-
Kén Rể
-
Trần Phong Sưu Tầm
-
--o0o--
-
-
Thưở xưa có hai vợ chồng một thương buôn, quanh
năm chí thú mua tảo bán tần, nhờ biết mưu toan đần cơ tích
trữ, chụp nắm cô hội liền tay nên chẳng bao lâu trở nên giàu
có. Ðến tuổi trung niên, hai vợ chồng có ba mặt con, hai trai
một gái. Tuy có cả hào của lẫn hào con, nhưng ông bà vẫn không
hài lòng về đường tử tức. Thằng cả thì phóng đãng chơi bời.
Thằng hai thì bệnh hoạn triền miên: Duy có cô gái út biết hiếu
hạnh, lam lụ làm ăn nên ông bà nhờ cậy nhiều nhất, nhưng cô là
phận gái sớm muộn gì cũng xuất giá theo chồng , làm sao nối
được sự nghiệp của tổ tông. Do đó, ông bà ăn không ngon ngủ
không yên thường đêm nằm trăn trở lo lắng buồn phiền.
-
Một hôm sau khi tính sổ cuối năm để xem làm ăn lời
lỗ ra sao, thừa dịp bà thỏ thẻ bảo chồng:
-
- Nhà mình giàu có chẳng kém ai, đáng lẽ chúng
mình được sống sung sướng lắm nhưng xét đi nghĩ lại vẫn thấy
khổ sở vô phúc thế nào ấy! Ðã sanh được ba đứa con mà hai
thằng con trai chẳng được đứa nào. Thằng cả thì chơi bời lêu
lỗng. Thằng hai thì đau ốm liên miên. Chỉ có con út hiếu hạnh
lanh lợi, biết lo làm ăn nhưng lại là phận gái mười hai bến
nước, trước sau gì cũng cất bước theo chồng làm dâu họ khác,
biết trông mong vào đứa nào để nối nghiệp tổ tông. Cổ nhân
dạy: Vi phú bất nhân có lẽ đúng. Nghĩ lại hai vợ chồng cứ mãi
mê lo trăm phương ngàn kế gom góp của thiên hạ để làm giàu,
không có thì giờ dạy dỗ con cái. Lại cũng không biết thi ân bố
đức giúp đỡ kẻ nghèo, hoặc làm những việc thiện, tạo dựng
phước lành để làm gương cho con, nên có lẽ trời Phật mới xui
khiến hai đứa con trai nhà mình chẳng ra cơm cháo gì cả. Bây
giờ mình nên hồi tâm hướng thiện may ra còn kịp. Ngày mai,
nhân ngày rằm tháng bảy chúnh ta nên mua sắm hương đăng hoa
quả, đến Chùa cúng Phật và xin quy y Tam Bảo, nương tựa bóng
từ bi. Cầu xin chư Phật ban rải chút nước cam lộ gia hộ cho
các con trai chúng ta được tật bệnh tiêu trừ, chuyển đổi tánh
tình biết hiếu thuận với mẹ cha. Như vậy mới mong có người nối
dõi gia nghiệp. Vậy ông nghĩ thế nào?
-
Ông đáp:
-
- Bà nói tui nghe bùi tai, vậy bà làm sao thì tui
theo vậy.
-
Sáng hôm sau hai ông bà mang hương đăng hoa quả
lên Chùa cúng Phật và kể lễ tâm sự cho Hoà Thượng Trụ Trì nghe
và xin được quy y Tam Bảo. Hòa Thượng từ bi truyền trao giới
pháp cho hai vợ chồng và dùng lời đạo đức khuyên ông làm lành
lánh dữ, nên ban ơn bố đức giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn để
vun trồng cội phước, mặt khác, y theo lời Phật dạy mà phát tâm
tu hành tụng kinh niệm Phật, tin sâu luật nhân quả thì may ra
các con của ông bà sẽ được tật bệnh tiêu trừ, sớm hồi tâm
hướng thiện.
-
Hai ông bà nghe lời Thầy khuyên dạy, về nhà tinh
tấn tu hành ăn chay niệm Phật, dốc lòng làm các việc từ thiện,
giúp đỡ bà con hoạn nạn từ đầu thôn đến cuối xóm. Nhưng chưa
đầy sáu tháng, cậu cả ngã lăn ra bệnh nặng, vợ chồng ông phú
hộ hoảng hốt chạy đủ thuốc hay thầy giỏi, cầu đảo van vái khắp
nơi. Nhưng bệnh của cậu mỗi ngày một tăng, cuối cùng cậu cả
lặng lẽ từ giả cõi đời. Ðể lại cho ông bàmột nỗi buồn nhớ con
khôn tả.
-
Sau khi chôn cất cậu cả xong, ông bà phú hộ lên
Chùa than khóc tỉ tê với Hoà Thượng về tình cảnh bạc phước của
hai vợ chồng. Hòa Thượng dịu dàng khuyên lơn an ủi:
-
- Con người hễ có sanh phải có tử. Ðó là định luật
thiên nhiên. Từ bậc Vua Chúa quyền cao chức cả đến hạng thứ
dân bần cùng hạ liệt có một ai tránh khỏi lưởi hái của tử thần
đâu! Dù cho vàng ngọc có đầy kho cũng không thể mang ra đổi
mạng. Bà con quyến thuộc có đầy nhà cũng không ai có thể đứng
ra chết thay cho được. Cha mẹ, vợ chồng, nghĩa cha con sống
chung trong một nhà chẳng khác nào bầy chim tạm ngủ qua đêm
trên một nhánh cây chung. Tảng sáng ra, mỗi con bay về mỗi
hướng cổ nhân đã dạy:
-
- Phụ mẫu ân thâm chung hữu biệt
-
Phu thê nghĩa trọng dã phân ly
-
nhân tình tợ điểu đông lâm túc
-
Ðại hạn lai thời các tự phi.
