-
Pháp Bảo Ðàn Kinh
-
Trúc Giao Ghi
-
(tiếp theo kỳ trước)
-
--o0o--
-
-
b- Bài Kệ Kiến Tánh Của Huệ Năng
-
Kinh Văn:
-
Cách hai ngày sau, có một chú tiểu đi ngang qua chỗ giã gạo
tụng lên bài kệ ấy. Ðại Sư Huệ Năng vừa nghe, biết rằng bài kệ
ấy chưa thấy được Bổn Tánh. Tuy chưa mong cầu ơn đức chỉ dạy,
nhưng đã biết được đại ý, mới hỏi đồng tử rằng:
-
-
Tụng kệ chi đó?
-
Ðồng Tử nói:
-
- Ông là người lạp lão, chẳng biết chi. Ðức Ngũ Tổ
có dạy: Người đời sanh tử là việc lớn phải chuyên tâm tu hành
để giải thoát. Trong các đệ tử, ai muốn được truyền phú y
pháp, hãy làm kệ trình Tổ xem, nếu ngộ được đại ý Vô Thượng Bồ
Ðề thì Tổ phú y pháp cho thừa kế làm Tổ thứ sáu. Thầy Thần Tú
là bậc Thượng Tọa, có chép bài kệ Vô Tướng ở trên vách hành
lang phía nam, Tổ truyền dạy các đệ tử nên trì tụng, theo kệ
ấy mà tu, khỏi đọa ác đạo, theo kệ ấy mà tu thì được lợi ích
lớn lao.
-
Sau khi nghe chú tiểu giải thích Ðại Sư Huệ Năng
nói:
-
- Nầy Ðại Nhân! Tôi đây đạp chày trót 8 tháng chưa
từng đến giảng đường, vậy nhờ Ðại Nhân dẫn tôi đến trước bài
kệ để lễ bái.
-
Chú tiểu dẫn Ðại Sư Huệ Năng đến chỗ ghi bài kệ.
Ðại Sư Huệ Năng nói:
-
- Huệ Năng vốn không biết chữ, vậy xin Ðai Nhân
đọc giùm.
-
Khi đó quan Biệt Giá Giang Châu, họ Trương tên
Nhật Dụng hoan hỷ cất tiếng đọc lớn. Ðại Sư Huệ Năng nghe xong
nói:
-
- Tôi cũng có bài kệ xin quan Biệt Giá biên giùm
cho.
-
Quan Biệt Giá nói:
-
- Ông biết làm kệ sao? Thiệt là việc ít có!
-
Ðại Sư Huệ Năng nói với quan Biệt Giá rằng:
-
- Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh
người sơ học, có người thuộc bậc hạ nhưng được thượng trí,
người thuộc bậc thượng nhưng không có trí.
-
Quan Biệt Giá nói:
-
- Ông hãy đọc kệ, tôi sẽ chép giùm, ông nên hứa,
nếu ông đắc đạo, phải độ tôi trước và xin đừng quên lời.
-
Ðại Sư Huệ Năng đọc kệ:
-
- Bồ Ðề vốn không cây
-
Gương sáng cũng không đài
-
Xưa nay không một vật
-
Chỗ nào dính bụi nhơ.
-
Kệ biên xong đại chúng xem thấy thất kinh, mọi người hội lại
ca tụng và tán thán: Lạ thay! Không nên lấy hình thức bên
ngoài mà đoán người. Nếu hiểu được như vậy thì bấy lâu nay
chúng ta há lại dám sai khiến một vị nhục thân Bồ Tát. Thật là
đắc tội.
-
Khi Ðức Ngũ Tổ thấy đại chúng hoảng kinh như vậy, Tổ lo sợ có
tiểu nhân ác tâm mưu hại Ðại Sư Huệ Năng, nên ngài lấy giày
chà hết bài kệ rồi nói:
-
-
Kệ này cũng chưa thấy tánh.
-
Ðại chúng nghe nói đều lặng thinh, in trí là phải.
-
Giảng:
-
Như tất cả mọi người ai cũng biết, sau khi Thượng Tọa Thần Tú
trình kệ xong, mọi người đều nghe Ðức Ngũ Tổ dạy, nếu ai siêng
năng đọc tụng bài kệ, và y cứ theo đó mà tu tập thì sẽ được
phước lợi,ngoài ra thì họ không cần biết là bài kệ đó có đạt
đạo hay không, có đựợc Tổ chấp nhận hay không, và có giúp ích
được gì cho họ hay không, nhưng nghe Tổ dạy như thế thì họ cứ
làm như thế chứ không biết gì hết. Vì vậy mà mọi người ai cũng
thi nhau đọc tụng, một trong số người đó có chú tiểu đi ngang
qua chỗ ngài Huệ Năng giã gạo và đọc bài kệ. Nhân đây mà Ðại
Sư Huệ Năng mới biết có những biến chuyển trong Thiền Ðường.
