta nhìn vào tờ giấy bằng con mắt quán chiếu thì ta sẽ thấy có mây, có mưa, có ánh nắng của mặt trời để cho cây rừng, và tất cả những thực vật khác sinh trưởng. Ta sẽ thấy cây rừng xanh mướt, những chiếc lá rụng, cũng có những chiếc lá mục để nuôi dưỡng cho cây rừng thêm tươi tốt, ta còn thấy những khoáng chất trong lòng đất được rễ cây hút lên để nuôi thân. Khi cây to lớn thì người tiều phu đốn đem về làm bột giấy. Ta còn thấy bố, mẹ, tổ tiên của ông ta nữa, vì nếu không có bố, mẹ tổ tiên thì không có ông ta. Như vậy, khi nói đến giấy, ta có thể thấy được một chuổi dài nhân duyên liên hệ để có được tờ giấy như đã thấy, mà tự thể của những yếu tố đó không có tự tánh riêng biệt, nhưng nó lại hàm chứa cả vũ trụ vạn hữu trong đó. Nhìn chung thì chúng ta thấy từ vật vô tri cho đến vạn loài hữu tình như con người tự tánh không có, trống rỗng mà trong đó lại có tất cả, cho nên theo Bát Nhã không đợi Vô Thường biến đổi hoặc hoại diệt mới gọi là không, mà ngay cả mọi sự mọi vật còn hiện hữu vẫn nói là Không. Hiểu được điều nầy chúng ta không lạ gì khi nghe ngài Quán Thế Âm trong Chú Bát Nhã Tâm Kinh đã nói:
Quán Tự Tại Bồ Tát, khi thực hành bát nhã Ba La Mật Ða sâu xa, thì soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc; Sắc tức là không, Không tức là Sắc. Thọ Tưởng, Hành, Thức cũng đều như vậy.
Xá Lợi Tử, Không ấy của các Pháp, Không Sanh, Không Diệt, Không Nhớp, Không Sạch, Không Thêm, Không Bớt. Nên trong không, không Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, không Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, không Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Không Nhãn Giới cho đến không Ý Thức Giới. Không Vô Minh và sự diệt tận của Vô Minh, cho đến không Lão Tử và sự diệt tận của Lão Tử. Không Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, không Trí, không được, vì không bị được.
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật nên không vướng mắc, không vướng mắc nên không khiếp sợ, siêu thóat mộng tưởng điên đảo, cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật cả ba thời gian y theo Bát Nhã Ba La Mật nên được Vô Thượng Bồ Ðề. Do đó nên biết Bát Nhã Ba La Mật là bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bực mà đồng bực, trừ được hết thảy khổ não, chắc thực, không hư ngụy.
Nói Tóm lại Cổng Tam Quan là tiêu biểu cho Ba Pháp Ấn trong Ðạo Phật. Khi chưa tu, chưa biết tu thì Ba Pháp Ấn đó là Vô Thường, Vô Ngã và Khổ. Nhưng khi tu rồi đắc pháp thì thấy Vô Thường là Thường, Vô Ngã là Thường và Khổ là Thường trở thành Ba Cửa Giải Thoát đó là Cửa Không, Vô Tướng và Vô Tác. Vì muốn chỉ cho chúng ta biết cảnh giới của Hữu Tình Không, nên Ðức Phật phải dùng Vô Thường, Vô Ngã để dẫn đến Niết Bàn Tịch Tịnh. Theo quan điểm của Ðại Thừa Ðức Phật ngài khuyến khích chúng ta phải tiến thêm một bậc nữa bởi vì Ba Pháp Ấn đó chỉ là phương tiện, để cuối cùng dẫn đến Nhất Thật Tướng Ấn chính là Pháp Không nghĩa là tất cả mọi sự vật đều Không.
Ý nghĩa thâm thúy của Cổng Tam Quan mà người đời thường gọi cửa Chùa là Cửa Không là như thế. Thật sự trong cuộc đời nầy nếu chúng ta hiểu được phần nào của Ba Pháp Ấn nầy thì cuộc sống của chúng ta sẽ vượt thoát được những đau khổ, ràng buộc, kiến chấp sai lầm..v..v..như thế cuộc sống của chúng ta chắc chắn sẽ an lạc.
-- o0o --