-
Tạm Dịch:
-
- Cha mẹ ơn sâu cùng có biệt
-
Vợ chồng nghĩa nặng cũng chia ly
-
Tình người nào khác chim chung ngủ
-
Sáng lại con nào nấy bay đi.
-
Hòa Thượng nói tiếp:
-
- Ai lại không muốn sống lâu để thụ hưởng những
thú vui trần tục. Dù biết rằng sau những phút vui ngắn ngủi ấy
chỉ tồn đọng những dư vị đắng cay. Nhưng con người không ai
thoát khỏi mạng căn đã định. Cuộc đời của cậu cả ngắn ngủi vì
khiếp trước cậu không gieo cái nhân trường thọ. Bây giờ ông bà
có khóc lóc sầu thảm thế mấy đi nữa cũng không làm cho cậu ấy
sống lại được. Tốt hơn hết ông bà nên lo tụng kinh cầu nguyện,
giúp cho hương linh của cậu cả thức tỉnh để được vãng sanh về
miền lạc cảnh. Ông bà nên phát tâm dũng mãnh tu hành, ăn chay
niệm Phật, làm việc phước đức hơn nữa, thì may ra họa sẽ tiêu
tan, gia đình sẽ an ổn.
-
Nghe lời Thầy khuyên giải, hai vợ chồng phú hộ
cũng nguôi ngoai nỗi nhớ thương con. Ông bà về nhà tinh tấn
tụng kinh niệm Phật, trì trai giữ giới, hy vọng nhờ sức từ bi
của Phật gia hộ mà gia đạo được bình yên. Nhưng chưa đầy một
năm sau, cậu hai lâm bệnh sơ xài cũng ngã ra chết theo anh.
Lúc bấy giờ hai ông bà quá đau khổ nên oán trời trách đất, ta
thán sư Phật không công minh. Nghi ngờ tại mình tu theo Phật
nên mới chiêu tai rước họa cho gia đình.
-
Sau khi lo tống táng người con thứ hai xong, hai
vợ chồng lên Chùa với nét mặt hằm hằm sân hận. Hai ông bà tìm
gặp nhà sư và nức nở khóc than:
-
- Chúng tôi những tưởng quy y thep Phật thì sẽ
được Phật phù hộ cho con của chúng tôi được mạnh lành. Nào ngờ
vừa quy y Tam Bảo và lo làm phước chưa dược bao lâu mà con tôi
lại chết luôn hai đứa. Nay chúng tôi xin trả phái điệp quy y
chuông mõ, Phật tượng lại cho Thầy. Từ đây chúng tôi xin thôi
không tu nữa!
-
Vị Hoà Thượng ôn tồn khuyên bảo:
-
- Con người sanh ra ở đời sự chết sống đều do số
mạng. Có người được phước giàu sang mà không trường thọ. Có
người được trường thọ mà không có phước giàu sang. Ðó là do
nghiệp nhân đời trước chớ không phải ai muốn mà được đâu! Chết
yểu hay sống lâu đều do nghiệp của kiếp trước gây tạo ra cả.
Trong kinh Pháp Cú Ðức Phật có dạy:
-
- Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục
tri lai thế quả kim sanh tác giả thị:
-
Nghĩa là:
-
- Muốn biết đời trước mình đã gây những nhân gì
thì hãy xem đời nầy mình đang hưởng những quả gì. Muốn biết
đời sau sẽ lãnh những quả gì, thì hãy xem hiện tại mình đang
tạo những nhân gì.
-
Suy theo đó thì biết, hai cậu con trai của ông bà
đời trước có làm phước chút ít nên đời nầy mới đầu thai làm
con ông bà để hưởng phước giàu sang. Nhưng hai cậu lại chết
sớm vì không tạo nhân trường thọ. Bởi đời trước hai cậu tạo
nhân ngắn ngủi, nên nay sống được có chừng ấy thôi vây xin ông
bà chớ vì chỗ thấy biết hẹp hòi của mình mà sanh ra thối tâm
Bồ Ðề, vùi lấp giống Phật, rồi oán hờn Phật Tổ, trách móc quỷ
thần, chỉ gây thêm tội lỗi mà thôi. Ông bà nên nghĩ rằng:
-
- Nhất kiếp hành thiện, thiện du bất túc. Nhất
nhật tạo ác, ác tự hữu dư.
-
Nghĩa là:
-
- Cả đời làm lành , lành còn chưa đủ. Một ngày làm
ác, ác tự có thừa.
-
Ông bà nên cố gắng tinh tấn tu hành, tụng kinh
niệm Phật thêm nữa để cầu nguyện cho hương linh hai cậu được
siêu thoát, gia đạo được bình an, và vun trồng cội phúc về
sau.