Nghe qua bài kệ mặt dầu Ðại Sư Huệ Năng là người dốt chữ nhưng
bù lại có một trí huệ siêu việt, nên khi nghe bài kệ của
Thượng Tọa Thần Tú là ngài biết ngay chưa thấy tánh, cũng nhờ
bài kệ chưa thấy tánh của Thượng tọa Thần Tú nên đã gây một
sức phản động quyết liệt trong nội tâm của Ðại Sư Huệ Năng xưa
nay ngài chỉ linh cảm một cách mơ hồ. Tác dụng bài kệ của
Thượng Tọa Thần Tú là làm hiện rõ trong tâm thức của ngài Huệ
Năng vốn từ trước còn hoang mang chưa biết mình đã biết gì, để
cuối cùng đã làm sáng tỏ, đốt cháy những vô minh hoặc cuối
cùng qua bài kệ Vô Tướng:
-
-
Bồ Ðề vốn không cây
-
Gương sáng cũng không đài
-
Xưa nay không một vật
-
Chỗ nào dính bụi nhơ.
-
Khi thấy bài kệ Vô Tướng của Ðại Sư Huệ Năng thì mọi người ai
ai cũng kinh ngạc, trạng thái khinh khi là Dân Mọi Rợ giờ đây
không còn nữa để nhường chỗ cho sự kính nể ngợi khen theo lời
cảnh giác của Ðại Sư Huệ Năng:
-
-
Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh người sơ học, có
người thuộc bậc hạ nhưng được thượng trí, người thuộc bậc
thượng nhưng không có trí.
-
Từ đó mọi người mới ý thức được rằng: Những người bần cùng hèn
hạ cũng có trí Huệ Tối Thượng, và những người ăn trên ngồi
trước cũng không phải là người đã có được thượng trí. Cho nên
việc đánh giá một con người không phải chỉ căn cứ vào những
hình tướng bên ngoài mà phải căn cứ vào sự hiểu biết và hành
xử của người ấy.
-
Bây giờ đây chúng ta thử tìm hiểu về bài kệ Vô Tướng của Ðại
Sư Huệ Năng:
-
Bồ Ðề vốn không cây: Ý nghĩa của câu nầy đã ra khỏi thân
tướng.
-
Gương sáng cũng không đài: Ý nghĩa câu nầy đã ra khỏi tâm
tướng.
-
Từ vô thỉ cho đến ngày nay, chúng sanh bỏ chân theo vọng, chấp
thân tứ đại giả tạo là thân thật có, chấp tâm điên đảo làm tâm
thật có. Ý thức được tất cả những thứ nầy đều là giả tạo.
Nghiệm xét cho tinh tường thì đúng là:
-
Xưa nay không một vật
-
Chỗ nào dính bụi nhơ.
-
Hai câu cuối trong bài kệ nầy bao hàm ý nghĩa cao siêu tuyệt
đối, thoát ly tất cả các tướng: Tướng Ngã, tướng nhân, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả. Bốn tướng ấy tức là không phải
tướng, vì nó như huyễn như mộng không phải thật thì những bụi
bặm, trần cấu phiền não không có chỗ dính bám vào. Ly tất cả
những phi tướng không có thật, tức là tất cả các pháp, thông
suốt cái diệu dụng của tất cả các pháp đạt đến chỗ rốt ráo thì
gọi là chư phật. Chư phật tức là Kim Cang Bát Nhã, là cái biển
đại tịch diệt ly tướng như trong Kinh Kim Cang có dạy:
-
Ly tất cả các tướng tức là chư Phật.
-
Như chúng ta thấy cả hai bài kệ của Thượng Toạ Thần Tú ví thân
là cội Bồ Ðề, tâm như đà gương sáng, nên phải thường xuyên lau
chùi, nên Thượng Tọa thần Tú còn bị vướng mắc vào Thân Tướng,
Tâm Tướng, trong khi đó Lục Tổ thì ngài nói: Bồ Ðề không phải
là thân mà là tánh giác. Tánh giác không có hình tướng nên
không có bụi bặm trần cấu nào dính được. Bài kệ Vô tướng của
ngài Huệ Năng hoàn toàn ngược lại với bài kệ của ngài Thần Tú,
đây không phải đối chọi mà là nói đến cảnh giới thấy tánh của
Lục Tổ, nên Ngài bác bỏ những chấp trước về hình thức, vượt
thoát tất cả để tiến đến gần với cảnh giới của chư phật, để
tiến thẳng vào ngưỡng cửa Phật Pháp, vì thế mà ai đọc qua bài
kệ nầy cũng đều thấy sảng khoái, ngạc nhiên, khen
ngợi..v..v... Riêng về ngài Lục Tổ Huệ Năng từ khi chưa trở
thành Tổ Sư của Ðông Sơn Pháp Môn thì ngài dùng chữ Bồ Ðề để
diễn đạt sự chứng ngộ của mình. Ðến khi đăng đàng thuyết pháp
trong sứ mạng hoằng truyền chánh pháp ngài vẫn khuyến khích
tất cả mọi người phải xử dụng tánh Bồ Ðề để thành Phật: Các vị
Thiện Tri Thức, tự tánh Bồ Ðề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm
ấy tức nhiên thành Phật. Câu nói đó phải được coi là căn bản
tư tưởng cả cuộc đời của Lục Tổ. Tư tưởng căn bản nầy đứng về
bất cứ giáo nghĩa nào trong Phật Giáo cũng có thể giải thích
một các minh bạch, do đó bất cứ cương vị nào ai ai cũng thực
hành được cả. Ðó không phải là một câu nói mơ hồ như những
người mơ hồ nói úp úp mở mở để tỏ ra rằng chỉ có một mình họ
hiểu nổi điều sâu xa. Câu: Tự tánh Bồ Ðề bản lai thanh tịnh,
vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật Chính câu nói ấy là ý
muốn nói: Mọi người muốn thành Phật thì phải Phát Bồ Ðề tâm
chứ không có chi khác. Thật sự như vậy, từ ngữ Phát Bồ Ðề Tâm
cũng như danh từ Bồ Ðề, tuy là ngôn ngữ thông dụng của tất cả
chư Phật Tử, nhưng nghĩa lý của nó được hiểu rành mạch thì
không có được bao nhiêu người. Bởi vậy muốn hiểu rõ tư tưởng
của Ðức Lục Tổ trước hết chúng ta phải quán sát thật kỹ về sự
phát Bồ Ðề Tâm. Nơi đây chúng ta có thể chia ra làm ba phần:
Bồ Ðề, Bồ Ðề Tâm, và Phát Bồ Ðề Tâm.
