-
Anh Hùng Dân Tộc &
-
Thầy Của Chúng Sanh
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
-
Ðất Bắc Phồn Vinh sùng Ðạo Phật
-
Việt Nam Oanh liệt có đời Trần
-
Trong lịch sử Việt Nam chúng ta, từ thời lập quốc
cho đến hiện đại, có rất nhiều vị Vua anh hùng trên phương
diện trị nước, nhưng nếu nói vừa là một anh hùng trị nước, mà
cũng là bậc thầy của chúng sanh là phải nói đến các vị vua đầu
của đời Nhà Trần.
-
I- Vua Trần Thái Tông(1218-1277)
-
A- Tiểu Sử
-
Vua Trần Thái Tông tên là Trần Cảnh, sinh năm Mậu
Dần, niên hiệu Kiến Gia thứ tám triều Nhà Lý, tức là 17-7-1218
mất ngày 4-5-1277 làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59
tuổi. Quê quán tại làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, ngày nay là
Xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Hà Nam Ninh. Tổ tiên dòng họ
nhà Trần vốn là người Phúc Kiến, đến ông Tổ là Trần Kinh sang
nước Việt Nam lập nghiệp ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường.
Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh Trần Lý, Trần Lý
sinh Trần Thừa, tất cả đều làm nghề đánh cá. Nhờ có công dẹp
loạn, nên họ Trần dần dần có thế lực từ đời vua Lý Cao Tông.
Trần Cảnh là con thứ của Trần Thừa, và nhờ ở tài nhiều mưu
lược, nên dưới Triều Lý, Trần Thừa đã từng giữ chức Nội Thị
Khán Thủ(đứng đầu các quan hầu cận Vua Lý trong cung). Bên
cạnh cha làm quan lớn còn có Trần Thủ Ðộ là chú, khi ấy làm
Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ, giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành
thị. Cháu gọi Thủ Ðộ bằng bác, trong số đó có: Trần Bất Cập
làm Cận Thi Thư Lục Chi Hậu Cục, Trần Thiêm làm Ứng Chi Cục,
Trần Cảnh làm Chính Thủ. Trần Cảnh lúc ấy 8 tuổi, chực ở bên
ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế được vào
hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy lấy làm ưa, nên mỗi khi
chơi ban đêm đều cho gọi Trần cảnh đến cùng chơi, thấy Trần
Cảnh ở chỗ tối thì trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên
bóng. Có một hôm, Trần Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu
Hoàng rửa mặt, lấy tay tát ước cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến
khi Trần Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Trần Cảnh.
Trần Cảnh không nói gì về ngầm nói với Thủ Ðộ. Thủ Ðộ nói:
-
-
Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc
đây?
-
Lại một hôm, Chiêu Hoàng lấy khăn trầu ném cho Trần Cảnh, Trần
Cảnh lạy rồi nói:
-
-
Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh.
-
Chiêu Hoàng cười và nói:
-
- Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó.
-
Trần Cảnh về nói với Thủ Ðộ. Thủ Ðộ sợ việc tiết lộ thì bị
giết cả dòng họ, lúc bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích
vào trong cung cấm. Thủ Ðộ đóng hết tất cả các cửa thành và
các cửa cung, sai người coi giữ, vì vậy mà các quan vào chầu
không được. Sau đó Thủ Ðộ loan báo:
-
-
Bệ hạ đã có chồng rồi.
-
Các quan nghe thế, ai cũng vâng lời chọn ngày vào chầu. Ðến
năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, và vương
triều Nhà Trần được thành lập từ đấy.
-
B- Anh Hùng Trần Thái Tông
-
1- Những Ngày Ðầu Của Nhà Trần
-
Nói về những ngày đầu của Nhà Trần, trước tiên
chúng ta nên biết sơ qua về Trần Thủ Ðộ, là người có công lớn
trong việc tạo dựng Nhà Trần. Trần Thủ Ðộ sinh năm Giáp
Dần(1194) ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng, nay là
Xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, và mất vào tháng
Giêng năm Giáp Tý (1264) thọ 71 tuổi. Tổ tiên ông vốn nối đời
làm nghề đánh cá(giống như Trần Thái Tông), từ Yên Sinh(Ðông
Triều, Quảng Ninh) về vùng sông nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven
sông Hồng thuộc đất Hà Nam Ninh ngày nay. Sau đó sang ở vùng
Bát Xá-Tam Nông(tám làng xá, ba làng nông) cạnh dòng sông
Luộc. Ðến đời thân phụ Trần Thủ Ðộ và nguyên tổ Trần Lý của
nhà Trần thì họ Trần trở nên giàu có, người ở quanh vùng quy
phụ... Nhất là từ khi Trần Lý có người con tên là Trần Thị
Dung lấy Hoàng Thái Tử Sảm sau nầy là vua Lý Huệ Tông thì
thanh thế càng lớn. Trong thời gian nầy có nhiều người nổi lên
làm giặc, Trần Thủ Ðộ cùng với những người con ưu tú khác của
họ Trần sớm tham gia lập các đội hương binh đi đánh dẹp các
thế lực phản loạn, nhằm mục đích là khôi phục cơ nghiệp cho
Nhà Lý. Vì có công lớn nên năm 1224 ông được phong làm Ðiện
Tiền Chỉ Huy Sứ, quản lãnh các đạo quân bảo vệ kinh thành.
Trần Thủ Ðộ tuy không có học vấn, nhưng tài mưu lược hơn
người, làm quan Triều Lý được mọi người suy tôn. Cuối triều Lý
chính quyền trung ương bất lực, trước cuộc suy thoái về kinh
tế và hổn loạn về chính trị, thiên tai, mất mùa, đói kém xẩy
ra liên tiếp. Các thế lực làm loạn nổi lên khắp nơi, đánh giết
lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Ngoài biên thùy, Chiêm Thành và
Chân Lạp thường xuyên quấy phá. Ðế quốc Mông Cổ cũng đã tung
vó ngựa sang Ðông đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên,
chuẩn bị xâm lược Tống, và các nước phía Nam. Trong lúc ấy,
vua Lý Cao Tông vẫn mãi rong chơi, say đắm thanh sắc, thích
xây dựng cung điện, đền miếu không thiết gì đến chính sự. Vua
Lý Huệ Tông thì nhu nhược, bệnh hoạn. Năm Giáp Thân (1224)
truyền cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 6 tuổi rồi tu ở Chùa
Chân Giáo. Nhân việc Chiêu Hoàng lấy chồng, Trần Thủ Ðộ đạo
diễn cuộc chính biến tháng chạp năm Ất Dậu(tức tháng
1-1-1226), xếp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng
là Trần Cảnh, lúc đó Trần Cảnh 8 tuổi. Lời lẽ trong chiếu
nhường ngôi rằng: Trẫm là nữ Chúa, tài đức đều thiếu, không có
người giúp đở, giặc cướp nỗi lên như ong, giữ thế nào ngôi báu
nặng nề... Trần Thủ Ðộ làm cuộc đảo chánh thay đổi một triều
đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước. Ngay sau
khi lên làm Vua, Trần Cảnh tức là Trần Thái Tông phong Trần
Thủ Ðộ làm Quốc Trượng Phụ, nắm giữ mọi việc cai trị thiên hạ.
Năm sau lại phong cho Trần Thủ Ðộ làm Thái Sư giữ tất cả các
việc hành quân, đánh dẹp trong nước. Ông là một nhà lãnh đạo
tài giỏi, và tận tụy chăm lo việc nước. Phàm công việc gì là
cho đế nghiệp Ðông A vững mạnh ông đều cương quyết làm cho
bằng được. Ngay từ những năm đầu của triều Trần, ông đã đánh
dẹp được các thế lực làm loạn ở các địa phương và tổ chức lại
bộ máy hành chánh từ chính quyền trung ương đến cấp xã. Ông
đặt ra sổ trướng tịch ghi chép danh sách dân gian trong xã
thôn, từ quan văn, quan võ, binh lính, hoàng nam, trung lão,
tàn tật, người ngụ cư, để nắm chắc hộ khẩu trong nước. Ông đề
cao tư tưởng pháp trị, định ra luật lệ, quy chế hành chánh, và
gương mẫu thực hiện.
