Những Vị Vua Phật Giáo
Tác Giả: D. C Ahir
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
--o0o--
  
1- ASOKA (VUA A DỤC)
          Bất bạo động là một trong những nguyên lý chính của Ðạo Phật, và chúng ta thấy rõ ràng rằng Phật Giáo cũng đã đạt được sức mạnh chính trị qua tinh thần bất bạo động. Ðiều này xảy ra với xự quy y của vua Asoka (A Dục), cháu của vua Chandragupta (Chiên Ðà La Quật Ða), người dựng nên Vương Triều Maurya (Khổng Tước) vào năm 322 trước Tây Lịch sau khi đánh bại vị vua Nanda cuối cùng của nước Magadha (Ma Kiệt Ðà). Về sau Chandragupta mở rộng lãnh thổ ra bốn phương, và đến khi ông qua đời vào năm 298 trước Tây Lịch, đế quốc bao gồm toàn cõi Ấn Ðộ, ngoại trừ nước Kalinga (Kiệt Tuấn Già) và những vùng đất bên ngoài Mysore ở Miền Nam. Nó cũng bao gồm cả Afghanistan. Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử Ấn Ðộ, phần lớn đất Ấn Ðộ nằm dưới sự cai trị của một vị vua. Chandragupta được con trai là Bindusara (Tân Ðầu Sa La) nối ngôi và làm vua từ 298-274 trước Tây lịch, và giữ vững vương quốc Maurya rộng lớn này.
            Asoka(A Dục), con trai của Bindusara, ra đời vào năm 304 trước Tây lịch. Theo Mahavamsa, mẹ nhà vua tên là Tika Dhamma. Asoka gọi bà là Subhadrangi. Là một hoàng tử, ông được ban cho chức Phó Vương cai trị Ujjain, và về sau vua cha phái ông đi dẹp loạn ở Taxila, nơi mà hoàng tử Susina, anh ông đang là Phó Vương. Sau khi Bindusara qua đời, sự tranh chấp ngôi vua xảy ra vì Asoka không phải là Thái Tử.  Trong cuộc tranh chấp, anh của Asoka bị giết chết. Và Asoka lên nối ngôi vào năm 273 trước Tây Lịch. 
            Chúng ta không biết rõ thế nào và nguyên nhân từ đâu đã đưa nhà vua vào Phật Giáo.  Nhưng dường như điều có vẻ hợp lý nhất là hoàng hậu của vua là người Vidisa, mẹ của ngài Mahinda (Ma Hê Ðà) và ni sư Sanghamitta (Tăng Già Mật Ða), là người đã đưa Vua Asoka đến gần Ðạo Phật. Theo truyền thống, hoàng hậu Vidisa không ở Pataliputra(Thành Hoa Thị), nhưng ở lại Vidisa. Ðiều này rõ ràng do từ quan điểm tôn giáo của bà và sự sùng mộ Phật Giáo tại Sanchi. Khi Mahinda về thăm mẫu thân trước khi đi qua Tích Lan, bà đưa ngài đến Cetiyagiri (Sanchi) để cầu phúc. Xa hơn, có vẻ hợp lý rằng sự sùng mộ Ðức Phật của bà cũng là một công cụ trong việc sửa soạn cho việc từ bỏ thế gian của hai tâm thức từ khi còn non trẻ của Mahinda và Sanghamitta. Trong tuổi thơ ấu của họ, hai người này chắc chắn đã theo mẹ đến chùa ở Sanchi. Ngay cả Asoka cũng đã tháp tùng bà hoàng hậu sủng ái hành hương đến những nơi nầy khi còn là một Phó Vương ở Ujjain. Như vậy bà hoàng hậu, con gái của một thương gia phật tử giàu có ở Vidisa (ngày nay là besnagar, Bhihar), và chính bà cũng là một phật tử thuần thành, đã làm Asoka lưu tâm đến Phật Giáo, một sự lưu tâm nảy nở chậm nhưng vững chãi. Bà thường được gọi là Devi (Thiên nữ) vì quan điểm tôn giáo của mình. Một người khác đã làm cho Asoka chuyển tâm gần hơn là Nigrodha, người con trai sinh ra không được thấy cha của Susima, anh vua Asoka, người mà Asoka nhìn thấy trong bộ y vàng khi mới chín tuổi. Asoka cuối cùng và vững chắc chuyển tâm về Phật Giáo sau trận Kalinga (Kiệt Tuấn Già), sau đó ông tuyên bố chính sách chinh phục bằng Chánh Pháp thay vì bằng chiến tranh dẫm máu.
            Asoka có được diễm phúc thừa kế một vương quốc đã ổn định do ông nội là Chandragupta. Asoka sát nhập Kalinga, ngày nay là Orissa, vào đế quốc lớn nầy sau một trận chiến đẫm máu. Sự hy sinh lớn lao ở Kalinga làm chấn động tâm tư của Asoka và đã chuyển đổi bản tính của ông. Với biến cố nầy, quan niệm của ông, cả đối với bản thân và đời sống công cộng, đều thay đổi. Kết quả là ông quay về những giáo lý cao thượng của Ðức Từ Phụ.