-
A- Bồ Ðề:
-
Y
theo Kinh Luận thì Bồ Ðề có 10 nghĩa khác nhau.
-
1- Danh Nghĩa Của Bồ Ðề:
-
Bồ Ðề là tiếng Phạn dịch là Ðạo có hai nghĩa. Nghĩa đen là
đường đi. Nghĩa suy diễn là Trí Ðức. Tuy nhiên chữ Bồ Ðề là
Ðạo chúng ta thương bị hiểu lầm với tư tưởng của Lão Trang do
đó chữ Bồ Ðề được hiểu là Giác mới được chính xác.
-
2-
Phẩm Loại Bồ Ðề:
-
Bồ Ðề có nghĩa là Giác nên khi Giác hiện thì Mê
phải tiêu diệt, giống như một khi ánh sáng xuất hiện thì bóng
tối sẽ không còn nữa. Chư vị thánh giả đã tiêu diệt trừ được
mê hoặc đều được hiển lộ trí giác Bồ Ðề. Bồ Ðề có ba lọai:
-
- Thanh Văn Bồ Ðề
-
- Duyên Giác Bồ Ðề
-
- Vô Thượng Bồ Ðề.
-
Trong số ba lọai Bồ Ðề nầy thì chỉ có loại thứ ba
là trí giác tuyệt đối viên mãn, vì ở đây mê hoặc mới được diệt
sạch, như ánh sáng của thái dương lúc xuất hiện thì bóng tối
cũng biến mất.
-
3- Tự Tánh Của Bồ Ðề:
-
Tất cả ba loại Bồ Ðề nêu trên, đều có đặc tánh
chung là Huệ Tâm Sở trong năm Tâm Sở Biệt cảnh:
-
-
Dục Tâm sở
-
-
Thắng Giải Tâm Sở
-
-
Niệm Tâm Tâm Sở
-
-
Ðịnh Tâm Sở
-
-
Huệ Tâm Sở
-
Nếu nói Vô Thượng Bồ Ðề không, thì tự tánh Bồ Ðề là 4 trí:
-
-
Ðạo Huệ Trí tức là thật tánh.
-
-
Ðạo Huệ Chủng Trí tức là cái trí biết các đạo trong mười pháp
giới.
-
-
Nhất Thiết Trí tức là cái trí biết tất cả, biết rằng các pháp,
các tướng đều là tịch diệt.
-
-
Nhất Thiết Chủng Trí là cái trí hoàn toàn, biết tất cả, biết
rằng các pháp, các tướng đều tịch diệt, biết các hành động và
hiện tượng của nó.
-
Như trên chúng ta thấy, nếu 4 trí là tự tánh của Bồ Ðề thì hai
lọai Bồ Ðề của Thanh Văn và Duyên Giác chỉ được một phần của
Diệu Quán Sát Trí mà thôi, chỉ có Vô Thượng Bồ Ðề của Phật Quả
mới được viên mãn. Vậy ba loại Bồ Ðề là bình đẳng tướng, Vô
thượng Bồ Ðề mới là Thù Thắng Tướng. Phần Vô Thượng Bồ Ðề nầy
mà tự tánh là 4 trí nầy trường phái Thiên Thai gọi là Thật Trí
Bồ Ðề.