-
Sử còn ghi chép chuyện Linh Từ Quốc Mẫu có lần ngồi kiệu đi
qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại. Về nhà bà khóc
và bảo với Trần Thủ Ðộ rằng:
-
-
Mụ nầy làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.
-
Thủ Ðộ giận sai đi bắt. Người quân hiệu ấy nghĩ chắc chắn là
phải chết, nhưng khi đến nơi, Thủ Ðộ vặn hỏi trước mặt, người
quân hiệu đem sự thật trả lời. Thủ Ðộ nói:
-
-
Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách
gì nữa. Rồi lấy vàng lụa thưởng cho người ấy. Trần Thủ Ðộ là
người có bản lãnh và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì
cũng thẳng thắn, thường quyết đoán theo ý chí của mình, ít
chịu để cho tình cảm sai khiến. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần
Thủ Ðộ gắn liền với nghiệp đế họ Trần. Những hiệu quả lịch sử
về việc ông làm, đã đưa đất nước qua cuộc suy vong cuối thời
Lý, và khởi dựng nên thời đại Ðông A rực rỡ với những chiến
công oanh liệt chống ngoại xâm và những thành tựu xây dựng đất
nước.
-
2- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông
-
Khi lên làm Vua, Trần Cảnh tức là Trần Thái Tông
đổi niên hiệu là Kiến Trung, năm 1232 đổi là Thiên Ứng Chính
Bình, năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong, và niên hiệu Nguyên
Phong đã đi vào lịch sử như cái mốc lớn ghi chiến công đầu
tiên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông hồi thế kỷ XIII
mà thơ Trần Nhân Tông ca ngợi:
-
- Bạch đầu quân sĩ tại,
-
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
-
Nghĩa là:
-
- Lính bạc đầu còn đó
-
Vẫn kể chuyện Nguyên Phong.
-
Quả thật trong thế kỷ thứ XIII, nhà Trần của dân
tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại, ba lần chiến
thắng quân Mông Cổ xâm lược. Lần thứ nhất xẩy ra vào tháng
giêng năm 1258, Chúa Mông Cổ tiến hành cuộc chiến tranh xâm
chiếm Trung Quốc, thời bấy giờ là triều đại Nhà Tống. Sự tiến
quân nầy chia làm hai đạo, một đạo quân ồ ạt đánh vào đất
Tống, và một đạo khác đánh vào nước Ðại Lý. Tháng 12 năm Ðinh
Tỵ(tức tháng 1-1258), sau khi quân Mông Cổ, tiêu diệt nước Ðại
Lý(Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng với một đạo quân
khoảng bốn vạn người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người
Vân Nam do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy từ Vân Nam đánh
xuống Ðại Việt. Ngày 17-1-1258 niên hiệu Nguyên Phong thứ 7
khi quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ phía nam Bạch Hạc,
Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên Bình Lệ Nguyên, bên sông
Cà Lỗ chống giặc, thế giặc rất mạnh, quân Ðại Việt bị đánh
lui. Trước thế mạnh của giặc vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long
rút xuống phía nam để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban
đầu của giặc. Quân ta rút lui, bỏ Thăng Long lại phía sau,
nhưng triều đình và quân dân vẫn không nao núng. Trên đường về
phương Nam, Vua tôi Nhà Trần đã bàn bạc phương lược đánh giặc
trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Vua ngự thuyền nhỏ đến
thuyền em ruột là Thái Úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy
ngón tay chấm nước viết hai chữ Nhập Tống ở mạn thuyền, ý
khuyên Vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền
đến hỏi Thái Sư Trần Thủ Ðộ, Trần Thủ Ðộ trả lời: Ðầu tôi chưa
rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! Vào lúc gay go nhất của cuộc
kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của Trần Thủ Ðộ đã giữ
vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Ðại
Việt. Khi quân nhà Trần rút lui, quân giặc chiếm đóng ở thành
Thăng Long. Trong tòa thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương
thực, chúng cố đánh ra chung quanh để kiếm lương thực, nhưng ở
đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của dân chúng. Vì vậy mà
chỉ trong vòng 9 ngày sau, chúng đã vô cùng hoảng hốt. Ðó
chính là thời cơ để quân ta phản công. Theo Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư nói: Ngày 29-01-1258 vua Trần Thái Tông cùng với Thái
Tử Hoảng sau nầy là Vua Trần Thánh Tông đem quân chống giặc.
Nhà Vua tự là tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn chỉ
huy cuộc chiến đấu chống giặc đã đem binh thuyền ngược sông
Hồng trở về phá tan quân Nguyên ở Ðông Bộ Ðầu, chiếm lại Thăng
Long. Quân địch bị đánh bật khỏi kinh thành, theo đường cũ
chạy về Vân
Nam.
Trên đường tháo chạy chúng còn bị quân dân các tộc ở miền núi
tập kích đánh cho tan tác. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông trở thành ông
Vua anh hùng cứu nước.
-
Có thể nói, thành quả trong cuộc kháng chiến lần
thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ nầy là nhờ ở quân dân
đoàn kết một lòng dưới sự điều khiển tài ba của vua Trần Thái
Tông, và cũng là nhờ ở câu nói sắt đá của Trần Thủ Ðộ. Trần
Thủ Ðộ thật xứng đáng được xếp vào hàng là một trong những nhà
chính trị kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước trong lịch sử dân tộc.
-
C- Vị Anh Hùng & Bậc Thầy Chúng Sanh
-
Sau khi đánh bại cuộc xâm lược Nguyên Mông năm
1258, đất nước thái bình, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con
lên làm Thái Thượng Hoàng. Từ đây Thái Tông vừa cố vấn cho
con, vừa lo nghiên cứu tu thiền. Ðến lúc Trần Thánh Tông đủ
sức đảm đang việc nước, Ngài lui về lập am Thái Vi để tu tập ở
vùng rừng núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư. Cùng trong năm nhường ngôi
1258 vua Trần Thái Tông bắt đầu viết Khóa Hư Lục cho đến trước
lúc mất (1277). Nội dung Khóa Hư Lục ghi chép những phép tu
dưỡng của đạo giải thoát với những điểm:
-
1- Nói về nguyên lai đau khổ của con người ở chỗ bỏ mất bản
tâm của mình cho nên gọi về sám hối càng sớm càng hay.
-
2- Thuyết lý về cuộc sinh tồn của nhân loại cũng ví như cuộc
vận hành tuần hoàn của trời đất trong vũ trụ vạn vật.
-
3- Chương trình tu hành, cầu nguyện, sám hối với hiệu quả cầu
mong là giải thoát nhờ vào tha lực của Thế Tôn.
-
4- Xưng tụng đời sống đạo lý của tác giả.
-
Theo tuần tự như trên chúng ta thấy về nội dung, Khóa Hư Lục
vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn học, trong đó
Trần Thái Tông mượn để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình qua
hình thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn,
ngũ ngôn... Xét về niên đại, Khóa Hư Lục là cuốn sách xưa nhất
hiện còn được giữ trong kho thư tịch cổ nước ta. Tên tuổi Trần
Thái Tông được sử sách lưu truyền, bởi vì ông không những là
một vị vua tài giỏi có công đánh bại quân xâm lược Nguyên
Mông, mà còn là một nhà Thiền Học, một Triết Gia có những tư
tưởng sâu sắc, độc đáo và một tính cách khá lạ lùng. Do đó
chúng ta có thể nói Ngài là người anh hùng của dân tộc, đồng
thời cũng là một ông vua Thiền Sư, thầy tất cả chúng sanh, đã
mở đầu cho một mấu chốt quan trọng nhất về phương diện Triết
Học & Thiền Học của thời Trần.
-
Trong một bản văn Khóa Hư Lục, bài tựa Thiền Tông
Chỉ Nam của Trần Thái Tông viết, Ngài đã kể lại sự việc năm
1236 đang đêm Ngài bỏ cung điện vào núi, định ở đó tu hành,
nhưng Trần Thủ Ðộ đến nơi cương quyết mời Ngài trở lại ngôi
Vua, và câu chuyện nầy gắn liền với tiểu sử của đời Ngài, với
đặc điểm Phật Giáo Việt Nam thời Trần:
-
Năm thứ 5, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình, đúng
đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân(1236), Trẫm đổi y phục đi ra
cửa cung, bảo người tả hữu rằng:
-
- Trẫm muốn ra chơi để ngầm nghe lời dân, mới hiểu
thấu nỗi khó khăn của họ!
