-
Triết Lý Căn Bản Của Thiền Học
-
Thông Trí
-
--o0o--
-
-
Bên cạnh cuộc sống vật chất, chúng ta còn thấy cuộc sống tâm
linh cũng là cuộc sống rất cần thiết đối với nhân loại. Tôn
giáo ra dời nhằm thỏa mãn nhu cầu nầy, vì thế mà từ ngàn xưa
cho đến bây giờ lúc nào tôn giáo cũng hiện hữu với con người.
Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm, từng quốc gia địa phưong
mà nhân loại có mỗi sự tín ngưỡng khác nhau. Trong thế giới
loài người, có nhiều loại tôn giáo khác nhau, nhưng cũng không
ngoài hai đại loại: Loại tôn giáo Có Kinh Sách Truyền Tụng, và
loại tôn giáo Không Có Kinh Sách Truyền Tụng. Các tôn giáo
hiện tại như Ấn Ðộ Giáo, Hồi Giáo, Ca Tô Giáo, và Phật Giáo
đều thuộc về loại tôn giáo có kinh sách truyền tụng. Ở đây
chúng tôi muốn nói đến Phật Giáo. Trong Phật Giáo có Ðại Tạng
Kinh làm thánh điển căn bản truyền tụng từ thế hệ nầy sang thế
hệ khác. Nói về Ðại Tạng Kinh, lúc đầu Thánh Ðiển nầy ghi lại
những đức hạnh, lời dạy của Ðức Phật, nhằm mục đích là để
truyền lại cho đời sau. Các đệ tử của ngài dựa vào tinh thần
căn bản của những điều đã ghi chép đó rồi chú thích, giảng
nghĩa, nghị luận, sau nầy trở thành Tam Tạng Thánh Ðiển.
-
I- Quá Trình Hình Thành Tam Tạng Thánh Ðiển.
-
Ðức Phật ra đời vì chúng sanh, cho nên suốt 49 năm thuyết giáo
Ngài không quản ngại khổ khó trên đường đi khắp đó đây để
hướng dẫn nhân quần. Ðương thời ý niệm phân hóa, nguyên nhân
suy tàn đạo giáo, tuy Ðức Phật vẫn thường nhắc nhở cho hàng
môn đệ trong những dịp thuyết pháp, nhưng sự hiện diện của
ngài như một cây cổ thụ vững vàng, vì vậy trong hàng môn đệ
không mấy ai lưu tâm cho lắm. Cũng đương thời trên con đường
truyền bá chánh pháp tuy Ngài có gặp một vài trở ngại về đối
nội cũng như đối ngoại, nhưng với tư cách sáng chói của bậc đã
giác ngộ, tài ba và đức độ của Ngài, nên mọi việc khó khăn rồi
cũng vượt qua.
-
Sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn, có thể nói trên con đường hành
đạo, những chúng sanh chưa có duyên lành gặp gỡ Ngài, quả là
điều vô duyên thiếu phước, đối với hàng tăng già thì đây là
một mất mát lớn lao, mà hiện thời các hàng đệ tử của ngài chưa
có ai đủ tư cách để thay thế địa vị của Ngài, cho nên chỉ
trong vòng 7 ngày, ý thức phân hóa cũng từ đây mà trưởng
thành. Cũng chính từ đây ý thức bảo vệ, và duy trì đạo pháp
cũng được các vị đại đệ tử lưu tâm đến. Những ưu tư khắc
khoải, những thành công thăng hoa sáng chói, cũng như những
suy tàn vỡ vụn của đạo pháp được ghi lại những điểm sau đây.
-
Những Lần Kết Tập Thánh Ðiển Xa Xưa
-
1- Lần Thứ Nhất:
-
Sau Ðức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, trong hàng tăng chúng có
những chánh kiến bất đồng, Ngài Ma Ha Ca Diếp, vị đại đệ tử
của Ðức Phật, và cũng là người được Ðức Phật truyền trao Chánh
Pháp Nhãn Tạng, sợ rằng rồi đây sẽ bị tà thuyết ngoại đạo pha
trộn làm hư hoại chánh pháp. Cho nên khoảng ba, bốn tháng sau
Phật nhập Niết Bàn, Ngài quyết định đề xướng ra cuộc Ðại Hội
để kết tập kinh điển, trùng tuyên lại những lời giáo hóa của
Ðức Phật. Ðại Hội kết tập nầy được Vua A Xà Thế, quốc vương
nước Ma Kiệt Ðà hết lòng ủng hộ, nhà vua ra lịnh cho người xây
cất Tịnh Xá ở hang Thất La Diệp để làm đạo tràng kết tập. Ðại
hội nầy do ngài Ca Diếp làm thượng thủ, với sự có mặt của 500
vị đã chứng quả A La Hán. Ngài A Nan giữ trách nhiệm việc
trùng tuyên Kinh Tạng, ngài Ưu Ba Ly giữ việc trùng tuyên Luật
tạng. Ngài Phú Lầu Na giữ việc trùng tuyên Luận Tạng. Ðại hội
làm việc suốt 7 tháng liên tiếp. Theo sử liệu cho biết, lần
kết tập nầy không có ghi chép gì cả, mà chỉ hợp tụng tất cả
những gì Ðức Phật đã tuyên thuyết trong suốt 49 năm truyền
đạo. Lần kết tập lần nầy gọi là Vương Xá Thành Kết Tập, hay
còn gọ là Ngũ Bách Kết Tập.