-
4-
Tương Ưng Của Bồ Ðề:
-
Ở đây phải hiểu rằng tự tánh của 4 trí vẫn là Vô
Lậu Huệ trong Biệt Cảnh Tâm Sở. Bốn trí là do chuyển 8 thức mà
thành
-
- Ðệ Bát Thức thành Ðại Viên Cảnh Trí
-
-
Ðệ Thất Thức thành Bình Ðẳng Tánh Trí
-
-
Ðệ Lục thức thành Diệu Quán Sát Trí
-
-
Năm Thức thành Thành Sở Tác Trí.
-
Bốn trí nầy tất nhiên ở giai đọan Vô lậu, mỗi trí đều có 21
Tâm Vương và Tâm Sở tương ưng với nó: 1 là thức căn bản tức là
tâm vương của nó, cộng với 11 Thiện Tâm Sở, 5 Biến Hành, 4
Biệt Cảnh và nó tức là Huệ Tâm Sở. Ðiều cần chú ý là giai đoạn
Vô Lậu có nghĩa là thuần thức tức trí, nên ẩn hiện Tâm Vương
thành một thứ tương ưng mà đề cao trí làm chủ thể để khuyến
khích phàm phu mê hoặc biết mến trọng trí ấy.
-
5- Năng Sanh Của Bồ Ðề:
-
Bồ Ðề phát sanh và viên mãn là hai yếu tố: Nhân thì do chủng
tử của Vô Lậu Huệ mà làm duyên. Duyên thì do thiện hữu tri
thức và Chánh pháp làm tăng thượng duyên, do hữu lậu thiện dẫn
phát Vô Lậu Huệ làm đẳng Vô Gián Duyên, và do cảnh sở quán tức
là quán cảnh thanh tịnh như tướng hảo của chư Phật, những cảnh
khổ não của chúng sanh làm Sở Duyên Duyên.
-
6-
Sở Ðoạn Của Bồ Ðề:
-
Bồ Ðề là trí giác năng đoạn. Ðoạn trừ hai chướng đó là đọan
được Phân Biệt Ngã Chấp tức là Phiền Não chướng, thì được Bồ
Ðề của Thanh Văn và Duyên Giác, gọi là Sanh Không Trí. Ðọan
hết chủng tử cả câu sanh và phân biệt của ngã chấp và Pháp
chấp thì gọi là Vô Thượng Bồ Ðề.
-
7-
Sở Duyên Của Bồ Ðề.
-
Bồ Ðề là 4 trí bao gồm hết thảy Tâm Vương và Tâm
Sở tùy thuộc nên hết thảy cảnh Sở Duyên của Tâm Vương và Tâm
Sở đều là cảnh của Bồ Ðề. Thế nên Bồ Ðề sở duyên là Sở Duyên
với tất cả các pháp, không một pháp gì không biết. Nhất là lại
biết tất cả các tự thể của nó và trong cảnh biến chiếu của Bồ
Ðề, chúng sanh cảnh giới cũng như Chư Phật cảnh giới đều do
hậu đặc Vô Phân Biệt Trí sở duyên, mà Chân Như, Pháp Tánh cũng
là sở duyên của căn bản Vô Phân Biệt Trí. Ngoài trừ Thành Sở
Tác Trí chỉ có Hậu Ðắc Vô Phân Biệt Trí, còn 3 trí kia đều đủ
cả hai phần vừa nói.
-
8- Sở Y Của Bồ Ðề
-
Bồ Ðề cũng là một Pháp. Nhất là Bồ Ðề lại chứng
ngộ chân như, nên thể tánh mà Bồ Ðề nương dựa chính là chân
như Pháp Tánh. Chính vì một khi bồ Ðề đã hoàn toàn tương ưng
với Chân Như rồi thì bởi Chân Như vốn bất sanh bất diệt, nên
Bồ Ðề vĩnh viễn hiện hành mà không khi nào bị mê hoặc chen vào
nữa.
-
9-
Sở Khởi Của Bồ Dề
-
Ở giai đọan hữu lậu, hết thảy thân độ của thức đều
là sở khởi của thức, nên qua giai đoạn Vô Lậu, hết thảy Tự Thọ
Dụng Thân Ðộ, Tha Thọ Dụng Thân Ðộ, Tùy Loại Hoá Thân Ðộ đều
do Bồ Ðề hiện khởi. Nói tóm lại, hết thảy Y Báo và Chánh Báo
của Phật quả là sở khởi của Bồ Ðề.
-
10- Sở Tác Của Bồ Ðề việc làm của Bồ Ðề tức là
diệu dụng của tất cả các thân độ nói trên là: Khai Thị Trí
Giác Phật Cho Chúng Sanh Ngộ Nhập. Nói một cách khác là làm
cho chúng sanh phát Bồ Ðề Tâm để đoạn mê hoặc, chứng Bồ Ðề.
Vậy nên sở tác của Bồ Ðề chính là Ðại Nguyện Lực và Ðại Bi
phương tiện của quả Phật.