-
Bấy giờ tả hữu theo Trẫm không quá bảy tám người.
Giờ hợi đêm ấy, Trẫm cỡi một ngựa lẻn ra đi, qua sông mà đi về
phía Ðông, mới nói thực lòng cho tả hữu biết. Tả hữu ngạc
nhiên, tất cả đều khóc. Giờ mão ngày hôm sau thì đến bến đò
Ðại Than, bên núi Phả Lại, sợ người ta biết, Trẫm lấy vạt áo
che mặt qua sông, đi tắc theo đường núi. Ðến tối vào nghỉ Chùa
Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Gập ghềnh núi thẳm khe sâu, ngựa
mỏi không tiến được, Trẫm bỏ ngựa vin theo vách đá mà lần bước
leo dốc mà đi, đến giờ mùi tới sườn núi Yên Tử. Sáng sớm hôm
sau, Trẫm lên thẳng đỉnh núi, tham kiến Ðại Sa Môn Quốc Sư
Trúc Lâm. Quốc Sư vừa thấy Trẫm mừng rỡ ung dung bảo:
-
- Lão tăng ở lâu nơi sơn dã, xương cứng mặt dày,
ăn rau đắng, cắn hạt dẻ, uống nước suối, dạo cảnh rừng, lòng
như mây nổi đến đây. Nay bệ hạ bỏ ngôi nhân chủ, nghỉ đến nơi
quê hèn núi rừng, chẳng hay bệ hạ mong cầu điều chi mà đến
đây?
-
Trẫm nghe nói, hai hàng nước mắt tự tràn đáp lại
sư rằng:
-
- Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng
trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp bậc đế
vương đời trước thịnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi
nầy chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu việc gì khác.
-
Quốc Sư bảo:
-
- Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong
tâm. Tâm lặng mà biết là chơn Phật. Nay bệ hạ nếu ngộ tâm nầy
thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài.
-
Bấy giờ thúc phụ Trần Công, người em họ mà tiên
vương gởi gấm đứa con côi, sau khi tiên quân bỏ thế gian và
quần thần, Trẫm phong làm Thái Sư tham dự quốc chính. Nghe tin
trẫm bỏ đi, ông liền sai tả hữu tìm kiếm khắp nơi, bèn cùng
với quốc lão tìm đến núi nầy. Gặp Trẫm, Thái Sư nói thống
thiết rằng:
-
- Thần nhận sự ủy thác của tiên quan, tôn bệ hạ
làm chúa thần dân. Lòng dân trông đợi ở bệ hạ như con nhỏ mong
đợi cha mẹ. Huống nữa ngày nay các cố lão trong triều đều là
bề tôi thân thuộc, dân chúng sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục tùng.
Cho đến đứa bé lên bảy cũng biết bệ hạ là cha mẹ dân. Vả lại
Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ còn chưa khô, lời dặn
dò còn vẳng vẳng bên tai, mà nay bệ hạ trốn lánh vào núi rừng,
ẩn cư để mong thỏa mãn chí mình. Như thần nghỉ, bệ hạ vì mục
đích tu riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã
tắc thì sao? Ví để lời nói suông mà bảo đời sau thì sao bằng
chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Bệ hạ nếu
không nghĩ lại, chúng thần cùng người trong thiên hạ đồng chết
ngay hôm nay, quyết chí không về.
-
Trẫm thấy Thái Sư cùng các lão quần thần không có
ý bỏ Trẫm, Trẫm liền đem lời nầy bày tỏ với Quốc Sư. Quốc Sư
cầm tay Trẫm bảo:
-
- Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của
mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được,
song phần nghiên cứu nội điển mong bệ hạ đừng xao lãng.
-
Nghe theo lời Quốc Sư dạy do đó, trẫm cùng quốc
lão về kinh, gắng lại lên ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi
rảnh rỗi, trẫm tập họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi
đạo và các kinh Ðại Thừa đều nghiên cứu qua. Trẫm Thường đọc
Kinh Kim Cang đến câu: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, trong
khoảng để quyển kinh xuống ngâm, bổng nhiên tự ngộ. Liền đem
sở ngộ nầy viết thành bài ca để tên là Thiền Tông Chỉ Nam.
-
Bài tựa trên, vua Trần Thái Tông đã toát yếu khúc
chiết tất cả triết lý thiền của tác giả đã thực nghiệm ở chính
bản thân trong cuộc đời hành động nhập thế của Ngài. Gồm năm
giai đoạn:
-
1-
Khái quát quan điểm Thiền của nhà vua
-
2-
Ý
hướng cầu chân
-
3-
Luân điệu của nhà xuất thế
-
4-
Luận điệu của nhà nhập thế
-
5- Sự giác ngộ của nhà vua.
-
Mở dầu tác giả đã giới thiệu tổng quát cả một luận
án về triết lý Thiền, chú trọng vào một thực tại làm cơ bản
cho thế giới sự vật vô cơ, hữu cơ và tinh thần. Cái thực tại
ấy là cái thực tại tuyệt đối, toàn diện mà tác giả mệnh danh
là Phật tức là Phật tính. Phật tính ấy là Bản Thể Ðại Ðồng là
thực tại tuyệt đối của tác giả quan niệm cho nên bảo là Phật
không Nam Bắc, vì không lệ thuộc vào điều kiện của thời gian
và không gian, hoàn cảnh địa lý và lịch sử. Chính cái thực tại
ấy là thực tại siêu nhiên của triết học truyền thống Ðông
Phương. Về Siêu Hình Học thì nó nhận có thực tại linh diệu làm
bản thể của thế giới sự vật chúng sanh và tinh thần. Về Tâm Lý
Học nó nhận thấy ở trong tâm hồn có một cái gì đó tương tự hay
đồng nhất với cái thực tại linh diệu kia. Về Ðạo Ðức học nó
đặt cứu cánh cùng tột của con người ở sự hiểu biết cái Bản Thể
tiềm tàng và siêu việt của toàn thể hiện hữu. Thái Tông cũng
chỉ ngay cái thực tại linh diệu siêu nhiên ấy làm đối tượng
không phải chỉ cho suy tưởng mà chính là đối tượng để sống,
thực hiện cả trong tư tưởng lẫn ngoài hành động. Cái thực tại
ấy, ở đây là Phật tính tuy không lệ thuộc vào thời gian và
không gian, siêu việt lên trên, nhưng mặt khác đồng thời cũng
tiềm tàng linh động trong thiên hình vạn trạng của con người,
và vũ trụ sự vật, biến hoá không ngừng nầy. Với tinh thần đó
chúng ta thấy phản ảnh trung thực như cuộc đời của nhà vua.
Vua Trần Thái Tông lên làm vua lúc 8 tuổi, năm 16 tuổi thì
Hoàng Thái Hậu mất, năm 18 tuổi thì Thái Tổ Hoàng Ðế cũng băng
hà. Vua Thái Tông là một người có hiếu vì thế mà nhà vua đã có
ý định đi tu tìm đạo giải thoát để mà báo đền công ơn cha mẹ.
Vì vậy năm 20 tuổi nhà vua quyết định thoát ly cung vàng điện
ngọc để đi tìm đạo giải thoát. Nhưng khi đến núi Yên Tử gặp
Trúc Lâm Quốc Sư ngài đã dạy:
-
- Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong
tâm. Tâm lặng mà biết là chơn Phật. Nay bệ hạ nếu ngộ tâm nầy
thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài.
-
Qua câu chuyện đối đáp giữa vua Trần Thái Tông một
người cha của thiên hạ và Quốc Sư ngộ đạo chúng ta thấy sự
nhắn nhủ của Thiền Sư cho nhà vua biết, nhưng cái biết đó nhà
vua chưa biết mình phải là gì. Cho đến khi Trần Thủ Ðộ nhắc:
-
- Bệ hạ vì mục đích tu riêng mình mà làm thế thì
được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao?
-
Và Quốc Sư Trúc Lâm nhắc lần thứ hai:
-
- Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của
thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của
mình.