-
2- Lần Thứ Hai:
-
Sau Ðức Phật nhập Niết Bàn khoảng 100 năm, trong hàng đại
chúng có các Tỳ Kheo xuất thân từ dòng họ Tỳ Xá Ly, thuộc phe
Ðông Bộ đề xướng ra 10 hành vi, mà các vị ấy cho rằng thích
hợp với giới luật của các Tỳ Kheo. Chúng ta nên biết rằng các
hàng Tỳ Kheo thuộc phe Ðông Bộ là những vị chủ trương tự do
giải thích, nên 10 điều đề ra thì các vị ấy tán thành ngay.
Mười điều như sau.
-
01- Diêm Tịnh: Căn cứ vào giới luật, các Tỳ Kheo không được để
đồ ăn cách đêm. Nghĩa là các thứ đồ ăn phổ thông, không được
để đến ngày hôm sau rồi ăn lại, nhưng nếu đồ ăn đem ướp muối,
thì vẫn có thể dùng ở ngay ngày hôm sau.
-
02- Chỉ Tịnh: Về bửa ăn các Tỳ Kheo phải dùng bữa vào lúc
chính ngọ, nhưng nếu lúc đang đi giữa đường, thì bữa ăn có thể
dùng ở quá ngọ một chút, nghĩa là lúc mặt trời xế bóng.
-
03- Tụ Lạc Gian Tịnh: Tỳ Kheo sau khi ăn rồi, nhưng nếu ở giờ
ngọ, tới tụ lạc khác, xin được thức ăn vẫn có thể được thọ
dụng.
-
04- Trụ Xứ Tịnh: Một tháng hai kỳ, các Tỳ Kheo phải tụ tập ở
một trụ xứ nào đó để làm lễ bố tát. Nếu trụ xứ quá hẹp có thể
được phân chia làm hai nơi để làm lễ bố tát.
-
05- Tùy Ý Tịnh: Nghị quyết của đoàn thể xuất gia, cần phải
toàn viện tụ tập để giải quyết, nhưng nếu trường hợp không thể
xuất tịch, sau khi giáo đoàn quyết nghị, sẽ có thể đem những
nghị quyết đó thông báo sau.
-
06- Cửu Trụ Tịnh: Có thể noi theo vào tiền lệ,
nghĩa là theo vào những thể lệ người trước đã làm.
-
07- Sinh Hòa Hợp Tịnh: Sau giờ ngọ Tỳ Kheo không
được ăn phi thời, nhưng có thể dùng nước hòa với sữa, không
cần phải để sữa lắng xuống.
-
08- Bất Ích Lũ Ni Sư Ðàm Tịnh: Tọa cụ của các Tỳ
Kheo, kích thước bề dài bề rộng phải theo đúng như quy định
trong giới luật, nhưng nếu là tọa cụ có viền chung quanh, thì
có thể dùng quá khuôn khổ quy định.
-
09- Thủy Tịnh: Tỳ Kheo không được uống rượu, nhưng
vì trường hợp bệnh hoạn, dùng để làm thuốc, có thể pha lẫn với
nước để uống.
-
10- Tịnh tài: Tỳ Kheo vốn không được cầm giử tiền,
nhưng nếu trường hợp bất đắc dĩ, có thể cầm tiền, và có thể
giữ tiền bạc.
-
Những điều luật được sửa đổi như trên, theo quan
niệm xa xưa công tâm mà nói, nếu đứng trên phương diện khắt
khe của giới luật thì là phạm, nhưng về mặt cởi mở để áp dụng
vào cuộc sống hiện đại thì không có gì quá đáng. Trong khi ở
phương Ðông các vị Tỳ Kheo chấp nhận mười điều như vật, thì ở
phương Tây, cũng trong dịp nầy, Trưởng Lão Da Sá, một học giả
tinh thông giới luật trong dịp du hành tới thành Phệ Xá Ly,
ngài biết được mười chủ trương mới của các Tỳ Kheo thuộc phe
Ðông Bộ ngài nghĩ rằng đây là dấu hiệu suy tàn của Phật Pháp,
cho nên ngài bày tỏ thái độ, và yêu cầu các Tỳ Kheo thuộc phe
Ðông Bộ nên sớm hủy bỏ 10 điều luật mới. Các Tỳ Kheo Phương
Ðông cho rằng đây là việc làm có tính cách xỉ nhục đại chúng,
nên họ bắt buộc Trưởng Lão Da Sá phải sám hối với đại chúng.