-
Mặc dù Hoà Thượng hết lời khuyên giải, nhưng hai
vợ chồng ông phú hộ vẫn không nguôi nổi đau khổ nỗi nhớ con.
Sự phẩn uất cao độ khiến ông bà không còn bình tĩnh được nữa
nên đã thốt ra những lời phỉ báng Phật Tổ rồi vùng vằng bỏ ra
về.
-
Trên đường về, ông đổ lỗi bà, bà đổ lỗi ông. Bấy
lâu nay vì quá nghe lời Hòa Thượng dụ dỗ mình đã hăng hái tu
hành, ráng làm việc phước thiện nhưng phước đâu chẳng thấy mà
chỉ thấy họa gởi tai bay. Gia tài có hai đứa con trai mà nay
chúng lại rủ về chơi âm cảnh. Sau nầy lấy ai để nối dõi tông
đường. Tội đại bất hiếu với cha mẹ chắc không tránh khỏi. Ăn
làm sao, nói làm sao với cha mẹ nếu mai đây còn gặp lại chốn
suối vàng! Càng nghĩ ông bà càng thấy lòng quặn đau như bị kim
châm muối xát. Lòng kính yêu Hòa Thượng bấy lâu nay đã trở
thành mối thù hận không nguôi.
-
Nhìn cảnh nhà hiu quạnh, lòng uất hận của ông bà
càng tăng, khiến ông bà không còn phân biệt đúng sai, thiện
ác. Nào phái điệp quy y, nào kinh sách Phật Tượng trên bàn thờ
đều bị ông tuôn xuống đất vất ra cửa sổ, không còn một mảy may
kính nể. Ông thề sẽ không bao giờ nghe theo Phật pháp nữa. Từ
nay, nếu thấy Tăng Ni nào đi qua ngõ khất thực, chẳng những
ông không cho mà còn tìm cách đánh đập hoặc mắng chửi thậm tệ
cho hả cơn sân hận.
-
Tiếc thương hai cậu con trai vắn số bỏ lại cảnh
già cô đơn, bà phú hộ trước tai biến dồn dập của gia đình cũng
biếng ăn bỏ ngủ. Chẳng bao lâu bà cũng trút hơi thở lìa đời.
Ðể lại cho ông một nỗi sầu đơn lẻ.
-
Ông phú hộ còn sống dật dờ là nhờ vào người con
gái út. Cô út tuổi vừa đôi chín, nhan sắc mặn mà, lại vẹn toàn
công dung ngôn hạnh. Sau khi mẹ và hai anh trai qua đời, nàng
phải đứng ra đảm trách mọi việc trong nhà và săn sóc giúp đỡ
cho cha. Ông phú hộ cưng quý cô út như ngọc như vàng, nên ngày
đêm ông mang nỗi ưu tư làm sao tìm cho cô út một tấm chồng,
không cần giàu sang phú quý, mà chỉ cần biết đạo lý thánh hiền
lại văn hay chữ tốt để cô nương tựa tấm thân trong mai hậu.
-
Sau nhiều ngày suy tính, ông tuyên bố cho mọi
người biết điều kiện kén rễ như sau:
-
- Hể ai làm thơ đắc ý ông sau ba lần được chấm đậu
và ông sẽ gã con gái cho rồi giao lại tất cả sản nghiệp của
ông. Trái lại nếu rớt sẽ bị đánh một trăm roi rồi đuổi ra
ngoài.
-
Lời kén rể của ông phú hộ được truyền rao khắp
nơi. Biết bao văn nhân thi sĩ trong làng ngoài quận nô nức kéo
nhau đến xin ứng thí. Họ hy vọng nếu trúng tuyển thì sẽ được
làm chủ trái tim người đẹp, và thừa hưởng cả sản nghiệp của
nhà triệu phú để lại. nhưng đã biết bao tao nhân mặc khách đến
rồi đi, ôm mối thất vọng bị trượt và ăn đòn còn bị đuổi ra
khỏi cửa. Cuộc khảo hạnh có vẻ khó khăn và nghiêm khắc, nên
trải qua cả năm dài mà chưa ai trúng tuyển. lần lựa sĩ tử cũng
thưa dần. Không ai dám liều mạng nhảy vào ứng thí để rước lấy
những ngọn đòn nứt da xé thịt.
-
Bỗng một hôm có chàng thanh niên dáng dấp như một
tu sĩ, mặc áo nâu sòng, dung mạo hiền hòa phúc hậu đến xin dự
thi. Người gác cổng hỏi:
-
- Anh đi đâu đó?
-
- Nghe đồn ông Phú hộ mở cuộc thi kén rễ nên tui
đến đây để xin dự thí.
-
- Có biết bao nhiêu tao nhân mặc khách đã đến xin
thi, nhưng rốt cuộc đều bị ăn gậy và đuổi ra khỏi cửa. Xem bộ
tịch của anh có vẻ quê mùa, tôi chắc anh khó lòng mà thi đậu.
Thôi anh nên về đi đừng mơ mộng trèo cao mà bị đòn chỉ chuốc
khổ vào thân.
-
- Không hề chi đâu, miển anh cho phép tôi vào may
ra tôi thi đậu thì ơn anh tôi không dám quên.