-
Ðối với người con Phật dù ở đâu, tâm hiếu kính,
lòng thương người, và tinh thần trách nhiệm đối với Quốc Gia
Xã Tắc bao giờ cũng là vấn đề trọng đại nhất. Thái độ đối với
tâm hiếu kính, lòng thương người, và tinh thần trách nhiệm đối
với Quốc Gia Xã Tắc chính là thước đo giá trị của mỗi người,
bất kể họ ở cương vị nào. Vì thế khi nhà vua nghe Quốc Sư Trúc
Lâm, và Trần Thủ Ðộ nhắc đến những trách nhiệm thì nhà vua
không còn sự lựa chọn nào khác hơn là sự chọn của một trái tim
Bồ Tát, hay tinh thần nhập thế của bậc đại thừa bồ tát. Thế là
Trần Thái Tông trở về triều và 22 năm sau, Trần Thái Tông cũng
trong tinh thần nhập thế đó đã phá tan quân xâm lược Nguyên
Mông, giữ vững Quốc Gia Xã Tắc, đem lại đời sống no cơm ấm áo
cho muôn dân. Vua Trần Thái Tông quả là một vị Vua có tính
cách đặc biệt. Lúc làm tướng đánh giặc thì anh dũng xông vào
mũi tên hòn đạn, khi là Vua thì phú quý không làm trọng, có
thể sẳn sàng từ bỏ ngai vàng không luyến tiếc. Ngô Thì Sĩ, sử
gia thế kỷ thứ XVIII đã nhận xét về Trần Thái Tông như sau:
-
- Trần Thái Tông tuy ý từ gần với đạo giải thoát,
mà chí thì rộng xa, cao siêu cho nên bỏ ngôi báu như trút đôi
dép rách vậy.
-
Lời nhận xét nầy tưởng như một nét khắc thần thái
Trần Thái Tông, bó đuốc của Thiền Học Việt Nam, gương mặt văn
hóa đẹp và khác thường trong lịch sử Việt Nam.
-
II- Vua Trần Nhân Tông(1258-1308)
-
A- Tiểu Sử
-
Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng, triết gia, và thi
sĩ, tên là Khâm con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh
Thiên Cảm Hoàng Hậu, sinh năm ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ,
Nguyên Phong năm thứ 8 đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh
tan quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Lúc mới sanh thuần
túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí
tươi sáng cho nên Thái Tông và Thánh Tông tức là ông nội và
cha đều cho là lạ, vì thế nên gọi là Kim Tiên Ðồng Tử. Trên
vai có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn.
Ngài lên ngôi năm 1279 lúc đó ngài 21 tuổi, trị vì 14 năm,
nhường ngôi 5 năm, thọ 51 tuổi, băng hà ở am Ngọa Vân núi Yên
Tử, tro cốt đưa về táng ở Ðức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố
kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thưở trước, thực
là bậc vua hiền của nhà Trần.
-
B- Anh Hùng Trần Nhân Tông
-
1- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông
-
Nói đến Trần Nhân Tôn là phải nói đến người anh
hùng cứu nước. Trong thời gian ấy đất nước Ðại Việt đứng trước
thử thách ghê gớm, đó là hiểm họa xâm lược lần thứ hai và lần
thứ ba của giặc Nguyên Mông. Trong hai lần kháng chiến nầy,
Trần Nhân Tông đã trở thành sợi dây liên lạc kết chặt lòng
dân, lãnh đạo quân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc
chiến dấu tới thắng lợi huy hoàng.
-
a- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Hai
-
Sau lần thất bại thứ nhất, đế quốc Mông Cổ vướng
vào cuộc nội chiến(1259-1264) và cuộc chiến tranh với Triều
Ðình Nhà Tống (1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279 nhà Tống mất,
toàn bộ đất Trung Quốc đã nằm dưới ách thống trị của Nhà
Nguyên. Sau khi không khuất phục được Ðại Việt bằng những sứ
bộ ngoại giao, vua Nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt mới chuẩn bị xâm
lược nước ta bằng quân sự. Cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông
do Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt và A Lý Hải Nha chỉ
huy đã lên đường bắt đầu xâm lược Ðại Việt lần thứ hai. Lần
nầy, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn,
vua Nguyên Mông còn sai Nạp Tốc Lạc Ðinh đem một cánh quân từ
Vân Nam đánh vào Tuyên Quang và ra lệnh cho Toa Ðô đem đạo
quân còn đóng ở Bắc Champa đánh vào mặt nam của Ðại Việt. Sau
vài trận đánh chận giặc ở Lạng Sơn và Tuyên Quang trong ngày
26 tháng 12 năm 1285 quân ta lại rút lui về thế thủ. Ngày 6
tháng Giêng năm 1258 tướng Nhà Nguyên là Ô Mã Nhi đánh vào Vạn
Kiếp và núi Phả Lại. Ngày 12 tháng giêng năm 1285 giặc đánh
vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Ðông Ngàn bắt được nhiều quân lính của
Nhà Trần, thấy người nào cũng thích hai chữ Sát Thát, có nghĩa
là Giết Giặc Thát Ðát vào cánh tay, Ô mã Nhi tức lắm vì thế mà
quân Nguyên giết hại rất nhiều người. Thế mạnh của địch đã bắt
đầu tiến tới bờ bắc sông Hồng, áp sát kinh thành Thăng Long.
Vua tôi Nhà Trần đứng trước sự lựa chọn căng thẳng:
-
- Phản công quyết chiến bảo vệ kinh đô.
-
- Tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng và xây
dựng cơ sở để chờ thời cơ diệt giặc?
-
Ðiều cốt yếu là lúc nầy làm sao nắm được địch
tình, rút ra được kết luận về thế giữa ta và địch thì mới có
thể lựa chọn đúng sách lược. Giữa lúc nguy biến chưa tìm ra
cách nào làm được điều nầy, thì Chi Hậu Cục Thư Ðỗ Khắc Chung
tâu với Vua:
-
- Thần tuy tài hèn sức mọn nhưng xin với bệ hạ cho
đi vào đất giặc đặng mà biết giặc.
-
Vua Trần Nhân Tông mừng và nói:
-
- Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa
kỳ, ngựa ký như thế. Rồi sai Ðổ Khắc Chung đưa thơ giảng hòa.
-
Chiều ngày 12-2-1285 Ðỗ Khắc Chung vượt sông Hồng
bằng con thuyền nhỏ, lấy cớ đưa thơ cầu hòa của vua Trần rồi
lọt vào hành dinh Ô Mã Nhi. Gặp mặt Ðổ Khắc Chung, Ô Mã Nhi
nói:
-
- Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát
Thát, khinh nhờn thiên binh lỗi ấy to lắm.
-
Khắc Chung đáp:
-
- Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì
lòng trung với nước nên họ tự thích chữ như vậy chớ không bảo
họ cả. Quốc vương tôi không biết, tôi là cận thần tại sao tôi
không có!
-
Nói xong Khắc Chung đưa cánh tay cho Ô Mã Nhi xem.
-
Ô Mã Nhi nói:
-
- Ðại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay
giáo để hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe
liệu sẽ ra sao?
-
Khắc Chung nói:
-
- Hiền tướng không theo sách Hàn Tín bình nước
Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không
thông hiểu thì mới có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú
cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người!
-
Ông đối đáp với chủ tướng giặc, thông minh khiến
hắn vị nể, lưu lại một đêm. Thời gian nầy Ðỗ Khắc Chung tìm
cách khéo léo quan sát địch tình. Sáng sớm hôm sau giờ mão
ngày 13-2-1285 ông đã bí mật trở về kinh thành Thăng Long. Nhờ
đấy Vua tôi nhà Trần quyết định rất đúng đắn:
-
- Thế giặc đang rất mạnh, cần rút lui gấp, lập
vườn không nhà trống ở kinh thành.
-
Ðây là lần thứ hai, vua tôi nhà Trần lại bỏ trống
Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên. Và để tránh
vào thế bị kẹp vào giữa các gọng kềm của giặc, đại quân và
triều đình chờ cho cánh quân của Toa Ðô tiến đến Trường Yên
tức là Ninh Bình cũ thì đại quân rút vào Thanh Hóa. Trong khi
một bộ phận lớn của quân chủ lực rút, thì khắp nơi quân địa
phương và dân binh các lộ phối hợp với các cánh quân nhỏ của
triều đình để lại, đã không ngưng tập kích, tấn công vào quân
địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch vườn không nhà trống được
toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán thiếu lương thực,
có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến lại giáng lên đầu những
tai họa mới như Sử Nhà Nguyên đã ghi chép:
-
-
Bệnh dịch hoành hành...Nước lụt dâng to ngập ướt doanh trại.