            Việc này xảy ra vào năm 261 trước Tây lịch, ngày Vijaya Dashmi.  Từ sáng sớm, đàn ông, đàn bà và trẻ con đã tụ tập đông đảo tại bãi cỏ rộng lớn bên ngoãi thành Pataliputra (Hoa Thị), ngày nay là Patna. Họ tưng bừng trong một bầu không khí vui nhộn vì đây là lần đầu họ được đón mừng vua Asoka sau chiến thắng Kalinga. Thành phố Patliputra tưng bừng trong không khí của ngày hội lớn với cờ quốc gia bay phất phới trên bầu trời dọc theo các con đường dẫn đến nơi tổ chức cuộc hội họp.
            Dường như không có gì đáng ngạc nhiên về sự biểu lộ vẻ long trọng trong dịp nầy của công dân thủ đô vương quốc Maurya. Chiến thắng Kalinga là một thành tựu, là một việc đáng làm cho họ kiêu hãnh.  Với chiến thắng vô cùng vinh quang của họ, nhân dân Magadha (Ma Kiệt Ðà) đã hoàn toàn quên đi những lo âu và rối loạn họ đã trải qua trong thời gian chiến tranh. Những Jawan, những người đã hoàn thành sứ mạng anh hùng và là công cụ trong việc thôn tính Kalinga, nô nức chờ đợi những phần thưởng quí giá của triều đình xứng đáng với sự dũng cảm, can trường của họ trên chiến trường.
            Cuối cùng Asoka, đi bên cạnh một vị thánh Phật Giáo, ngài Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Ðế Tu), xuất hiện và đám đông quần chúng bật lên những tiếng nấc vui mừng. Sau khi nhà vua và vị Ðại Ðức bước lên diễn đàn được dựng cho dịp hội họp này, sự náo nhiệt của quần chúng lắng xuống. Và khi Asoka đứng lên để bắt đầu nói, tất cả mọi con mắt đổ dồn về nhà vua với một sự yên lặng tột cùng.  Người ta nghĩ rằng giờ đây họ sẽ được sự vỗ về của hoàng gia về những việc làm dũng cảm và những hy sinh lớn lao của họ.
            Nhưng họ vỡ mộng khi nhà vua bắt đầu nói với một giọng điệu hoàn toàn khác. Ông nói:
- Hỡi anh, chị, em, sau khi chiến thắng trận Kalinga chúng ta tụ tập nơi đây lần đầu tiên. Có thể quí vị đến đây để tán dương sự chiến thắng với những ước vọng cao vời. Nhưng tôi...tôi không thể tán dương sự chiến thắng này theo cách quí vị mong muốn. Tôi hoàn toàn ý thức về những nỗi khó khăn đã xảy ra và những hy sinh mà tất cả quí vị đã đóng góp trong việc làm cho cán cân bên ta thắng thế trong trận chiến Kalinga. Tôi cũng xin cảm ơn tất cả quí vị về sự giúp đỡ và hợp tác với chính phủ về nhân lực và vật lực. Tuy nhiên, tôi cảm thấy xấu hổ về sự tàn phá lớn lao do trận chiến Kalinga. Ðại Ðức MOggaliputta Tissa đã xóa sạch sự tối tăm trong đôi mắt của tôi và soi sáng tâm tôi. Giờ đây tôi hoàn toàn nhận chân rằng vì sự vinh quang của bản ngã mình, vì việc mở rộng lãnh thổ và vì nhục mạ kẻ khác, đó là tội lỗi, một tội lỗi lớn lao, và để xô đuổi một số lớn đồng bào ra khỏi tổ ấm, ra khỏi nhà của họ. Tội lỗi đó không thể tha thứ. Hãy nghĩ đến những người mẹ mất con; những người vợ mất chồng; và những trẻ con mất cha mẹ trong trận chiến đẫm máu Kalinga. Ngày hôm nay họ có vui mừng chăng? Không, chắc chắn là không! Những hậu quả kinh hoàng của sự điêu tàn lớn lao và sự thống khổ không nói được đã làm cho mắt tôi mở ra. Tôi đội ơn Ðại Ðức Maggaliputta Tissa, nhờ sự hướng dẫn lân mẫn của ngài, tôi đã tìm thấy sự an ủi trong Giáo Lý của Ðức Phật Từ Bi(1).
            Tiếp theo, nhà vua nói:
- Ðức Phật, như quí vị biết, đã đi qua trên đất nước này, nước Magdha, 250 năm trước. Trong bài pháp đầu tiên của Ngài, Ðấng Giác Ngộ đã nhấn mạnh và dạy con người sống theo lẽ phải với Bát Chánh Ðạo. Ðức Phật đã vất vả trong bốn mươi chín năm đi từ làng này qua làng khác, đi từ đô thị này qua đô thị khác trong đất mẹ rộng lớn của chúng ta để làm vơi đi những thống khổ của con người. Thật là một việc xấu hổ khi chúng ta đã không tôn trọng những lời dạy của một Bậc Thánh Vĩ Ðại như vậy, và đã tạo ra bao lỗi lầm do sự điên rồ của chúng ta. Nhưng giờ đây, tôi cam đoan với quí vị rằng điều đó sẽ không xảy ra một lần thứ hai.