-
B- Bồ Ðề Tâm
-
Nói về Bồ Ðề Tâm, nếu căn cứ vào Vô Thượng Bồ Ðề mà nói thì Bồ
Ðề Tâm có ba nghĩa:
-
1- Tâm Cầu Bồ Ðề Hay Còn Gọi Là Bồ Ðề Tâm
-
Là cái tâm do chí nguyện mà kiến lập. Cái chí
nguyện mong cầu làm sao cho đạt được Vô Thương Bồ Ðề của Phật,
mà không cầu Bồ Ðề của Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, chí
nguyện đó gọi là Bồ Ðề Tâm. Phải hiểu rằng Bồ Ðề Tâm như vậy,
tức là chí nguyện như vậy. Khi phát nguyện: Phật Trí Vô Thượng
Thệ Nguyện Thành chính là Dục Tâm sở phát Bồ Ðề Tâm.
-
2- Tâm Có Bồ Ðề Gọi Là Bồ Ðề Tâm.
-
Ở đây là chỉ cho hết thảy Tâm Vương và Tâm Sở đã
tương ưng với trí giác Bồ Ðề mà bản thân là Vô Lậu Huệ: Tâm
Vương và Tâm Sở có Trí Giác Bồ Ðề nên gọi là Bồ Ðề Tâm.
-
3- Bồ Ðề Là Tâm Gọi Là Bồ Ðề Tâm.
-
Ở đây vẫn là Tâm Vương và Tâm Sở, nhưng kể cả giai
đoạn hữu lậu và vô lậu, chứ không phải chỉ kể đến lúc tương
ưng với Tri Giác Bồ Ðề. Còn chữ Bồ Ðề ở đây cũng không phải
chỉ kể bốn trí hay căn nguyên bốn trí là Huệ Tâm Sở, mà chính
là cái đặc tính Tri Giác chung của hết thảy Tâm Vương và Tâm
Sở. Chính cái Tri Giác ấy là khả năng của Trí Giác Bồ Ðề, và
Trí Giác Bồ Ðề chỉ là cái Tri Giác ấy phát triển viên mãn. Vì
đặc tính của Tâm là Tri Giác, Tri Giác là Bồ Ðề, nên tâm tức
là Bồ Ðề.
-
C- Phát Bồ Ðề Tâm
-
Từ ngữ nầy có bốn nghĩa quan trọng:
-
1- Thệ Nguyện Phát:
-
Tức là lập chí nguyện mong cầu Bồ Ðề, gọi là phát Bồ Ðề Tâm.
Như vậy chữ phát nghĩa là lập chí, chữ Tâm là thệ nguyện, và
Bồ Ðề là Vô Thượng Bồ Ðề.
-
2- Tự Tánh Phát:
-
Tức là bản tánh Bồ Ðề tự phát hiện. Như vậy chữ phát ở đây là
tự phát hiện ra, chữ tâm là Tâm Vương và Tâm Sở đang ở giai
đọan hữu lậu, còn chữ Bồ Ðề chính là đặc tính của Tri Giác
chung của hết thảy Tâm. Tuy nhiên, nếu cái biết đó sai thì gọi
là mê hoặc, nhưng nếu quay lại vận dụng cái biết ấy cho đúng
thì gọi là Giác Ngộ. Ðiều quan trọng là do đặc tính Tri Giác
của Tâm chứng minh Tâm đã biết sai tức là có thể đúng, chính
mê rồi sẽ ngộ. Vấn đề chỉ là ở chỗ biết quay cái biết đó lại,
vận dụng cho đúng thì Tri Giác sẽ phát triển thành Trí Giác.
Cho nên Tri Giác đến Trí Giác chỉ là đặc tính Bồ Ðề của tâm:
Tự cái đặc tính ấy phát hiện ra, làm Tri Giác thành Trí Giác,
thì gọi là tự tánh phát Bồ Ðề Tâm. Căn nguyên của sự tự phát
hiện nầy là bắt nguồn từ Chủng Tử Vô Lậu, đặc biệt là Chủng Tử
Vô Lậu của Huệ Tâm Sở. Chính do chủng tử nầy, vốn có như bao
nhiêu chủng tử khác, nên dầu mê hoặc luân hồi đến thế nào đi
nữa, nhưng một khi gặp trợ duyên chúng cũng sẽ phát hiện làm
cho Tri Giác phát triển thành Trí Giác.
-
3- Trợ Duyên Phát:
-
Tức là tự tánh Bồ Ðề mà phát hiện được, mặc dầu tự tánh vốn Bồ
Ðề, nhưng cũng phải do sự kích động, giúp đỡ của các yếu tố
khác như: Gặp thiện hữu tri thức, chánh pháp huân
tập..v..v..mới phát hiện được.
-
4- Ðẳng Phát Lưu:
-
Tức là tự tánh phát sanh, và tiếp tục phát triển. Nên Ðẳng Lưu
Phát là tự tánh Bồ Ðề, mà căn nguyên là Chủng Tử Vô Lậu Huệ
được liên tục phát triển cho đến hoàn thành Vô Thượng Bồ Ðề,
bằng cách trải qua các Bồ Tát địa đoạn trừ hết các lớp Vô Minh
mê hoặc, cho đến khi mê hoặc được trừ rốt ráo thì Bồ Ðề được
phát triển rốt ráo.