-
Thời cơ phản công của quân ta đã đến. Tháng 5-1285, Hưng Ðạo
Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc, kế hoạch diệt
địch như sau:
-
- Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng
lãnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng.
-
- Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đem quân vòng qua
vùng Hải Ðông, tiến lên Vạn Kiếp chặn đường tháo chạy của
địch.
-
Cuộc diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu:
Cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương
Dương, rồi tiến lên giải tỏa thành Thăng Long. Thoát Hoan
hoảng hốt rút khỏi Thăng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Ðến đây
bọn giặc lọt vào trận mai phục của Trần Hưng Ðạo, bị thương
vong rất nhiều. Ðám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo
chạy. Nhưng khi đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta
chận đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, rồi bắt quân
lính khiêng chạy về nước. Viên Ðại Tướng Lý Hằng đi đọan hậu,
bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết. Trong khi
cánh quân của Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân
Nạp Tốc Lạc Ðinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân
dân ta tập kích đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan bỏ
chạy Toa Ðô và Ô Mã Nhi kéo ra Bắc theo sông Hồng định về
Thăng Long, nhưng đến Tây Kết bị quân ta chặn đánh Toa Ðô bị
chém còn Ô Mã Nhi thì chạy trốn, hai vua đuổi theo nhưng không
kịp, bắt được hơn 5 vạn tàn quân. Thế là cuộc chiến tranh xâm
lược của Nguyên Mông lần thứ hai bị hoàn toàn thất bại.
-
Ngày 6 tháng 6 năm 1285 hai vua trở về kinh sư,
Thượng Tướng Trần Quang Khải có làm bài thơ:
-
Ðoạt sáo Chương Dương độ
-
Cầm hổ hàm Tử quan
-
Thái bình tu trí lực
-
Vạn cổ thử giang san
-
Nghĩa là:
-
- Bến Chương Dương cướp giáo
-
Cửa Hàm Tử bắt thù
-
Thái bình nên gắng sức
-
Non nước củ muôn thu.
-
Trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai
thành công dựa trên nhiều yếu tố, tuy nhiên một trong những
yếu tố quan trọng nhất là phải nói đến lòng can đảm của Ðỗ
Khắc Chung, một tình báo nổi tiếng đời nhà Trần.
-
b-
Chiến Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Ba
-
Ngay sau thất bại nầy, tháng 3 năm 1286 vua Nguyên là Hốt Tất
Liệt đã ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới,
nhưng phải chờ đến cuối năm 1287, các đạo quân Nguyên Mông mới
có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy
tiến vào mặt Lạng Sơn. Một đạo khác do Ái Lỗ cầm đầu từ Vân
Nam đánh và Tuyên Quang. Song song với việc tiến hành kế hoạch
xâm lược, Hốt Tất Liệt còn ra lệnh quân của ba tỉnh Giang
Chiết, Hồ Quảng, và Giang Tây xâm lược Ðại Việt mượn cớ đưa
Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương. Lần nầy không
còn cánh quân phía Nam, nhưng vua Nguyên lại phái thêm một
cánh thủy quân, sai Ô Mã Nhi chỉ huy hộ tống đoàn thuyền tải
lương của Trương Văn Hổ vào Ðại Việt theo đường biển. Lúc bấy
giờ vua hỏi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn:
-
-
Thế giặc năm nay thế nào?
-
Quốc Tuấn trả lời:
-
-
Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc đao binh. Cho
nên năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng, có kẻ
chạy trốn. Nhờ uy linh của tổ tiên và thần võ của bệ hạ, nên
đã quét được bụi Hồ. Nay nếu nó trở lại thì quân ta đã quen
việc chiến trận, mà quân nó thì phải sợ đi xa. Vả lại, chúng
còn nơm nớp sợ cái thất bại của Lý Hằng và Lý Quán không còn
có chí chiến đấu. Theo thần thấy, phá được chúng là điều chắc
chắn.
-
Tháng 12 năm 1287, khi đoàn thuyền tiến vào vùng biển An
Bang(Quảng Ninh) Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân
chận đánh, nhưng không cản được giặc. Ô Mã Nhi cho binh thuyền
tiến thẳng vào cửa Bạch Ðằng không chú ý vào đoàn thuyền lương
nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1 năm 1288, đoàn thuyền
lương thực của giặc mới tiến đến vùng đảo Vần Ðồn. Trần Khánh
Dư lại đem quân tập kích. Trương Văn Hổ chống không nổi, đổ cả
lương thực xuống biển trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về
Quỳnh Châu(Hải Nam)
-
Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội
quân với 30 vạn Thủy quân của Ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan
dừng ở lại đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn
cứ vững chắc, mãi đến tháng 1 năm 1288 mới chia quân tiến về
Thăng Long. Lần thứ ba quân dân và triều đình nhà Trần lại bỏ
ngỏ Thăng Long, quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2-2-1288. Ngay
sau đó Thoát Hoan vội sai Ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển để
đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền lương đã
không còn nữa! Không có lương thực đạo quân của Thoát Hoan
đóng ở Thăng Long lâm vào tình trạng nguy ngập. Thoát Hoan
phải ra lệnh rút quân lui về Vạn Kiếp. Trên đường rút quân về
Vạn Kiếp, giặc bị quân dân ta chận đánh ở cửa Ba Sông, vùng
Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược bị quân ta
tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng
Nguyên nói với Thoát Hoan:
-
-
Ở Giao Chỉ không thành trì để giữ, không có lương thực để ăn,
mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí
trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống
đỡ lâu, làm hổ thẹn cho triều đình, nên toàn quân mà về thì
hơn.
-
Trước tình hình đó Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo
hai đường: Cánh quân bộ rút qua biên giới Lạng Sơn, còn cánh
quân thủy thì theo sông Bạch Ðằng rút ra biển. Kế hoạch rút
quân của địch không ngoài sự dự liệu của Trần Hưng Ðạo. Ông đã
bố trí chặn giặc ở biên giới và quyết định một trận quyết
chiến lớn trên sông Bạch Ðằng. Từ đầu tháng 3, quân sĩ và nhân
dân đã đẳn gỗ lim, đẽo nhọn đóng xuống lòng sông, làm thành
những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong
các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Ðằng, chờ
ngày tiêu diệt địch. Sáng ngày 9-4-1288 đoàn thuyền chiến của
Ô Mã Nhi tiến vào đoạn sông chiến lược Bạch Ðằng. Khi đoàn
thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục, thì từ các ngánh sông
các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn
chúng vào bãi cọc. Giặc áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy
núi cao để yễm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta
đánh hất xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xẩy ra. Nước
triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo giòng
nước, vướng cọc làm tan vỡ rất nhiều. Cho đến khoảng 5-7 giờ
tối toàn bộ chủ sự của giặc bị tiêu diệt. Ô Mã Nhi bị bắt
sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng sông
Bạch Ðằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó
đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới.
Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra
ải Khâu Cấp, vòng theo đường Ðan Ba, chạy tạt ra biên giới.
Nhưng ở đây chúng cũng bị quân ta chận đánh, tướng giặc là A
Bát Xích bị trúng tên chết. Mãi đến ngày 19-4-1288, đám tàn
quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh. Chiến Thắng Bạch Ðằng
oanh liệt đã vùi chôn vĩnh viễn mộng xâm lăng của Hốt Tất
Liệt.
-
c- Chiến Thuật & Chiến Lược Trận Bạch Ðằng
-
Trận đánh tại sông Bạch Ðằng với quân Nguyên Mông
của lần xâm lăng thứ ba nầy, địch đã bị tiệu diệt 8 vạn thủy
quân và 400 chiến thuyền. Chúng ta biết rằng, trận đánh thủy
chiến trên sông Bạch Ðằng đây không phải là lần đầu tiên, mà
trước đây quân Nam Hán cũng đã nếm mùi thất bại chua cay dưới
tay Ngô Quyền tại dòng sông lịch sử nầy. Bài học đó khi xâm
lăng Ðại Việt, Thoát Hoan và bộ tham mưu của quân Nguyên không
thể nào không nghiên cứu qua. Biết mà vẫn thua trong trận đánh
với các tướng nhà Trần là điều mà quân Nguyên không ngờ tới.