-
- Thôi được, tại anh muốn chuốc khổ. Nếu có bị ăn
đòn thì đừng trách tôi là không báo trước nhé. Nào anh hãy
theo tôi.
-
Nói xong anh gát cổng mở cổng mời chàng thí sinh
bước vào. Vừa thấy dạng người tu sĩ, ông phú hộ quát mắng anh
gác cổng ầm ỹ:
-
- Mi không nhớ ta đã có lệnh nghiêm cấm từ lâu là
không cho bất kỳ tu sỉ nào lai vãng đến đây. Tại sao nay mi
còn dám mở cổng cho y vào? Ðè tên sư ấy xuống đánh đủ một trăm
roi rồi đuổi ra ngoài lập tức cho ta.
-
Anh thí sinh ôn tồn đáp:
-
- Thưa cụ, cháu không phải là nhà sư ạ.
-
- Không phải là nhà sư nhưng sao lại cạo đầu trọc
lóc vậy?
-
- Dạ tại cháu muốn mát mẻ, lại giản tiện khi tắm
rửa, lại khỏi bận tâm chải gỡ!
-
- Người dấu đầu lòi đuôi, lại còn muốn qua mặt ta
sao? Nếu không phải là nhà sư sao ngươi lại mặc áo nâu sòng?
-
- Thưa cụ, vì cháu mồ côi nghèo khổ, lại ở gần
Chùa nên nhờ các sư sãi thương tình bố thí cho cái y cũ rách
nên cháu mới mặc giống như kẻ ở Chùa.
-
- Ngươi nói ngươi côi cút nghèo khổ thì làm sao
được đi học để biết chữ mà dự thi?
-
- Thưa cụ, khi còn sanh tiền cha mẹ cháu có cho
cháu đi học đạo thánh hiền. Khi song thân khuất núi, ban ngày
cháu đã phải vất vả đi kiếm sống, đêm về nhờ các sư ở Chùa chỉ
dạy nên cháu cũng biết chút ít việc bút nghiên. Nay nghe cụ mở
cuộc thi kén rể, nên cháu cũng đem chút ít tài mọn để ứng thí.
Nếu được đậu, song thân cháu ở dưới suối vàng chắc sẽ hài lòng
lắm!
-
- Thôi được, để ta ra đề cho ngươi thi. Nếu đậu ta
sẽ gả con gái cho và tặng luôn cả gia tài như ta đã hứa. Nếu
rớt thì ngươi phải chịu đòn đủ một trăm roi. Chừng đó đừng
trách ta độc ác nhé. Cuộc thi rất đơn giản, không cần ngươi
thuộc thiên kinh vạn quyển gì cả. Trái lại chỉ cần khi ta chỉ
vào cảnh nào thì ngươi phải lập tức làm thơ tả cảnh đó. Nếu
hay và thích hợp ý ta, được cả ba lần, thì ta chấm đậu.
-
Dạ xin cụ ra đề thi cho.
-
Lúc đó, ông phú hộ ngó ra trước ngõ, thấy hai cánh
cổng một khép một mở, dọc dài là hai hàng cây tòng cây bá hai
bên. Ông liền chỉ tay vào cảnh ấy bảo chàng làm thi. Anh liền
ứng khẩu đọc:
-
- Môn tiền nhất phiến khai
-
Tòng bá lưỡng biên bài
-
Nhược nhơn hành tà đạo
-
Bất năng kiến Như lai.
-
Tạm Dịch:
-
- Cửa ngoài một cánh mở
-
Tòng bá hai hàng dài
-
Nếu người theo đạo quấy
-
Chẳng thấy đặng Như Lai.
-
Nghe xong mấy câu thơ ông phú hộ vừa vui vừa
giận.Vui vì bấy lâu nay chưa tìm được người nào có thi tứ đặc
biệt sắc sảo như vậy. Giận vì lòng ông còn oán hận Ðạo Phật đã
làm cho gia đình ông tan nát. Nên ông nghiêm sắc mặt quát to:
-
- Ngươi làm thơ ý tứ tuy sắc sảo, nhưng ngươi
không biết ta rất hận Ðạo Phật sao? Vì ta quy y Phật Pháp mà
hai đứa con trai ta chết hết. Vợ ta buồn rầu lâm bệnh rồi cũng
qua đời. Nay ta không muốn nghe qua hai chữ Như Lai, hay Phật
Tổ. Lỡ lần đầu ta tha. Nếu ngươi còn dùng danh từ đó nữa thì
ngươi ăn đòn một trăm roi và bị đuổi ra khỏi cửa lập tức, nghe
chưa?
-
- Dạ vâng! Những chữ nào cụ cấm cháu sẽ không dám
tái phạm ạ.
-
Nghe xong, ông phú hộ cũng dịu cơn giận. Chợt nhìn
ra trước sân, ông thấy con gà cồ có bộ lông ngũ sắc đang đứng
đập cánh gáy vang. Ông liền chỉ tay bảo chàng làm thơ. Chàng
liền ứng khẩu đọc:
-
- Ðình tiền hữu nhất kê
-
Thân phi ngũ sắc ê
-
Ngũ canh thường báo hiệu
-
Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
-
Tạm Dịch:
-
- Trước sân con gà trống
-
Mập mập đủ sắc lông
-
Năm canh thường báo hiệu
-
Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
-
Vừa nghe qua, ông phú hộ giận dữ quát to:
-
- Ta đã bảo là ta không ưa Phật Pháp oán ghét tăng
Ni, chẳng thích Bồ Ðề, không chịu Bồ Tát. Tại sao ngươi còn
dùng mấy chữ ấy để chọc gan ta? Nằm xuống để ta đánh một trăm
roi, về tội dám chống trái ý ta!