-
Hiểu được nghĩa Bồ Ðề, Bồ Ðề Tâm, và Phát Bồ Ðề Tâm rồi thì
chúng ta mới thấy được tư tưởng của Lục Tổ Huệ Năng, và tất cả
những căn bản mà ngài Huệ Năng có được là từ nơi Kinh Kim Cang
như chúng ta đã biết.
-
Khi thấy mọi người ai cũng trầm trồ khen ngợi bà kệ Vô Tướng
của ngài Huệ Năng, thì Ngũ Tổ liền lấy dép chùi và bảo: Kệ nầy
cũng chưa thấy tánh. Ở điểm nầy chúng ta thấy Ðức Ngũ Tổ quả
thật là người hiểu tâm lý, biết được lòng của tất cả mọi
người. Lòng người luôn luôn là lọc lừa xảo trá, nên Ngũ Tổ e
ngại ngài Huệ Năng bị hại, nên Tổ nói bài kệ của ngài Huệ Năng
cũng chưa thấy tánh, vì thế mới bảo toàn được sự an nguy cho
ngài Huệ Năng.
-
c- Truyền Tâm Pháp Yếu
-
Kinh Văn:
-
Qua ngày sau, Ðức Ngũ Tổ lén một mình đi xuống chỗ giã gạo,
thấy Huệ Năng làm việc, nói rằng: Người cầu đạo phải khổ như
vậy ư? Rồi Tổ hỏi:
-
-
Gạo đã trắng chưa
-
Ðại Sư Huệ Năng Bạch:
-
-
Bạch Hòa Thượng, gạo trắng đã lâu, nhưng còn thiếu cái sàng.
-
Ngũ Tổ không nói gì cả, lấy tích trượng gõ vào cối ba lần rồi
xây lưng đi. Huệ Năng lãnh hội được tôn ý của Tổ, khi trống
điểm canh ba thì đi ngã hậu vào tổ đường. Ðức Ngũ Tổ lấy Cà Sa
choàng lên mình Ðại Sư Huệ Năng không cho người thấy, rồi nói
Kinh Kim Cang cho Ðại Sư Huệ Năng nghe, tới câu: Ưng vô sở trụ
nên sanh kỳ tâm, thì Ðại Sư Huệ Năng tỏ ngộ tất cả pháp bất ly
tự tánh nên bạch:
-
-
Rõ được tự tánh gốc thanh tịnh,
-
Rõ được tự tánh gốc không sanh diệt,
-
Rõ được tự tánh gốc hoàn toàn,
-
Rõ được tự tánh gốc không lay chuyển,
-
Rõ được tự tánh sanh các pháp.
-
Ðức Ngũ Tổ biết Ðại Sư Huệ Năng tỏ ngộ được Bổn Tánh nên dạy
rằng:
-
-
Chẳng biết bổn tâm, học Pháp vô ích, biết được bổn tâm, thấy
được bổn tánh mới là Ðại Trượng phu, là Thiên Nhân Sư, là
Phật.
-
Giảng:
-
Khi bài kệ Vô Tướng của ngài Huệ Năng viết ra trên vách làm
cho mọi người ngạc nhiên, bàn tán, ca ngợi..v..v..Ðức Ngũ Tổ
vốn biết ngài Huệ Năng là Pháp Khí, và vì vậy ngài mới hết bày
ra cuộc trắc nghiệm nầy lại đến cuộc trắc nghiện khác, trước
khi trao truyền trọng trách cho Ðại Sự Huệ Năng. Ðến đây Ngũ
Tổ không còn nghi ngờ gì nữa về khả năng lãnh hội của Ðại Sư
Huệ Năng, cho nên cách mấy ngày sau Ngũ Tổ mới âm thầm xuống
nhà bếp để gặp Huệ Năng. Thấy Ðại Sư Huệ Năng chỉ vì muốn cầu
chân đạo mà phải cực nhọc trong việc lao tác làm công quả,
trong khi đó tâm lý của chúng sanh thường thì thích vui chơi,
nhàn nhã, trong cuộc sống sa đọa, còn cuộc sống tâm linh đạo
đức thì buông thả, nếu có ý tưởng tu tập, nhưng khi gặp trở
ngại chút xíu, chưa chi là đã thối lui. Ở đây chúng ta cũng
thấy tinh thần vị Pháp quên mình của Ðức Lục Tổ quả thật phi
thường, tinh thần đó được thể hiện qua hành động cụ thể: Suốt
tám tháng ròng rã làm việc bửa củi, đạp chày giã gạo mà không
biết mệt mỏi. Ðiều nầy cũng đã làm cho hàng đệ tử của ngài sau
nầy mỗi khi đọc đến quá trình tu tập của ngài ai ai cũng đều
cảm động, và ngay chính Ngũ Tổ đương thời cũng phải khen:
-
-
Người cầu đạo vì pháp mà quên mình đấy ư?