Chiến công oanh liệt nhất của trận Bạch Ðằng vào thời nhà Trần
thành công, là phải nói đến nghệ thuật của quân dân thời Trần
biết phối hợp chặt chẽ giữa quân đội nhà Vua là chủ lực, và
dân binh địa phương. Trong lúc tác chiến đã sử dụng hình thức
phục kích để tiêu diệt địch. Về chiến thuật chiến lược: Lấy
việc tiêu diệt đạo quân thủy của địch được chọn làm chủ yếu
đối tượng tấn công, đó là một quyết tâm chính xác. Vì so với
đạo bộ binh chủ lực thì số lượng ít hơn, không giỏi chiến đấu
bằng, và phải tốn nhiều công sức xây dựng. Khúc sông Bạch Ðằng
nơi được chọn làm địa điểm tác chiến là một khu vực hiểm yếu
có đủ điều kiện cần thiết, đáp ứng được yêu cầu bố trí một
trận mai phục trên sông với quy mô lớn. Tuy vậy, muốn khai
thác triệt để những điều kiện thuận lợi trên, còn phải có một
nghệ thuật tác chiến rất cao, như tìm cách hoàn toàn cô lập
đạo thủy quân của Ô Mã Nhi với đạo quân bộ binh chủ lực của
Thoát Hoan, tách rời đạo kỵ binh đi yểm trợ, và dần dần điều
động đạo quân thủy nầy từng bước lọt vào đúng trận địa mai
phục, theo đúng thời gian đã được xác định. Bỡi vậy đạo thủy
quân địch dù đông tới 8 vạn tên được đề phòng rất cẩn mật,
nhưng vẫn gặp nhiều bất ngờ, lúng túng buộc phải bị động đối
phó từ đầu đến cuối, và kết quả bị tiệu diệt hoàn toàn. Chiến
thắng Bạch Ðằng còn là kết quả của sự phối hợp tác chiến có
hiệu quả cao giữa thủy binh và bộ binh, giữa quân chủ lực với
các đội dân binh, giữa các lực lượng tham chiến với nhau về
thời gian và không gian. Thế là trong vòng 30 năm quân dân
dưới triều đại nhà Trần đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông,
đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất của thời đại, để
bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước, góp phần bảo vệ nền
độc lập cho các nước Ðông Nam Á. Sức mạnh để làm nên chiến
thắng là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Ðạo đã nói:
-
-
Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức.
-
Chính nhờ khối đoàn kết đó mà cuộc chiến tranh nhân dân: Cả
nước đánh giặc, trăm họ là binh mới có thể thực hiện được. Sau
cùng, nguyên nhân sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn định
kinh tế, xã hội thời Trần, được tạo ra từ đường lối lấy dân
làm gốc. Nói đến những chiến công chống xâm lược đời Trần
chúng ta không thể không nhớ đến câu nói tuyệt vời của Trần
Hưng Ðạo: Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước.
-
Qua hai cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ
ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân
dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào những lúc đầu của cuộc
kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức
với đối phương, Trần Nhân Tông đã từng viết lên đuôi chiến
thuyền hai câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm
tàng của quân ta:
-
- Cối kê cựu sự quân tu ký,
-
Hoan diễn do tồn thập vạn quân.
-
Nghĩa là:
-
- Cối kê chuyện cũ ngươi nên nhớ.
-
Hoan diễn đang còn chục vạn quân.
-
Sau khi đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba,
ngày 17 tháng 4 năm 1288, vua Trần Nhân Tông đem các tù binh
bị bắt trong cuộc chiến như: Tích Lệ Ngọc Cơ, Nguyên Soái Ô Mã
Nhi, Tham Chính Sầm Ðoàn, Phàn Tiếp, Nguyên Soái Ðiền..v..v..
làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng, mộ của Thái Tông Hoàng
Ðế. Tưởng cũng nên biết, trong lúc quân Nguyên chiếm đóng
thành Thăng Long lần thứ ba nầy, vì hận bại trận lần trước,
nên quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi, thì quân
dân nhà Trần kịp thời giải cứu Thăng Long, vì thế mà quân
Nguyên chưa phạm tới quan tài của Thái Tông. Sử gia thời bấy
giờ cho rằng nhờ thần linh giúp đỡ nên mới may mắn như vậy.
Khi cử hành lễ bái yết, trong lúc cảm xúc nhà vua viết bên
Chiêu Lăng tại Long Hưng (Thái Bình) hai câu thơ:
-
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
-
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
-
Nghĩa là:
-
- Xã tắc hai lần lao ngựa đá,
-
Non sông nghìn thưở vững âu vàng.
-
Bốn câu thơ trên đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về
chiến công bình Nguyên Mông năm 1285 và 1288 trong đó Nhân
Tông là vị chủ soái. Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà
Trần đã giành được trong sự nghiệp cứu nước, Trần Nhân Tông đã
chú ý tới vai trò của người dân lao động mà thời đó gọi là gia
nô, gia đồng. Ngài cho rằng họ mới là những người trung thành
với đất nước khi có giặc ngoại xâm.
-
C- Vị Thiền Sư
-
Sau 14 năm làm vua, năm Quý Tỵ 1293, theo truyền thống của nhà
Trần, Nhân Tôn nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái
Thượng Hoàng. Ở ngôi Thái Thượng Hoàng ngài chỉ dạy cho con
được sáu năm thì ngài sắp đặt việc xuất gia. Tháng 10 năm Kỷ
Hợi 1299 Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử, Ðông Triều, Quảng
Ninh.. Ở đây Ngài chuyên cầu tu tập theo hạnh đầu đà lấy hiệu
là Hương Vân Ðại Ðầu Ðà. Sau đó ngài lập Chùa, cất tịnh xá, để
tiếp độ chúng tăng, học tăng tới tham học rất đông. Ngài cũng
đi khắp các nơi để truyền bá thiền tông đồng thời cũng khuyên
dân chúng dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, và dạy
dân chúng tu hành thập thiện. Từ đó trong nhân gian thấm nhuần
pháp vũ của ngài.
-
Ngày 19 tháng 10 năm 1308, ngài sai thị giả Pháp Không lên am
Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến gặp Ngài gấp. Ngày 21 Bảo
Sát đến am Ngọa Vân.
-
Ðến ngày mồng 1 tháng 11 năm 1308, niên hiệu Long Hưng thứ 16
đêm đó trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát:
-
-
Hiện Giờ là giờ gì?
-
Bảo Sát bạch:
-
-
Giờ Tý.
-
Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem và nói:
-
-
Ðến giờ ta đi.
-
Bảo Sát hỏi:
-
-
Tôn đức đi đến chỗ nào?
-
Ngài nói bài kệ:
-
-
Nhất thiết pháp bất sanh
-
Nhất thiết pháp bất diệt
-
Chư Phật thường hiển tiền
-
Hà khứ lai chi liễu dã.
-
Nghĩa là:
-
Tất cả pháp chẳng sanh
-
Tất cả pháp chẳng diệt
-
Nếu hay hiểu như thế
-
Nào có đến đi ấy vậy.
-
Bảo Sát hỏi:
-
-
Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
-
Ngài nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
-
-
Chớ có nói mớ.
-
Nói xong, Ngài nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch. Ngài lưu lại cho
đời những tác phẫm:
-
-
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
-
-
Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập
-
-
Tăng Già Toái Sự
-
-
Thạch Thất Mỵ Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
-
Ngài là Thiền Tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một
phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Xét trên bình diện Triết Học, Trần Nhân Tôn có một vị trí
quan trọng. Ngài là một triết gia lớn của Phật Học Việt Nam và
cũng là người có công đã phát triển nền triết học Phật Giáo
Việt Nam thời Trần đến chỗ rực rỡ và thể hiện đầy đủ trí tuệ
Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư
tưởng triết học Trần Nhân Tôn là tinh thần thực tiễn. Về
phương diện thi sĩ ngài là một người có tâm hồn thanh cao,
phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với
cảnh vật thiên nhiên:
-
-
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
-
Bán vô bán hữu tịch dương biên
-
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
-
Bạch lộ song song phi hạ điền.
-
Nghĩa Là:
-
- Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
-
Bóng chiều man mác có dường không
-
Theo lời kèn mục trâu về hết
-
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
-
Thơ của Trần Nhân Tôn, ngoài vẻ đẹp của một âm
điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị thiền, gợi mở một thế giới
tinh thần thanh khiết. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo
thơ Trần Nhân Tông để lại một tiếng ngân trong đến sâu thẳm.