Trưởng Lão Da Sá cảm thấy mình không thể ở đây lâu hơn nữa,
nên ngài bỏ đi vào thành và công bố 10 điều phi pháp của phe
Ðông Bộ. Sau đó ngài trở về phương tây và mang theo bên mình
mối ưu tư cho tiền đồ Phật pháp, cho nên ngài quyết định đi
vận động các Trưỡng Lão khắp các nơi để giải quyết 10 điều
luật mới của phe Ðông Bộ. Ðể ngõ hầu ngăn chận những đổ vỡ sẽ
đem lại cho hậu thế.
-
Trước hết ngài đến thành Kiều Thưởng Di ở phương
tây và phái các sứ giả đến các địa phương như: Ma Thâu La, và
A Bà Ðề để cầu thỉnh các bậc Trưỡng Lão, và chính ngài đi đến
núi Ahoganga tham kiến Trưởng lão Tam Phù Ðà, tới địa phương
Xa Ha Xa Ðề để gặp Trưởng Lão Ly Bà Ða, tất cả những vị nầy
đều tán đồng ý kiến của của Ngài Da Sá, nên tất cả cùng đi đến
thành Phệ Xá Ly, ở đây một số Trưởng Lão địa phương cũng được
mời tham dự. Như vậy kễ cả Phương Ðông lẫn Phương Tây có tất
cả là 1200 vị Trưởng Lão được mời tham dự đại hội, tuy nhiên
trong số các vị Trưởng Lão đó chỉ có 700 vị Trưởng Lão lão
thành mới được quyền biểu quyết, trong đại hội nầy đặt dưới
quyền chủ tọa của Ngài Ly Bà Ða. Sau khi biểu quyết, tất cả
các Trưỡng Lão có mặt trong hội nghị đều cho là 10 điều do các
vị Tỳ Kheo thuộc phe Ðông Bộ đề xướng là phi pháp. Trong khi
đó các Tỳ Kheo thuộc phe Ðông Bộ không phục tùng đại hội do
Trưỡng Lão Ly Bà Ða làm chủ tọa, vì họ cho rằng bộ phái Phương
Tây đi ngược lại tinh thần cấp tiến của mọi người, nên cùng
nhau hội họp tại thành Vajji dưới quyền chủ tọa của Ðại Ðức
Vajiputta cũng để kết tập kinh điển. Tất cả đại biểu đều chấp
thuận có thể sửa đổi giới luật để thích hợp với thời đại theo
tinh thần Phật dạy khi Ngài còn tại thế. Hội nghị nầy còn gọi
là Ðại Chúng Kết Tập. Nội dung kết tập của Ðại Chúng Bộ là
Kinh Tạng, Luật Tạng, Ðại Pháp Tạng, Tạp Tạng, và Bồ Tát Tạng.
Như thế Ðại Chúng Bộ cho ra đời trong kỳ kết tập lần đầu tiên
trong đại hội của Ðại Chúng Bộ là Ngũ Tạng Giáo Ðiển.
-
Phái do ngài Da Sá triệu tập và y theo truyền
thống như khi Ðức Phật còn tại thế thì gọi là Nguyên Thủy hay
còn gọi là Thượng Tọa Bộ, như vậy trong kỳ kết tập kinh điển
lần thứ hai nầy, theo hệ phái do ngài Ly Bà Ða chủ tọa thì
trọng tâm là giải quyết về giới luật chớ không phải kết tập
kinh điển. Trong khi đó hệ phái do ngài Vajjiputta chủ tọa thì
gọi là Ðại Thừa hay còn gọi là Ðại Chúng Bộ, đại hội kỳ nầy là
công bố 10 điều cấp tiến và Kết tập Kinh Ðiển. Từ đây Phật
Giáo chia thành hai bộ phái rõ rệt.
-
3- Lần Thứ Ba
-
Như chúng ta biết, thời kỳ trước đức Phật xuất
thế, văn hóa Ấn Ðộ cũng đã phát triển đến mức độ khá cao, phần
lớn đều ảnh hưởng tư tưởng sáng tạo của người Aryan, và sau đó
trải qua các thời kỳ tư tưởng Rg Vệ Ðà, Brahmana và Upanishad,
nhưng tất cả đều dựa trên tư tưởng cơ bản của Bà La Môn. Từ
khi Ðức Phật xuất thế thì thế lực cũng như tư tưởng cuả Bà la
Môn ngày một sút kém, chính vì sự mất địa vị trong xã hội như
vậy nên Bà La Môn giáo lúc nào cũng muốn khôi phục lại địa vị
của họ, nhưng với ý chí dai dẳng, người Bà La Môn lúc nào cũng
nung nấu trong lòng ý đồ khôi phục. Nên sau khi Ðức Phật nhập
Niết Bàn, và nhận dịp có sự phân hóa giáo đoàn, vì thế người
Bà La môn lợi dụng cơ hội tốt nầy trà trộn vào hàng ngũ tăng
chúng để họat động. Họ trá hình làm tăng sĩ nhưng tâm luôn
hướng về đạo Bà La Môn, gây nhiều điều nghi kỵ phân tán trong
hàng thánh chúng. Vua A Dục là một phật tử thuần thành, thấy
thế ông rất lo ngại cho tiền đồ đạo pháp, nên ông quyết ý minh
xét lại giáo nghĩa của đức Thế Tôn. Nhà Vua phái sử giả đến
núi Ahoganga cung thỉnh ngài Mục Kiền Liên Ðế Tu, ngài Ðế Tu
vâng sắc vua, lập tức tuyển bạc 1000 người trong tăng chúng
tập họp tại thành Hoa Thị để kết tập kinh điển. Hội nghị đặt
dưới quyền chủ tọa của ngài Ðế Tu. Chư thánh chúng làm việc
ròng rã 9 tháng thì hoàn thành. Nội dung kết tập kỳ nầy đại
hội cho ra đời ba tạng kinh điển đó là: Kinh, Luật, và Luận
Tạng. Trong dịp nầy nhà vua cũng đã loại bớt một số ngọai đạo
Bà La Môn đội lốt Phật Giáo để gây chia rẻ, phân hóa trong
hàng thánh chúng.