-
Như trên chúng ta đã biết, Ðức Ngũ Tổ bày ra việc đại chúng
phải trình kệ, để bày tỏ sở đắc của mình, nhưng kỳ thật là Tổ
chỉ nhắm vào việc trắc nghiệm khả năng của ngài Huệ Năng không
mà thôi. Cuộc trắc nghiệm phần cuối nầy phải đợi cho đến khi
Ðức Ngũ Tổ đích thân đến tận nhà bếp khảo hạch một câu hỏi
cuối cùng mới được kết thúc:
-
-
Gạo đã trắng chưa?
-
Ðại Sư Huệ Năng đáp:
-
-
Bạch Hòa Thượng, gạo đã trắng rồi mà chưa có sàng.
-
Qua mẫu đối thọai ngắn nầy, bằng một ngôn ngữ vô cùng giản dị,
nhưng lại là loại ngôn ngữ siêu tuyệt của hai vị Thiền Sư. Ðây
không phải là gạo đã trắng rồi, và chỉ có cần sàng theo nghĩa
thông thường, mà nó hàm một ý nghĩa như Ngũ Tổ muốn hỏi:
-
-
Qua bao nhiêu ngày tháng làm công quả tu tập, những vô minh,
phiền não con đã đọan trừ hết chưa?
-
Ðại Sư Huệ Năng đáp:
-
-
Bạch Hoà Thượng, tất cả những vô minh phiền não con đã gọt rửa
lâu rồi giờ đây chỉ chờ Hoà Thượng ấn chứng cho con mà thôi.
-
Nhận thấy cơ duyên truyền pháp đã đến, nên Tổ đã không nói một
lời, và chỉ lấy gậy gõ vào cối ba lần rồi bỏ đi. Như có lần đã
nói, những hành động kỳ quái cũng là loại ngôn ngữ đặc thù của
chư Thiền Sư, và chỉ có Thiền Sư với Thiền Sư mới hiểu nổi,
Ngài Huệ Năng đã lãnh hội. Canh ba đêm ấy ngài Huệ Năng vào Tổ
Ðường gặp Sư Tổ, lúc đó Tổ mới lấy y che tất cả các cửa lại và
lấy áo cà sa đắp cho ngài Huệ Năng, tiếp theo là giảng Kinh
Kim Cang cho nghe, cũng nhờ đó mà Ngài Huệ Năng hốt nhiên Ðại
Ngộ.
-
Sự việc Ðức Ngũ Tổ, trước khi truyền Y Bát và giảng Kinh Kim
Cang cho ngài Huệ Năng mà phải lấy y che kín tất cả các cửa
không cho mọi người thấy, lý do duy nhất là bảo vệ sự an nguy
cho Ngài Huệ Năng, bởi những lý do như sau:
-
1- Ngài Huệ Năng không phải là người Trung Quốc mà là một
thanh niên Việt Nam với số tuổi còn quá trẻ.
-
2- Ngài Huệ Năng chưa được Ngũ Tổ nhận làm đệ tử xuất gia, mà
chỉ cho ở Chùa với tư cách của một người công quả.
-
Với hai lý do đó cũng đủ làm cho những vị đệ tử
xuất gia theo Ngũ Tổ từ trước không tin tưởng và phục tài của
Huệ Năng, nếu không muốn nói là có sự đố kỵ, nên Ngũ Tổ phải
lén lút kêu Ngài Huê Năng vào phương trượng để truyền trao Y
Bát, và giảng Kinh Kim Cang cho nghe chớ không có gì bí mật
cả.
-
Nói về sự giác ngộ của Ðại Sư Huệ Năng, chúng ta thấy, lần đâu
tiên khi nghe đọc Kinh Kim Cang ngài Huệ Năng đã ngộ. Ngài ngộ
ở giai đoạn nầy là ngài thấy: Thể tánh không có hình tướng,
không có một vật tượng, chỉ là một thể tánh rỗng lặng, đó là
tánh không vì thấy được như thế cho nên ngài mới bước được vào
ngưỡng cửa Phật Pháp với bài kệ Vô Tướng. Lần thứ hai khi nghe
Kinh Kim Cang đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. ngài mới
thấy rõ thực thể của bản tâm, cái thanh tịnh chưa từng sanh
diệt, không giao động và hay sanh muôn pháp, cái tột cùng đó
là bản tánh của chính mình
-
Những tiến trình giác ngộ của Lục Tổ khi còn là một chú tiều
phu lúc mới được nghe Kinh Kim Cang lần đầu, cho đến khi được
ở Chùa làm công quả, ngài đều nhất nhất truyền đạt lại cho
nhân thế. Do đó mà chúng ta không thể không nhắc lại những gì
ngài muốn truyền đạt lại cho chúng ta. Trước hết, là phải nói
bản tánh thanh tịnh, và kiến tánh mới thành Phật như khi mới
mở đầu Lục tổ đã dạy: Các vị Thiện Tri Thức! Tự tánh Bồ Ðề bản
lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật. Và rồi
tự tánh bản lai không có một vật gì nhiễm ô thì lau chùi bụi
bặm ở chỗ nào? Nhưng chính vì bản tánh thanh tịnh nên đối cảnh
Vô Sở Trú là kiến tánh, thấy bản tánh đủ cả và tất cả muôn
pháp không lìa tự tánh:
-
-
Rõ được tự tánh gốc thanh tịnh,
-
Rõ được tự tánh gốc không sanh diệt,
-
Rõ được tự tánh gốc hoàn toàn,
-
Rõ được tự tánh gốc không lay chuyển,
-
Rõ được tự tánh sanh các pháp.