-
Thưa cụ, xin cụ xét lại kẻo oan cho cháu. Cụ cấm
nói đến chữ Phật Tổ, hay Như Lai thì cháu đâu dám nói. Chớ cụ
đâu có cấm dùng hai chữ Bồ Ðề, Bồ Tát gì đâu. Hơn nữa, cụ ra
đề thi bằng cách chỉ cảnh nào bắt cháu phãi lập tức ứng khẩu
thành thơ liền cảnh đó, nên cháu đâu có thì giờ suy nghĩ để
chọn chữ lựa lời. Vì ở gần Chùa lâu năm nên cháu thấm nhiễm
lời kinh tiếng kệ của Chư Tăng. Do đó, ý từ trong tâm phát ra
thành thơ khiến cháu không kiểm soát được mới lỡ lời như thế.
Cúi xin cụ thương tình mà xét lại cho cháu nhờ.
-
Ông trưởng giả ngẫm nghĩ lời phân trần của chàng
cũng phải, nên cũng tạm nguôi ngoai cơn giận mà tha đòn lần
nầy. Thoạt ông nhìn lên tường có bức tranh vẽ con hổ đang
vương nanh múa vút. Ông chỉ vào đó và bảo chàng làm thơ. Chàng
bình tĩnh ứng khẩu ngâm:
-
- Bích trung hửu nhất hổ
-
Thân ly tam xích thố
-
Thượng báo tứ trọng ân
-
Hạ tế tam đồ khổ.
-
Tạm Dịch:
-
- Trên tường cò con hổ
-
Thân cách đất ba thước
-
Trên báo bốn ân dày
-
Dưới cứu ba đường khổ.
-
Ông trưởng giả nổi giận đùng đùng la quát ỏm tỏi:
-
- Ngươi thật to gan, dám chọc tức ta hoài. Ngươi
biết ta không ưa Phật Pháp mà ngươi còn dùng hai câu kệ:
Thượng báo tứ trọn ân, Hạ tế tam đồ khổ để trêu tức ta. Lần
nầy ta không thể tha thứ cho ngươi được nữa. Dức lời ông phú
hộ chụp ngọn roi quất lia quất lịa vào người chàng thí sinh.
Chàng phải nhảy qua né lại để tránh những đường roi hung bạo.
-
Nghe tiếng la hét giận dữ của cha cùng tiếng roi
kêu vun vút, cô út vội chạy ra ôm lấy chân cha vừa khóc vừa
năn nỉ:
-
- Xin cha bớt giận. Cha đừng quá nóng nảy, ngộ lỡ
tay sau nầy sợ khó ăn năn. Như lời chàng nói, vì ở gần Chùa
quá lâu nên chàng đã thâm nhập câu kinh tiếng kệ, do đó, làm
sao bắt chàng quên ngay được những lời Phật Pháp mà chàng đã
tạp nhiễm lâu ngày. Cha không nhớ cha đã từng đem lời cổ nhân
để dạy dỗ chúng con: Cận châu giả xích, cận mật giả hắc. Nghĩa
là: Gần son thì đỏ, gần mực thì đen đó sao? Nếu cha nhận thấy
văn tài của chàng xứng hợp với ý cha, qua ba lần ứng khẩu
thành thơ thì cha nên cho chàng đâu theo lời hứa. Còn một vài
danh từ Phật Pháp làm cha không đẹp ý, sau nầy cha dạy dỗ lại,
chắc chàng sẽ sửa chữa và làm vừa lòng cha. Còn hơn cha nóng
nảy đánh đập chàng như vậy, khác nào mình ỷ giàu có uy hiếp
người ta, con sợ mình khó tránh tiếng đời dị nghị chê cười.
-
Nghe mấy lời can gián của con, ông phú hộ nghĩ lại
thấy mình vô lý, nên ông giảm cơn thịnh nộ và dừng tay lại.
Ông thầm nghĩ cuộc thi kén rễ do ông dạo diễn đã kéo dài hơn
cả năm qua. Mỗi năm con gái ông thêm một tuổi già. Ông cảm
thấy mõi mệt mà vẫn chưa thấy người nào vừa ý. Nay gặp được
người có tài ứng khẩu thành thơ, ý từ sắc sảo lại đối đáp bặt
thiệp thế nầy, nếu ông mãi gút mắc thắt buộc thái quá chắc sẽ
làm lỡ dở duyên con. Hơn nữa, có lẽ con gái ông đã ngầm mến
phục chàng thanh niên có tài ứng khẩu thành thơ nên mới bạo
dạn chạy ra van xin ông bằng những lời tha thiết. Thôi thì ông
cũng nên tùy thuận theo ý con mà châm chước cho đôi bên được
vuông tròn. Ông quay sang chàng sĩ tữ hạ giọng ôn tồn hỏi
chàng:
-
- Nầy cháu! Bác hỏi thiệt cháu có phải là nhà sư
giả dạng đến đây để thử thách bác không?