-
Vua A Dục là một vị vua rất sùng đạo và hộ giáo,
nên trong lúc còn tại vị, nhà vua đã gởi những phái đoàn Phật
Giáo đi hoằng đạo ở các nước khác. Việc làm hy hữu nầy đã gây
một ảnh hưởng lớn lao đối với thế giới lúc bấy giờ.
-
4- Lần Thứ Tư
-
Sau vua A Dục khoảng 300 năm(sau Phật nhập Niết Bàn khoảng 600
năm) Phật Giáo lại được sự ủng hộ của vua Kaniskia, chính vị
vua nầy đã mở ra một đường lối truyền đạo đến Ðông Phương.
Tưởng cũng cần nói rõ thêm, vua Kaniskia tuy là tín đồ Phật
Giáo nhưng trong tâm tư lại đặt trọn vẹn niềm tin về giáo phái
Hữu Bộ, là một trong những giáo phái của Phật Giáo thời bấy
giờ. Theo truyền thuyết, nhà vua thường cung thỉnh chư tăng
vào cung để nghe thuyết pháp, và chính mình tự duyệt lãm các
kinh điển. Nhà vua thấy chư tăng giải thích giáo nghĩa không
giống nhau, nên nhà vua đem những điều thấy nghe bạch lại với
Hiếp Tôn Giả, Hiếp Tôn Giả là một vị trưởng lão đạo cao đức
trọng thời bấy giờ. Ngài Hiếp Tôn Giả giải thích cho nhà vua
rõ, vì có nhiều bộ phái khác nhau, nên giáo nghĩa của mỗi bộ
phái cũng có những điểm không đồng. Nghe nó thế, nhà vua có ý
nghĩ cần phải thống nhất Phật nghĩa của các bộ phái. Vì thế
trước hết nhà vua hạ chiếu triệu tập tất cả các học giả Phật
Giáo trong nước, và tuyển chọn 500 vị đạo cao đức trọng, tinh
thông Tam Tạng Kinh Ðiển. Ðịa điểm đại hội là Tịnh Xá Kỳ Hoàn
Lâm, thuộc nước Kasmitra.
-
Kỳ kết tập nầy do ngài Thế Hữu làm thượng thủ, bên cạnh có Ðại
Ðức Pháp Cứu, Ðại Ðức Giác Thiên, và Hiếp Tôn giả. Kết quả kỳ
kết tập nầy là 10 vạn bài tụng Kinh, 10 vạn bài tụng Luật, và
10 vạn bài tụng Luận. Tổng cộng là 30 vạn bài tụng, trong đó
bao gồm 660 vạn lời. Tất cả những Kinh, Luật, và Luận Tạng
trong kỳ kết tập nầy được nhà vua ghi khắc trên bản đồng. Như
vậy tính từ thời gian chuẩn bị cho công cuộc kết tập cho đến
khi hoàn mãn, trước và sau tất cả 12 năm mới hoàn thành Tam
Tạng Thánh Ðiển. Sau đó nhà vua cho xây bảo tháp lớn để tôn
thờ, đồng thời cắt đặc người canh giữ hộ vệ để ngăn ngừa người
ngoại đạo trà trộn vào. Nếu ai muốn học hỏi nghiên cứu, thì
chỉ được ngồi tại chỗ trong bảo tháp xem chớ không được mang
ra ngoài.
-
Ngoài bốn lần kết tập kinh điển xa xưa như đã trình bày ở
trên, còn có những kỳ kết tập kinh điển cận đại gắn liền với
phong tràn chấn hưng Phật Giáo. Vì trang giấy có hạn nên chúng
tôi không trình bày ở đây.
-
II- Nội Dung Tam Tạng Thánh Ðiển
-
1- Kinh Tạng: Ghi lại những lời giảng dạy của đức Phật. Kinh
Tạng Tiếng phạn gọi là Sùtrapịtaka, chữ Sùtra nói theo phong
tục của ngườỉ Ấn Ðộ có ý là dùng các sợi chỉ xâu kết thành
những tràng hoa. Nhưng đối với Phật Giáo chữ Sùtra là lời
giảng dạy của Ðức Phật, thâm ý bao trùm tất cả những chân lý
của vũ trụ. Ý tứ liên lạc quán xuyến ngang dọc, trước sau như
thật không thay đổi theo thời gian, không gian, quốc độ, vì
thế những bậc cổ đức dùng chữ Sùtra là Kinh Tạng. Cũng có
nghĩa là Khế Kinh nghĩa là giáo lý của chư Phật, tùy theo mỗi
cá tính, trình độ của con người để khế hợp với căn cơ của mỗi
chúng sanh.