-
Qua sự kiến tánh của Lục Tổ đã chỉ cho chúng ta
biết: Muốn Kiến Tánh như vậy cần phải vượt lên trên danh từ và
ý niệm, thể nghiệm chân tướng đơn thuần và toàn diện. Phải
biết bản tánh tự có cái trí Bát Nhã và tự dùng trí ấy mà
thường quán chiếu chứ không liên hệ đến văn tự. Bởi vậy đây là
lời dạy hết sức quan trọng cho sự kiến tánh: Chỉ ở nơi tâm
thường phát khởi chánh kiến, thanh tịnh, không sanh diệt,
không lay chuyển, cũng từ đó làm cho trần lao phiền não không
thể nhiễm ô, ấy tức là kiến tánh. Nói tóm lại, ngu mê tạo tội
thì tự mở tri kiến chúng sanh ra, trong khi chánh tâm quán
chiếu tự tánh, bỏ ác làm lành là tự mở tri kiến của chư Phật.
Khi kiến tánh thì tánh tự đầy đủ các Công Ðức và Diệu Dụng:
Phải dùng đại trí tuệ đả phá ngũ uẩn phiền não trần lao, nếu
chúng ta tu hành như vậy chắc chắn sẽ biến Tham, Sân, Si thành
Giới, Ðịnh, Tuệ, như vậy từ một Bát Nhã Trí sanh ra được tám
mươi bốn ngàn trí, vì người đời có tám mươi bốn ngàn trần lao,
nếu không có trần lao ấy tức là trí huệ thường hiện, không ly
tự tánh. Thường thấy bản tánh là chân thật diệu dụng, đó gọi
là công đức. Người thấy tánh thì tích tụ tất cả các điều thiện
cũng được, mà phá tất cả các điều ác cũng được, nghĩa là tới
lui tự tại, không vướng mắc không sợ hãi, tùy theo trường hợp
mà hoạt dụng như Ðức Ngũ Tổ đã dạy: Người mà thấy tánh thì lúc
bối rối như múa đao lâm trận cũng thấy ngay....Nói tóm lại: Tự
tâm thường sanh trí huệ không rời tự tánh tức là Phước Ðiền,
nên điều tối kỵ và tối thận trọng là phải cẩn thận, đừng quán
sự yên tĩnh và làm trống không tâm mình, tâm tánh vốn thanh
tịnh không có chi đáng giữ, cũng không có chi cần bỏ, hãy nổ
lực và hãy tùy duyên mà hoằng dương đạo pháp và giáo hóa quần
sanh. Kiến tánh như vậy, tuy không phải cầu ở người khác,
nhưng sự dẫn đạo của các Ðại Thiện Tri Thức là yếu tố quan
trọng. Cũng như Ðại Sư Huệ Năng, nếu không có Thượng Tọa Thần
Tú thì khó có, hoặc không thể có Ðại Sư Huệ Năng. Như thế
Thượng Tọa Thần Tú đã trực tiếp hoặc gián tiếp trợ duyên cho
ngài Huệ Năng đắc đạo. Trí Bát Nhã của Bồ Ðề là trí mà người
đời ai cũng vốn tự có cả, nhưng chỉ vì tâm mê mờ không thể tự
ngộ, nên phải nhờ các vị Ðại Thiện Trí thức chỉ thị dẫn đạo
làm cho kiến tánh. Cái Trí Bát Nhã vốn có thì đâu có khác gì
với người đại trí, vậy mà vì lẽ gì mà khi nghe pháp không tự
khai ngộ. Ðó là tại vì chúng ta tà kiến nặng nề, phiền não quá
sâu dày. Vậy nên người chưa ngộ học hỏi nơi người trí, người
trí thuyết pháp cho người chưa tỏ ngộ, người chưa tỏ ngộ hoát
nhiên khai ngộ, thì cùng với người trí không khác biệt. Sau
hết muốn kiến tánh thì phải tu hạnh Bát Nhã, trì tụng Kinh Kim
Cang tức được kiến tánh. Ở điểm nầy chúng ta đã thấy qua bản
thân của ngài Huệ Năng. Người học đạo không chuyên cần, không
biết được bản tâm thì vô ích, học đạo mà không biết được bản
tâm thì học cái gì? Học đạo cốt ngộ được bản tâm mà không ngộ
được tức nhiên là học bên ngoài, chớ không phải học đạo. Còn
nếu biết được bản tâm, thấy được bổn tánh, đó là Ðại Trượng
Phu, là thầy của trời người, là Phật. Ðức Ngũ Tổ đã dạy như
thế.(còn tiếp)
|