-
- Dạ không. Thưa cụ nếu là nhà sư cháu đâu dám đến
đây để dự thi kén rễ để chuốc lấy những buộc ràng hệ lụy vào
thân.
-
- Nếu không phải là tu sĩ tại sao bài thơ nào cháu
cũng luồn vào những câu Phật Pháp như vậy?
-
- Thưa cụ, như cháu đã thưa, vì ở gần Chùa nên mỗi
ngày sáng chiều, cháu đều nghe tiếng Tăng Ni tụng. Lời kinh
tiếng kệ khi bổng lúc trầm đã gieo vào lòng cháu một nguồn an
lạc vô biên. Lâu ngày cháu đã thâm nhập vào tâm, chớ không
phải là một tu sĩ.
-
Ông phú hộ thở ra nhẹ nhàng. Ông gọi gia nhân đưa
chàng ra ngoài nghỉ tạm tại nhà khách đợi ông xem ngày lành
tháng tốt sẽ tác hợp cho đôi trẻ thành hôn.
-
Ðêm hôm đó ông phú hộ mãi mơ màng trằn trọc, thắc
mắc về nguồn gốc và thân phận của chàng rễ tương lai mà ông
vừa chọn được. Bổng nghe có tiếng gõ của cộc cộc, ông vội lại
mở cửa phòng. Ngạc nhiên khi thấy chàng sĩ tử ban chiều tay
cầm chiếc lồng đèn vừa thấy cụ bước ra anh vội cất tiếng chào:
-
- Thưa cụ, đêm nay trời trong sao tỏ, nếu cụ muốn
đi gặp vợ và các con thì cháu xin sẳn sàng hướng dẫn cụ đi.
Nói xong chàng quày quả bước ra.
-
Bị đánh trúng vào chỗ mong cầu bấy lâu, ông phú hộ
gật đầu vội vã chạy theo chàng như sắt bị nam châm cuốn hút.
-
Ra khỏi trang trại thấy chàng thí sinh dù bước rất
khoan thai nhưng ông phải chạy lúp xúp mới mong bắt kịp! Ði
càng xa, trăng sao càng mờ đần. Cảnh vật như tối sầm lại chỉ
còn những ánh đom đóm thỉnh thỏang lập loè từ những lùm cây
bụi cỏ. Khí lạnh của đêm đen làm ông run lên cầm cập. Ông tự
trách lúc đi vì quá vội vã nên không kịp choàng chiếc áo dạ
hành. Ông cảm thấy cái lạnh càng ngày càng thêm tê buốt. Ông
bắt đầu lo sợ và tự hỏi hay mình đã lạc vào cảnh giới của âm
hồn như kinh sách đã mô tả mà ông đã có lần đọc qua. Ông cố
chạy nhanh hơn để bắt kịp hầu lôi chàng quay trở lại. Bổng
dưng chàng sĩ tử dừng lại chỉ vào một đốm sáng lớn và nói với
ông:
-
- Mấy cậu con trai và vợ của cụ đang ở trong xóm
nhà có ánh sáng phía trước mặt kia kìa. Cụ ráng đi thêm một
chút nữa là gặp ngay.
-
Nghe nói được gặp con, ông phú hộ như được bồi
thêm sinh lực. Ông cốn gắng bám theo sát chàng rể tương lai.
Bất thần ánh đèn leo lét phía trước vụt sáng bùng lên như có
bàn tay vô hình thắp hàng vạn ngọn bạch lạp soi rõ cảnh âm u.
Từ xa, ông thấy người đi kẻ lại tấp nập. Ông phú hộ theo sát
gót chàng thí sinh và hòa lẫn trong dòn người xuôi ngược để
tìm con. Bổng ông thấy một tấm bảng đề hai chữ: Diêm Ðài. Ông
giật mình níu áo chàng lại hỏi:
-
- Ðã xuống đến Diêm Ðài, vậy ta đã chết rồi sao?
Thưa cụ, mạng căn của cụ chưa mãn nên đâu đã chết. Vì cụ muốn
nóng lòng gặp con nên cháu đưa giúp cụ đến đây để gặp các cậu
ấy mà thôi.
-
Vừa nghe chàng nói xong, ông phú hộ thấy dạng cậu
cả đang đi chen chúc trong đám đông. Ông liền hối hả chạy theo
nắm tay con vừa kêu khóc
-
- Con ơi là con! Sao con nỡ bỏ cha mẹ ra đi khiến
cho cha mẹ ngày nhớ đêm mong. Con nỡ lòng nào quên tình cha
con như non cao biển rộng.
-
Cậu cả không đợi ông phú hộ nói hết lời, cậu phủi
tay ông và xô ra xa. Cậu quắc mắt, sẵng lời:
-
- Dang xa tôi ra. Tôi đâu phải con cái gì của ông
mà ông khóc kể. Số là trước đây hai mươi năm, ông ỷ giàu có
quyền thế bừc hiếp vợ tôi chết một cách oan ức. Tôi vì nghèo
không chống nổi lại ông, nên đã tự quyên sinh chết theo vợ.
Tôi oán hận ông nên đã dầu thai vào làm con trai nhà ông để
đòi nợ cũ. Tôi quyết phá hết gia sản của ông mới hả tấm lòng.