-
2- Luật Tạng: Là những giới cấm mà đức phật quy định ra dể
hướng dẫn hàng đệ tử của ngài trên con đường tu tập. Luật Tạng
tiếng phạn gọi là Vinayapịtaka. Chữ Vinaya có nghĩa là diệt
trừ, muốn nói rằng các hàng đệ tử của ngài những ai tuân theo
giới luật nầy, chắc chắn cá nhân đó sẽ diệt trừ được mọi việc
lỗi lầm do lời nói, ý nghĩ và hành động gây ra. Giới điều của
Ðức Phật không giống như giáo điều của những tôn giáo khác.
Cũng không giống như những luật lệ của một quốc gia trong thế
gian, nhưng nếu một cá nhân nào có ý thức, và biết hành trì
đúng mức thì hiệu năng cũng không thua kém bất cứ một luật tắc
nào trong thế gian. Vì thế Luật Tạng còn có nghĩa là Thiện
Trị, nghĩa là trị được những điều quấy ác của chúng sanh bằng
lý trí, tự chính mình quyết đoán tội hoặc phước.
-
3- Luận Tạng: Là những sách vở, những bài thuyết pháp do các
vị Bồ Tát, những vị Tỳ Kheo trứ thuật và ghi chú những nghĩa
lý mầu nhiệm do Ðức Phật đã dạy trong Kinh, và Luật. Và bàn
luận các vấn đề triết lý, tư tưởng tâm lý, cùng những vấn đề
siêu hình khác. Ðồng thời nêu rõ Thể Tánh, Sự Tướng của các
pháp, những đạo lý nghiên cứu về sự vật, phân biệt chánh tà,
nhằm mục đích hiển lộ chân lý. Luận tạng tiếng phạn gọi là
Abhidharmapịtaka. Abhi dịch là Ðối. Ðối có hai nghĩa là Ðối
Hướng, và Ðối Quán. Dharma dịch là Pháp thì có Niết Bàn, Tứ
Ðế. Nói cho trọn nghĩa là: Ðối Hướng Niết Bàn, Ðối Quán Tứ Ðế.
Nói một cách khác do quán lý Tứ Ðế mà được cảnh Niết Bàn. Một
khi biết quán sát Tứ Ðế thì không có phiền não, được vô lậu
chánh trí, cho nên Ðối Pháp là nơi cuối cùng đạt được vô lậu
chánh trí. Nghĩa là giác ngộ thì phải phát huy vô lậu chánh
trí, muốn phát huy vô lậu chánh trí thì phải mượn pháp quán Tứ
Ðế. Như vậy Ðối Pháp là chỉ bày, có nghĩa là đối với những lời
đức phật dạy trong kinh điển mỗi mỗi đều khảo sát, luận bình
để cho ý nghĩa thêm tỏ rõ tường tận. Tạng Luận thâu nhiếp các
chánh lý, hàng Bồ Tát dễ nhận định thấu đáo. Phát huy nghĩa lý
trong kinh, dạy bảo phương pháp nghị luận cho học đồ thâu thập
được lời chỉ giáo ấy. Nhờ đó quán sát những nghĩa lý sâu xa,
phát sanh trí tuệ, rồi họ y cứ theo phương pháp nầy tu hành,
để vượt khỏi biển khổ sanh tử đạt đến cảnh giới không sanh
không diệt.
-
Nguyên thỉ Ba Tạng Thánh Ðiển được ghi chép bằng tiếng
Sanckrit và Pali.
-
A- Ðại Tạng Kinh Pali
-
1- Kinh Tạng:
-
- Trùng A Hàm
-
- Trung A Hàm
-
- Tạp A Hàm
-
- Tăng Nhất A Hàm
-
- Tiểu A Hàm
-
Trong Tiểu A Hàm gòm có 15 quyển nhỏ:
-
- Nghĩa Thích
-
-
Kinh Tập
-
-
Trưởng Lão Kệ
-
-
Trưởng Lão Ni Kệ
-
-
Tự Thuyết
-
- Pháp Cú Kinh
-
- Tiểu Bộ Tập
-
- Như Thị Ngữ
-
- Thiên Cung Sự
-
- Ngã Quỷ Sự
-
- Bản Sinh
-
- Thí Dụ
-
- Vô Ngại Giải Ðao
-
- Sở Hành Tạng
-
- Phật Sự.