-
III- Tổng Luận.
-
Nói về đời Trần, có một số người kể cả các nhà nghiên cứu sử
đều có những phê bình, chỉ trích khác nhau, vì đứng trên các
góc độ khác. Trên góc độ thiên kiến hẹp hòi của một con người
chỉ biết phá mà không có tinh thần xây dựng, chỉ biết nói mà
không biết suy nghĩ, chỉ thấy có tội mà không thấy có công với
lịch sử, thì thấy sự việc các vua đời Trần có lỗi là trong
thân tộc gã cưới lẫn nhau, làm mất đi tinh thần đạo đức luân
lý. Nhưng nếu đến với nhà Trần trong tinh thần xây dựng, và
biết nhìn nhà Trần bằng một con mắt độ lượng, bao dung, thì
chúng ta thấy các vị vua Nhà Trần, đặc biệt là các ông vua
Thiền Sư tu hành đạt đạo, rất xứng đáng để chúng ta học hỏi.
Như nói về vua Trần Thái Tông, vào năm 1237, vì Chiêu Thánh
Hoàng Hậu lấy Thái Tông đã 12 năm mà không có con, nên Trần
Thủ Ðộ và Thiên Cực Công Chúa ép nhà vua giáng Chiêu Thánh
xuống làm công chúa, và Thuận Tiên Công Chúa, chị của Chiêu
Thánh, vợ của Trần Liễu đem vào cung. Thấy những việc trái với
đạo lý như thế, nhà vua lấy làm áy náy, nên đang đêm lẻn lên
núi Yên Tử. Sau đó Trần Thủ Ðộ biết được nên cùng thần dân lên
núi Yên Tử cung thỉnh vua hồi cung. Sau khi nghe hai chủ
trương một của Quốc Sư bảo: Phật ở tại tâm, một của Thái Sư
chủ trương lấy thân dẫn đường cho thiên hạ và được thấy mọi
người trong nước không bỏ mình, Thái Tông mới quyết theo con
đường dung hòa hay là vừa nhập thế, vừa xuất thế của Quốc Sư
khuyên nhủ. Quốc Sư đưa ra chủ trương như thế, chẳng qua lúc
bấy giờ là để chiều theo ý muốn của triều đình do Thái Sư đại
diện với một số cố lão, cương quyết mời nhà vua trở về kinh
đô, còn đối với Thái Tông chưa chắc đã thực lòng tin hẳn
thuyết ấy là phải. Giá trị thật hay giả nó còn chờ ở công
trình của sự hành trì. Ðoạn kết của bài tựa Thiền Tông Chỉ
Nam
cho ta thấy biện chứng pháp của Thái Tông để thực nghiệm giả
thuyết chấp trung của Quốc Sư: Trong khi làm phận sự nhập thế
không quên cứu xét tâm linh học, tìm hợp nhất cả tri lẫn hành.
Về hành động nhà vua coi tính mệnh nhẹ tựa lông hồng xông pha
trong mũi tên hòn đạn rất là nguy hiểm như Cương Mục Thông
Giám có chép:
-
-
Tháng 10 mùa Ðông năm 1241 người Thổ, người Mán nhà Tống sang
cướp biên giới. Nhà vua hạ lịnh cho viên đội trưởng là Phạm
Kính Ân đem quân đi đánh tan được. Nhà vua đi tuần ngoài biên
thùy, nhân tiện đi luôn vào đất Tống. Nhà vua đích thân đem
quân chèo thuyền từ trại Vĩnh Bình qua Châu Khâm, Châu Liêm,
tự xưng là trai lang, rồi cắm thuyền trong cõi đất ấy, chỉ đi
bằng mấy chiếc thuyền Kim Phụng, Nhật Quang và Nguyệt Quang.
Ban đầu người châu ấy không biết tình hình như thế nào nên sợ
chạy cả, lúc biết ra , họ mới giăng xích sắt ở giữa giòng sông
để ngăn cản đường thủy. Nhà vua sai nhổ lấy vài chiếc neo bằng
sắt đem về.
-
Một thái độ khác, việc Trần Thủ Ðộ cưỡng bách Thuận Tiên làm
Hoàng Hậu nên Trần Liễu nhóm họp một số binh sĩ nổi loạn ở
sông cái. Nhưng sau đó hai tuần ở ngoài biển, Trần Liễu tự
biết việc mình không thể thành công, nên nhân khi nhà vua du
ngọan ở trên sông, Trần Liễu giả người đánh cá đến gặp nhà vua
xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Hành động của nhà vua
phản đối người chú bỏ vào núi tìm sự thanh tu, với thái độ anh
em ôm nhau mà khóc, cũng đủ chứng minh Thái Tông không có ý
gian tà, tình cốt nhục rất đằm thắm, nhưng ở vào trường hợp
khó xử, đối với quốc phụ, vừa là chú ruột, lại rất đỗi công
lao, một lòng vì nhà Trần, không vì tư lợi riêng của mình,
Thái Tông không thể vì câu nệ tiểu tiết mà hỏng đại chính
nghiệp nước nhà. Sự việc nhà vua không những tha chết cho anh,
mà còn cắt đất cho, chứng tỏ rằng nhà vua rất khoan từ, vì thế
về sau vua Trần Dụ Tông có bài thơ ca ngợi Thái Tông như sau:
-
- Ðường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
-
Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong
-
Kiến Thành tru tử, Yên Sinh tại
-
Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng.
-
Nghĩa là:
-
- Sáng nghiệp Việt Ðường hai Thái Tông
-
Kia xưng Trinh Quán ta Nguyên Phong
-
Kiến Thành bị giết Yên Sinh sống
-
Miếu hiệu như nhau đức chẳng đồng.
-
Ðại ý bài thơ nầy cho chúng ta biết là vào đời Ðường bên Trung
Quốc, sau khi cha là Lý Cao Tổ mất, Lý Thế Dân đã đem quân
phục ở Huyền Võ Môn giết hai người anh là Kiến Thành và Nguyên
Cát, đồng thời Thế Dân cũng lấy vợ của Nguyên Cát. Thế Dân lên
ngôi vua, khai sinh cơ nghiệp nhà Lý, Ðời Ðường, đem lại thanh
bình an lạc cho muôn dân, vì thế nên niên hiệu Trinh Quán của
Lý Thế Dân nhà Ðường còn có biệt danh là Trinh Quán Trí Trị,
là muốn ám chỉ Ðường Thế Dân dùng trí để cai trị dân, vì thế
nhân dân no ấm, quốc gia phú cường. Cùng những sự việc xảy ra
tương tự nhưng Nhà Ðường thì Kiến Thành và Nguyên Cát bị giết
chết, trong khi đó Thái Tông của Ðại Việt thì dung để cho Trần
Liễu còn sống. Ở điểm nầy chúng ta cũng thấy Thái Tông là
người rất nhân hậu, có tinh cởi mở, luôn cầu tiến, sẳn sàng
vượt lên, không cố chấp. Ðó là tinh thần đạo học thực hiện rất
thích hợp với triết lý thiền như Kinh Kim Cương Bát Nhã đã chỉ
bày. Tuy nhiên những nhà Nho viết sử, cũng như một số người
hiện nay theo quan điểm hẹp hòi của luân lý phổ thông, hết sức
chỉ trích Thái Tông là loạn luân, tà dâm, tàn ác. Như thế là
thiếu sự hiểu biết, bất công và hết sức vô lý.
-
Nói về Trần Thủ Ðộ thì chúng ta thấy, mở đầu cho sự nghiệp Nhà
Trần, mặc dầu Trần Thái Tông là vị Vua nhưng nếu không có Trần
Thủ Ðộ, thì chưa hẳn ngôi Vua đến với Nhà Trần. Do đó, có thể
nói, Trần Thủ Ðộ là một nhân vật trụ cột của Triều Trần. Ông
là công thần sáng lập ra Triều Trần, và là người thực tế nắm
quyền lãnh đạo đất nước vào những năm đầu của Triều Trần,
khoảng gần 40 năm(1226-1264). Nhận thấy việc ép Thuận Tiên
Công Chúa vào cung mới nhìn trông có vẻ quá đáng, nhưng nếu
nhìn ông bằng tinh thần nhập thế thì chúng ta sẽ thấy ông là
một con người chỉ biết quốc gia và quyền lợi của quốc gia là
trên hết. Ngô Thời Sĩ một nhà khoa cử Nho, vốn khinh thường
những người thất học, nhưng cũng bình luận về Thủ Ðộ như sau:
-
-
Thủ Ðộ tuy không học vấn gì, nhưng có tài lược hơn người. Thân
làm Tể Tướng, việc gì cũng để ý, vì thế mà giúp vua gầy nên
vương nghiệp, giữ trọn vẹn công danh, vua Thái Tông làm bài
văn bia ở sinh từ trọng một cách đặc biệt.