Ông không nhớ tôi đã phá không biết bao nhiêu của cải nhà ông
rồi sao? May cho ông, nhờ ông biết ăn năn hối cải, chuyển đổi
tâm tánh, siêng lo tu hành tụnh kinh niệm Phật, chăm làm việc
thiện. Thấy vậy, nên tôi mới bỏ nợ cũ, mà ra đi. Nay ông còn
theo đuổi tìm kiếm tôi làm chi nữa! Nói rồi cậu cả ngoe ngoảy
bỏ đi.
-
Ông phú hộ đứng chết lặng. Chàng thí sinh nói:
-
- Thôi đi cụ. Cậu cả đã nói thế, cụ còn buồn làm
chi. Cụ có muốn gặp cậu hai thì chúng ta hãy tiếp tục lên
đường
-
Ông phú hộ gật đầu bước theo chàng thí sinh.
-
Ði được một khoảng ngắn ông phú hộ thấy cậu hai đi
tới, tay sách vai mang những bao bị cồng kềnh. Ông vội chạy
đến ôm con vừa tủi vừa khóc:
-
- Con ơi con! Sao con bỏ cha mẹ làm chi để sống
cảnh mang vác nặng nề cực khổ thế nầy. Từ ngày con bỏ ra đi,
mẹ con vì quá thương nhớ con mà buồn rầu sầu khổ nên cũng trút
hơi thở lìa đời. Bỏ cha lại ngày đêm hiu quạnh.
-
Cậu hai lạnh lùng đáp:
-
- Tôi với ông đâu có cha con gì. Chẳng qua kiếp
trước tôi có thiếu ông một số nợ. Vì nhà nghèo không trả nổi
nên bị ông mắng chửi thậm tệ, làm nhục đủ điều. Tôi có hứa với
ông nếu kiếp nầy không trả được, tôi nguyện sẽ trả ở kiếp sau.
Do đó, sau khi chết, tôi đã đầu thai vào làm con trai nhà ông
để trả nợ cũ. Ông nhớ từ khi sanh tôi ra việc làm ăn của ông
bà luôn luôn gặp may mắn khi tôi mới bảy tám tuổi, dù bị nay
ốm mai đau, mà tôi vẫn đầu tắt mặt tối giúp ông trông coi hàng
quán. Nhờ đó nên tiền bạc vô nhà ông bà ào ào như thác đổ. Nợ
nần cũ của ông tôi đã trả cả vốn lẫn lời, tôi không còn gì
quyến luyến để ở lại. Nay còn tình nghĩa gì nữa đâu mà ông đi
kiếm tôi cho cực lòng. Nói xong cậu bỏ đi thẳng
-
Ông phú hộ đau khổ cho thân phận cô đơn của mình
khi bị các con ruồng bỏ và nghe chúng kể rõ mặt thật ông mới
nhận ra luật nhân quả và sự trả vay của ân oán nhiều đời gây
ra.
-
Ông hối tiếc cho vợ vì không biết điều đó nên đã
quá nhớ thương con buồn rầu mà chết sớm. Nếu bà biết các con
bạc bẽo như vậy chắc bà sẽ ân hận vô cùng. Nghĩ đến đó ông ao
ước được gặp vợ để báo cho bà tin buồn nầy. Chàng thí sinh như
thông cảm được ý ông, nên tiếp tục dẫn ông đi vòng qua một ngã
mới. Ðường đi quanh co chập chùng hang đá. Trong mỗi hang nghe
văng vẳng những tiếng rên rỉ như tiếng của tội nhân đang bị
tra khảo.
-
Ông bước đến gần một cửa hang thấy có muôn ngàn
chông sắt dựng ngược lên tua tủa. Có hàng trăm tội nhân đang
ngồi trên chông tay chân bị gông cùm rên la đau đớn. Ông nhìn
kỹ một người đàn bà mù lòa, mặt mũi hốc hác đầy máu me. Thân
thể gầy ốm chỉ còn da bọc xương, ngồi gần cửa hang. Ông hoảng
hốt nhận ra là bà phú hộ, người vợ mà ông đã từng ấp ủ thương
yêu. Ông đau đớn gọi bà:
-
- Bà ơi! Bà làm sao mà thân thể đến thế nầy?
-
- Có phải ai mới vừa gọi tôi đó không?
-
Phải. Tôi là ông phú hộ chồng của bà đây. Từ ngày
bà ra đi bỏ tôi hiu quạnh ở dương trần, tôi ngày đêm mong nhớ
bà kể sao cho xiết. nay vì sao mà thân thể bà tiều tụy khổ sở
như thế nầy. Tôi có thể làm gì để giúp cho bà thoát khỏi cảnh
khổ nầy không?