-
2- Luật Tạng
-
- Căn Bản Giới
-
- Tiểu Giới
-
- Phương Pháp Yết Ma và Truyền Giới
-
- Ðại Phẩm
-
- Tiểu Phẩm
-
3- Luận Tạng
-
- Pháp Tụ
-
- Phân Biệt
-
- Giới Thuyết
-
- Nhân Thi Thiết
-
- Biện Giải
-
- Song Luận
-
- Phát Thú
-
B-
Ðại Tạng Kinh Sanskrit
-
1- Kinh Tạng
-
- Diệu Pháp Liên Hoa
-
- Hoa Nghiêm
-
- Bát Nhã
-
- Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
-
- Lăng Già
-
- Viên Giác
-
- Ðại Bảo Tích
-
- Tam Muội
-
- Vô Lượng Thọ
-
- Kim Cương
-
- Niết Bàn
-
2- Luật Tạng
-
- Ðại Giới Bản
-
- Bồ Tát Giới
-
3- Luận Tạng
-
- Bát Nhã
-
- Nhiếp Ðại Thừa
-
- Tam Luận Tông
-
- Du Già Sư Ðịa
-
- Thập Ðịa Kinh
-
- Câu Xá
-
- Thành Thật
-
- Tỳ Bà Sa
-
- A Tỳ Ðàm
-
- Pháp Uẩn Túc
-
- Quán Sở Duyên
-
- Ðại Thừa Khởi Tín
-
- Thành Duy Thức
-
Kinh điển đạo Phật như chúng ta biết, ngoài hai thể văn Pali,
và Sanskrit, hiện nay các quốc gia như
Trung Hoa,
Nhật bản, Tây Tạng, Tích Lan, Miến Ðiện..v..v.. cũng đã dịch
ra ngôn ngữ của mỗi quốc gia đó để làm tài liệu quý giá để tìm
hiểu hệ thống tư tưởng và nền triết học sâu xa của Ðạo Phật.
-
Nói tóm lại nền triết đạo căn bản của Phật Giáo là các giáo
pháp của Hai Thừa, Ba Tạng, Ba Thừa, Năm Thừa, Chín Bộ, hay 12
Phần Giáo, nói rộng ra là có tới 84,000 pháp môn. Triết thuyết
Phật Giáo là một nền giáo lý hoàn toàn xây dựng trên lý trí
con người, mang tính chất vừa cao thượng vừa sâu sắc bao trùm
cả pháp thế gian và xuất thế gian. Một cách khác giáo lý của
Phật Giáo quá bao la rộng lớn, pháp vị hoằng thâm và bao trùm
tất cả các triết thuyết từ ngàn xưa cho đến bây giờ. Các nhà
hiền triết ở Ðông Phương cũng như Tây Phương đều công nhận như
thế, cũng vì vậy mà những tín đồ của các tôn giáo như là: Ca
Tô Giáo, Tin Lành Giáo, Khổng Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Ấn
Ðộ Giáo bằng trực tiếp hay gián tiếp ai ai cũng đều quay về
tìm hiểu, nương tựa với cơ sở triết học của Phật Giáo. Tam
Tạng Thánh Ðiển của Phật Giáo có thể nói là một kho tàng văn
hóa chứa đựng rất nhiều kinh sách. Nội dung của Tam Tạng Thánh
Ðiển Phật Giáo, ngoài tính cách chứa đựng một hệ thống triết
lý tôn giáo, còn có một đặc điểm quan trọng khác, đó là chứa
đựng một kho tàng về văn hóa, học thuật, tư tưởng của Ðông
Phương rất dồi dào phong phú.
-
III- Các Kinh Sách Căn Bản Của Thiền Học
-
Như chúng ta biết, sự đối lập giáo hội là do 10
điều giới cấm, nương vào tân thuyết của ngài Ðại Thiên mà đối
lập giáo lý. Kể từ đó khuynh hướng cấp tiến càng ngày càng
phát triển một cách mãnh liệt, nhưng tựu trung vẫn bắt nguồn
từ hai trường phái căn bản: Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ.
Theo Nam và Bắc Truyền thì ở khoảng Ðức Thích Tôn nhập Niết
Bàn khoảng 100-200 năm có sự phân phái của Ðại Chúng Bộ, và
trong thời gian sau 200-300 năm có sự phân chia của Thượng Tọa
Bộ. Sự phân chia nầy kết quả bên Ðại Chúng Bộ có khoảng 9 bộ
phái, và bên Thượng Tọa Bộ có khoảng 11 bộ phái khác nhau.