-
Trần Thủ Ðộ thực sự đại diện cho mẫu người có hành động nhập
thế. Cho nên sau khi ép bức Thái Tông phải phế vợ, lấy chị dâu
có mang ba tháng làm Hoàng Hậu với mục đích là để bảo vệ cơ
nghiệp cho nhà Trần, Thủ Ðộ thấy Thái Tông bỏ kinh thành vào
núi Yên Tử, ông liền đem quần thần đuổi theo. Ðến khi gặp Vua,
Thủ Ðộ thống thiết thỉnh trở về ngôi:
-
-
Thần nhận sự ủy thác của tiên quân, tôn bệ hạ làm chúa thần
dân. Lòng dân trông đợi ở bệ hạ như con nhỏ mong đợi cha mẹ.
Huống nữa ngày nay các cố lão trong triều đều là bề tôi thân
thuộc, dân chúng sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục tùng. Cho đến đứa
bé lên bảy cũng biết bệ hạ là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ bỏ
thần mà đi, nắm đất trên mồ còn chưa khô, lời dặn dò còn vẳng
vẳng bên tai, mà nay bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để
mong thỏa mãn chí mình. Như thần nghỉ, bệ hạ vì mục đích tu
riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì
sao? Ví để lời nói suông mà bảo đời sau thì sao bằng chính
thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ
lại, chúng thần cùng người trong thiên hạ đồng chết ngay hôm
nay, quyết chí không về.
-
Ðoạn văn trên chúng ta thấy cái chí cương quyết nhập thế cực
đoan. Tuy nhiên Thủ Ðộ cũng phân biệt cân nhắc ý chí cá nhân
với đoàn thể mà cho rằng nếu Thái Tông chỉ là một cá nhân
thường thì theo đuổi mục đích tự tu, vào núi ẩn cư để thỏa mãn
cho ý hướng cũng là chính đáng. Nhưng ở đây Thái Tông là người
kế nghiệp Nhà Trần, hiện là vị nhân chủ đang mang trọng trách
lớn lao đối với xã tắc, làm sao có thể tự do theo đuổi ý hướng
của riêng mình được. Vả lại đối với con mắt của nhà nhập thế,
chân lý phải thực tế không mơ hồ lý thuyết, chân lý là làm cho
dân tộc tiến bộ, quốc gia phú cường, đoàn thể hùng mạnh, tự do
độc lập. Thủ Ðộ đặt hết tin tưởng vào quốc gia dân tộc cho nên
cũng rất tự tin, và chính ông cũng đã tuyên bố với Thái Tông,
lúc nha vua đang lo lắng trước làn sóng đầu của quân Mông Cổ
xâm nhập lãnh thổ quốc gia: Ðầu thần còn đây, chưa rơi xuống
đất xin bệ hạ đừng lo. Với tinh thần quốc gia cực đoan ấy, cho
nên ông đã coi nhẹ phương tiện, nghĩa là bất cứ phương tiện
nào cũng tốt miễn được việc, đạt tới mục đích mong muốn. Mục
đích mong muốn của ông là xây dựng cho nhà Trần trở nên một
quốc gia hùng mạnh, một triều đại vững bền. Bởi thế ông bất
chấp Tam Cang Ngủ Thường của Nho Giáo, lúc bấy giờ chưa được
biết nhiều trong xã hội Việt Nam, mà ông là một trong những
người chưa hề học đến. Cho nên tất cả vấn đề đi tìm chân lý
hoặc xuất, hoặc nhập đều viễn vông không thành vấn đề đối với
ông. Ông hành động theo thiên tài tự nhiên, xuất chúng ở đại
chúng, nông dân cần lao. Chỉ tin theo lẽ phổ thông thực tế là
bảo tồn lẽ sống chung cho đoàn thể trước hết, từ gia tộc đến
dân tộc và quốc gia. Ðó là ý nghĩa nhập thế hành động của Trần
Thủ Ðộ, và nếu có triết lý thì đó là cái triết lý bình dân của
nông dân Bắc Việt lúc bấy giờ. Vì tinh thần tích cực đó mà
Trần Thủ Ðộ cũng là nhân vật bị sử thần thời phong kiến chê
trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Ðộ hiện ra như một
quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà
Trần, nhưng lại có tội với Nhà Lý. Tuy nhiên, quốc dân đánh
giá về ông với cái nhìn khác quan điểm Nho Giáo và một số
người không đáng kể có thành kiến thiên lệch về ông. Những
đánh giá đó được bày tỏ trong đền thờ ông, trên đối Lim người
dân có ghi hai câu đối treo trước bàn thờ như sau:
-
- Công đáo vu kim, bất đãn Trần gia nhị bách tải.
-
Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.
-
Tạm Dịch:
-
- Công đức của ông để mãi cho đến ngày nay, không
chỉ bó hẹp trong hai trăm năm của Ðời Trần.
-
Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ
nhất dưới trời Nam.
-
Bàn về vua Trần Nhân Tông, lúc còn là một ông vua, Nhân Tông
đã trở thành sợi dây liên lạc kết chặt lòng dân, lãnh đạo quân
dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc chiến đấu tới
thắng lợi huy hoàng. Có được như vậy là nhờ ở nhà vua có đủ
các đức tính: Khoan, nhân, trí, dũng. Ở điểm nầy chúng ta thấy
các vị vua dưới thời Trần gần như ai cũng có. Ðến khi xuất
gia, cuộc đời của Trúc Lâm cũng là một cuộc đời tích cực. Nói
về khía cạnh của xã hội, ngài đã có một ý định xây dựng nền
hoà bình Chiêm Việt lâu dài. Còn nói về khía cạnh Giáo Hội thì
ngoài những mùa kiết hạ an cư tại các am Tử Tiêu, Ngọa Vân,
Thạch Thất, Tri Kiến hay các Chùa Vĩnh Nghiêm và Siêu Loại,
ngài còn thường vân du hoằng hoá đây đó. Ngài đi đến đâu cũng
được dân chúng ái mộ, khâm phục và lời khuyên của vua có tác
dụng lớn. Thập Thiện chính là giáo lý nhập thế căn bản của Ðạo
Phật, lấy giáo lý Thập Thiện làm cơ bản cho đạo đức xã hội,
Trúc Lâm đã có ý muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng luân
lý Ðạo Phật. Một ông vua con ngồi trên ngôi ủng hộ Phật Giáo,
một ông vua cha làm tăng sĩ chu du trong quần chúng, sự kiện
nầy thật đặc biệt chưa từng có trong lịch sử. Dù có ý thức hay
không, Trúc Lâm cũng đã góp phần vào việc củng cố triều đại và
chế độ bằng những công tác hành đạo tích cực trong nhân gian.
Như thế có thể nói Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật Giáo
nhập thế, liên hệ mật thiết tới chính trị, phong hóa và xã
hội.
-
Qua các văn kiện lịch sử cho chúng ta thấy khá đầy đủ chân
tướng của các vị vua Thiền Sư Nhà Trần, như Trần Thái Tông, và
Trần Nhân Tông. Ðại lược tất cả các sử gia, kể cả những sử gia
có khuynh hướng coi trọng Nho Giáo nhưng đả kích Phật Giáo
cũng đều công nhận các vị vua Thiền Sư của triều đại nhà Trần
là hiền nhân quân tử, văn võ kiêm toàn, là người có đủ khoan,
nhân, có độ lượng của bậc đế vương thật đáng khen.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo:
-
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
-
- Khóa Hư Lục Trần Thái Tông
-
- Thiền Sư Việt Nam
-
- Văn Hóa Việt Nam
-
- Thiền Học Trần Thái Tông
-
- Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
|