-
Ông ơi! Làm sao kể hết những nỗi thống khổ mà tôi
phải gánh chịu từ khi cách biệt dương trần. Ðây là cái quả của
những lời nói và việc làm tham lam độc ác do tôi đã gây ra khi
còn sống với ông. Tôi đâu có ngờ làm những việc gian ác để gia
đình được giàu sang thì cả chồng con cùng hưởng, nhưng bây giờ
riêng tôi phải thọ lãnh những cực hình đói rét nào có ai chia
xẽ được đâu! Bởi trước kia tôi ăn gian nói dối, thấy có nói
không. Miệng nói ngọt ngào, bụng chứa mưu độc. Hể mở miệng là
thề thốt bất luận đúng sai để che đậy tâm tà hầu lấy lòng
thiên hạ. Do đó, hôm nay tôi phải trả cài quả bị đọa làm ngạ
quỷ đui mù đói khát. Suốt ngày đêm bị hình phạt ngồi trên bàn
chông đau nhức thấu xương. Nếu ông còn nghĩ đến tình xưa nghĩa
cũ, khi trở về dương thế ông hãy vì tôi mà nỗ lực làm việc bố
thí chẩn bần, in kinh xây tượng, cúng dường Tam bảo rồi đem
công đức nầy hồi hướng cho hương linh tôi sớm được siêu độ ra
khỏi cảnh tam đồ. Ðiều quan trọng ông phải lo tu tâm dưỡng
tánh, trì trai giữ giới, tụng kinh niệm Phật, chia bớt tài sản
để phân phát, giúp đỡ kẻ nghèo khổ hoạn nạn, tạo những công
đức lành làm tư lương cho ngày ông nhắm mắt xuôi tay.
-
Nói xong bà khóc rống lên một cách thảm thiết,
khiến ông phú hộ giật mình tỉnh giấc. Ông cảm thấy lạnh khắp
châu thân, tay chân còn run lập cập. Ông vội vàng với lấy
chiếc ào dạ choàng vào. Còn đang bàng hoàng về những hình ảnh
thảm thương qua cuộc viễn du âm cảnh trong cơn mộng, bổng ông
nghe có tiếng kêu vẳng vẳng trên không trung đưa lại:
-
Nầy Ông Trưởng Giả kia! Hãy lắng nghe ta nói. Ta
là Bồ Tát hóa thân. Vì thấy ngươi quá đắm nhiễm hồng trần,
lòng đầy tham sân mê muội, nên ta hóa hiện giả làm thí sinh dự
cuộc thi kén rễ để nhắc nhở cho ngươi biết nẻo chánh đường tà
trong một kiếp quá khứ ngươi từng là vị đại thí chủ đã xuất
tiền vàng bạc trong kho để cứu đói dân nghèo. Nhờ đó kiếp nầy
ngươi còn thừa hưởng chút thiện nghiệp đời trước nên mới giàu
có. Vì lòng ngươi còn tham lam ích kỷ nên đã làm những việc
lợi mình hại người. Do đó, ngươi mới gặp cảnh gia đình ly tán:
Con ghét cha, vợ bỏ chồng. Ngươi mới đến Chùa tập tu, mới làm
được chút ít việc thiện mà đã muốn vội mong hưởng ngay những
điều như ý; Khi gặp nghịch cảnh thì đổ lỗi cho Phật Tổ không
công minh. Ngươi không nhớ được những oan trái tiền kiếp do
ngươi tự tạo, nên nay phải gánh cái quả báo hiện đời. Ðã không
biết ăn năn hối cãi lại còn đi oán Trời trách Phật. Ngươi nên
nhớ luật nhân quả chẳng bao giờ trật. Gieo giống nào thì gặt
cây nấy. Trồng Từ Bi có trái Từ Bi. Gieo bạo ác sanh cây bạo
ác. Hiện nay tuy ngươi có tu hành, có làm việc thiện chút ít.
Nhưng cái thiện căn mới tạo còn ít, so với cái ác nghiệp sâu
dày trong quá khứ, nên ngươi phải gánh lấy cái ác quả. Giống
như cảnh anh nông dân năm nay lo vất vả làm ruộng mà vẫn thiếu
gạo ăn là tại vì năm trước anh lười nhác lại phung phí ăn tiêu
không biết để dành thóc gạo, nên năm nay anh chịu đói là việc
đương nhiên. Ngươi dùng cái hiểu biết phàm tình thì làm sao
ngộ đụợc cái lý nhân quả ba đời. Ta đã đưa ngươi đến tận âm
cung gặp lại vợ con. Ngươi đã thấy nghe tận mắt sự thật chua
chát về tình vợ chồng, nghĩa cha con. Vợ chồng, con cái chẳng
qua là những kẻ có nợ nần vay mượn lẫn nhau từ kiếp trước, nên
kiếp nầy phải trở lại để kể làm chồng, người làm vợ hoặc làm
con cái hầu có ân đền oán trả cho nhau. Khi ân oán trả xong
thì chia tay, mạnh ai theo nghiệp nấy. Nay ta khuyên ngươi hãy
vui mà trả quả tiền căn. Ngươi nên chuyên trì tịnh niệm, hành
thiện, hướng thiện, để huệ mạng phát sinh, để thiện căn tăng
trưởng hầu làm tư lương cho phút cuối đời và là hậu vận cho
kiếp mai sau.
-
Nghe qua những lời giáo của Bồ Tát, ông phú hộ
liền hồi tâm tỉnh ngộ. Sáng hôm sau, ông và cô út lên Chùa lạy
Phật và sám hối với Hoà Thượng ân sư. Ông xin cúng hiến ngôi
trang trại nguy nga lộng lẫy để làm thành ngôi đạo tràng tu
hành thanh tịnh. Từ đó khách thập phương tới lui tấp nập để lễ
Phật bái sám, tụng kinh.
|