Tổng cộng có tất cả là 20 bộ phái cả Thượng Tọa Bộ lẫn Ðại
Chúng Bộ. Nói về sự phân chia đó có các nhà nghiên cứu sử học
nhận định:
-
-
Có sự phân phái như vậy là vì những vị đệ tử xuất chúng của
Ðức Phật muốn cho giáo pháp được phổ cập trong lòng mọi người
nên mới nương vào giáo Pháp của Phật để phán đoán, phân loại
và tổ chức thành từng bộ môn, trường phái khác nhau, để cho
người đời sau thấy mình có nhân duyên nào thì tùy thuận với
nhân duyên ấy mà tu tập. Ngoài ra, mục đích của sự phán giáo
còn là đề cao giáo pháp của Ðức Phật bằng cách phân loại kinh
điển thành từng bộ loại, từ hệ thống một, rồi tổ chức quy
hướng về những bộ loại kinh điển ấy về với thâm ý của đức
Phật. Ðồng thời phán giáo còn mục đích khác là đề cao những
kinh điển mình đang tín phụng, nêu tỏ địa vị ưu tú của chủ
trương, của đường lối mà mình đang thực hành theo. Ðó là
nguyên nhân chính trong sự tổ chức Phật Giáo thành nhiều tôn
phái. Về sau, cũng trong tinh thần nầy, Phật Giáo của Ðại
Chúng Bộ truyền sang Trung Quốc, ở đây mười tông khác nhau
cũng lần lượt xuất hiện tại Trung Hoa. Một trong mười tôn phái
đó có Thiền Tôn.
-
Như chúng ta đã biết giáo pháp đều do Ðức Phật nói
ra, nhưng tùy theo lập trường và phương pháp tu tập khác nhau,
nên có bộ phái thì y cứ vào kinh sách và công nhận giá trị
tuyệt đối của kinh sách, trong khi đó có những bộ phái khác
thì không. Thiền Tôn là một trong các bộ phái vừa y cứ vào
kinh điển nhưng cũng vừa phủ nhận giá trị tuyệt đối của văn
tự. Theo quan niệm của Thiền thì văn tự và ngôn ngữ là những
hình thức, những phương tiện để diễn tả tư tưởng, biểu hiện
những khái niệm trừu tượng của tâm linh. Như vậy tư tưởng và
khái niệm của một con người được người khác biết đến là nhờ sự
diễn tả nơi văn tự và ngôn ngữ. Tuy nhiên còn có những cái
trong tư tưởng, trong khái niệm mà văn tự và ngôn ngữ không
thể diễn tả được, hay chỉ diễn tả một phần nào mà thôi. Vì thế
có thể nói văn tự và ngôn ngữ không có những giá trị tuyệt
đối. Ðối với Thiền, văn tự và ngôn ngữ chỉ là những đối tượng
như ngón tay chỉ mặt trăng, như đò đưa người qua sông mà thôi.
Vì thế không thể cố chấp nơi văn tự và ngôn ngữ, mà phải rời
nó ra để tìm chân lý. Từ đó chúng ta không lạ khi thấy chủ
trương triết lý quan trọng của Thiền là Không Lập Văn Tự.
Không lập văn tự tức là không quan niệm văn tự trong kinh điển
là những vật tuyệt đối, là mục đích cuối cùng của con đường đi
tìm chân lý. Nhưng cũng nên nhớ rằng: Không Lập Văn Tự chứ
không phải nói là Không Dùng Văn Tự, vì thế trong phái Thiền
cũng có những kinh điển đọc tụng hằng ngày như:
-
- Kinh Lăng Già
-
- Kinh Viên Giác
-
- Kinh Lăng Nghiêm
-
- Kinh Pháp Bảo Ðàn
-
- Ðại Thừa Chỉ Quán
-
- Tiểu Chỉ Quán
-
- Ðồng Môn Chỉ Quán
-
- Lục Diệu Pháp Môn
-
- Kinh Kim Cang
-
- Truyền Ðăng Lục
-
- Thiền Gia Ngữ Lục
-
- Tọa Thiền Chỉ Nam
-
- Tông Cảnh Lục của Diên Thọ Thiền Sư
-
- Luận Ðại Thừa Khởi Tín của Bồ Tát Mã Minh
-
-
Vô Môn Quan của Tôn Thiện Thiền Sư
-
- Bích Nham Lục của Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư
-
- Thung Dung Lục của Vạn Tùng Lão Nhân.
-
-
Chứng Ðạo Ca của Huyền Giác Thiền Sư
-
-
Thiền Tôn Chỉ
Nam
của vua Trần Thái Tôn
-
Trường phái Thiền tuy đọc tụng kinh sách nhưng
không bao giờ chấp trước trái lại chỉ chú trọng đến phần thể
đắc. Bởi vì theo quan điểm của Thiền Tôn cho rằng: Theo văn tự
mà liễu ngộ là người kém khí lực, người nhân nơi sự mà liễu
ngộ mới thật là đạt ngộ đến chỗ tận cùng nguyên lý của vạn
pháp.
-
iv- Giá Trị Ðộc Ðáo Của Thiền Tôn
-
Thiền Tôn là Tôn phái chủ trương không lâp văn tự,
nên trong Thiền không có sự phán giáo. Phương pháp truyền đạo
của Thiền là Giáo Ngoại Biệt Truyền. Giáo ngoại biệt truyền
tức là không căn cứ vào sự phán giáo, không áp dụng theo một
phương pháp riêng biệt để truyền thừa chân lý Phật Giáo. Thiền
tuy không nương vào sự phán giáo, nhưng không phủ nhận giá trị
của sự phán giáo. Thiền chỉ phủ nhận quan niệm cho sự phán
giáo là chân Phật Giáo mà thôi. Ngoài ra Thiền còn phủ nhận
luôn cả quan niệm cho Thiền là tuyệt đối, là chân Phật Pháp
nữa. Nói một cách khác, đường lối tu tập của Thiền là phá trừ
chấp trước, phủ nhận ngoại cảnh và hướng về nội tâm.
-
Nét độc đáo khác của Thiền chủ trương: Tâm là
Phật. Trong Kinh Niết Bàn có câu: Tất Cả Chúng Sanh Ðều Có
Phật Tánh là phương ngôn, là câu nói đầu của Thiền. Trong tâm
của tất cả mọi người ai cũng có Phật Tánh, vì thế chỉ cần phát
huy Phật Tánh ấy chớ không cần đi tìm cầu bên ngoài. Phật Tánh
ấy Thiền Tôn thường gọi là Chân Tánh hay Linh Tánh, hay cũng
thường gọi là Như Lai Tạng. Như Lai Tạng gồm có ba nghĩa:
-
1- Sở Nhiếp Tạng: Có nghĩa là đức tánh Như Lai hàm chứa trong
tâm tánh của mỗi chúng sanh.
-
2- Ẩn Phú Tạng: Có nghĩa là các phiền não ô nhiễm
thường che dấu đức tánh Như Lai không cho hiển hiện.
-
3- Năng Nhiếp Tạng: Có nghĩa là Tâm trí của chúng
sanh có khả năng thâu dụng tất cả công đức trí huệ của Như
Lai.
-
Thông thường muốn cho Phật Tánh hiển hiện thì ta
cần phải trải qua một thời gian tu tập, tùy theo sự tu tập của
mình tinh tấn hay giải đãi thì Phật tánh cũng theo đó mà hiển
hiện. Tuy nhiên, Thiền Tôn không chủ trương phải tu dông dài
như thế bởi vì Thiền chú trọng ở chỗ trực ngộ, vì thế phương
pháp hành trì của Thiền là dùng phương pháp đặc thù để trực
tiếp chỉ bày tâm tánh cho người cầu đạo và người cầu đạo tự
mình dùng trí để quán sát, để thấu triệt lấy tâm tánh của
mình, dùng định để trực ngộ. Một khi trí tuệ và thiền định
được phát triển, tức chơn tánh được hiển hiện và thành phật.
Vì thế lời dạy của đức Phật mặc dầu rất nhẹ nhàng, nhưng cũng
tựa như sấm sét để minh định yếu chỉ của Thiền Tôn: Lấy Tâm
Truyền Tâm, Không Lập Văn Tự, Trực Chỉ nhân Tâm, Kiến Tánh
Thành Phật là vì vậy.
-
Như thế, Thiền là phương pháp đưa chúng ta trở về
con người thật của mình, bằng cách là quán chiếu thân của mình
do bốn đại, hoặc bảy đại mà tạo thành. Tâm do phiền não trần
lao mà sinh khởi. Cho nên cả thân lẫn tâm không thật có, vì
thế nếu chấp vào thân và tâm huyển mộng, và theo đuổi nó để
rồi chịu đau khổ với nó, tức là đi ngược lại với bản tánh sẳn
có của mình. Ðó cũng là lý do Thiền luôn luôn khuyến khích
hành giả đừng nên phí thì giờ để bàn cãi tranh luận trong ngôn
từ, mà chỉ khuyến khích hành giả sớm ý thức quay về tự tâm,
nhìn thẳng vào bản lai diện mục của chính mình.
-
Tóm lại, Triết lý căn bản của Thiền là: Lấy Tâm
Truyền Tâm, Không Lập Văn Tự, Giáo Ngoại Biệt Truyền, Trực Chỉ
Nhân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật. Tuy nhiên theo ngài Ðạo Nguyên
Thiền Sư nói đó cũng chưa phải là gia nghiệp của phật pháp.
Trong bộ Vĩnh Bình Quảng Lục có viết:
-
-
Tức Tâm tức Phật là cuồng phong, trực chỉ chân tâm cũng là
cách xa như trời vực.
-
Lời nói của ngài Ðạo Nguyên cho chúng ta thấy: Chủ đích của
Thiền là đả phá tất cả, cởi mở tất cả những sự ràng buộc bởi
phiền não và cố chấp, và thực hành theo phương pháp trực ngộ,
nghĩa là tức thời thành Phật, bởi vì tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh, tức Tâm là Phật. Ðó là tư tưởng đặc thù của triết
lý Thiền, chúng ta không thể tìm thấy ở các tôn giáo khác,
cũng không tìm thấy trong các tôn phái khác của Phật Giáo.
Trên phương diện lý thuyết là như vậy, nhưng khi thực hành,
chúng ta cũng cần phải có nhiều công phu tu tập mới có thể
liễu ngộ, và thâm nhập được triết lý căn bản nầy một cách rốt
ráo.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo:
-
-
Phật Học Tinh Hoa
-
-
Kinh Lăng Già
-
-
Phật Học Phổ Thông
-
-
Tổ Thiền Tông
-
-
Triết Học Zen
-
-
Lược Luận Câu Xá Luận
|