            Vì thông điệp của Phật nói lên sự hoà bình và tình huynh đệ toàn khắp, vua Asoka tuyên bố một cách mạnh mẽ:
- Từ nay trở đi tôi sẽ thích làm một vị vua của Chánh Pháp hơn là một vị vua của bạo lực. Từ nay về sau, tôi sẽ cố gắng chiến thắng con tim của dân chúng, cả bên trong cũng như bên ngoài cương thổ, bằng sự thuyết phục và tình thương hơn là bằng lưỡi gươm.
            Sau lời tuyên bố lịch sử này, Asoka dồn mọi nỗ lực, quyền hành và tiền của vào việc xiển dương Chánh Pháp. Ðiều ông muốn thực hiện và điều ông đã có thể thực hiện được ghi lại rõ ràng trong những chỉ dụ và câu khắc của Asoka trên những tảng đá và trụ được tìm thấy cho đến nay ở 40 chỗ trên Ấn Ðộ (34), Nepal (2), Pakistan (2), và Afghanistan (2). Những tảng đá và trụ này ở:
            A- Những Ghi Chép Của Vua Asoka Tại Ấn Ðộ: Có tất cả 34 chỗ
            - Những bia đá chính:
01- Girma(Gujarat),
02- Sopara(Maharashtra),
03- Dhauli
04- Jaugada (Orissa),
05- Kalsi (U.P),
06- Yerragudi (Andhra Pradesh).
            - Bia đá rời:
07- Bairat - Bhabru (Rajasthan).
            - Những bia đá phụ:
08- Sahsaram
09- Ahrauna(U.P.),
10- Baira(Rajasthan),
11- Rupnath
12- Gurra(madhya Pradesh),
13- Brahmagiri,
14- Jaitanga-Ramesvara
15- Siddapura(Karnataka),
16- Maski,
17-       Yerragudi,
18-       Gavimath,
19- Palkigundu
20- Rajula-Mandagiri(Andhra Pradesh),
21- Bahapur (Delhi).
            - Những bia trụ chính:
22- Allahabad-Kosam(U.P),
23- Delhi-Mirath
24- Delhi-Topa (Delhi),
25-       Lauriya-Araraj
26-       Lauriya-Nandangarh
27- Rampurva (Bihar).
- Những bia trụ phụ:
28 & 29- Allahabad-Kosam-2(U.P.)
30- Sanchi(Madhya Pradesh) 
31- Sarnath(U.P).
- Những câu viết trong động:
32, 33 & 34- Những đồi Barbara có 3(Bihar)
            B- Những Ghi Chép Của Vua Asoka Tại Nepal: Tất cả có 2 chỗ:
- Những câu viết trên trụ:
01- Lumbini
02- Nilgiva
            C- Những Ghi Chép Của Vua Asoka Tại Pakistan: Có tất cả 2 chỗ:
- Những bia đá:
01- Shanhbazgarhi
02- Mansehra.
            D- Những Ghi Chép Của Vua Asoka Tại Afghanistan: Có tất cả 2 chỗ:
- Những bia đá:
01- Kandhar
02- Lamghan gần Jalalabad.
            Tất cả những câu viết (khắc) tìm thấy ở Ấn Ðộ và Nepal được viết dưới nhiều hình thức chữ Prakrit khác nhau và được viết dưới dạng Brahmi. Hai câu tìm thấy tại Shahbazgarhi và Mansehra ở Pakistan được viết bằng chữ Kharoshthi. Một câu tìm thấy tại Kandhar ở Aghanistan được viết song ngữ, Hy Lạp và Xy-ri. Trong tất cả các ghi chép, Asoka đề cập đến mình là Devanampiya Piyađasi Raja(Người được chư Thần yêu thương, vua Piyadesi). Chỉ trên hai mẫu bia đá phụ (2), tên Asoka được đề cập.
            Trong những chỉ dụ, vua Asoka ghi thời gian rồi một lần nữa đề cập đến Giáo Pháp và hô hào mỗi người và mọi người ghi nhớ việc thực hành Giáo Pháp. Ý nghĩa Giáo Pháp theo Asoka là một đề tài bàn thảo của các sử gia. Một số học giả có quan điểm cho rằng Giáo Pháp của Asoka là sáng kiến của riêng ông, không liên quan gì đến Giáo Pháp của Ðức Phật. Ðây là một giải thích sai lầm, Asoka truyền bá Giáo Pháp do Ðức Phật dạy. Ðiều này được xác định rõ ràng với bằng chứng trên những chỉ dụ của Asoka. Trên một trong những bia đá sớm nhất của Asoka, ông nói (3):
            - Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua từ khi ta chính thức trở thành người tín đồ tại gia của Ðức Phật. Nhưng ta đã không dấn thân tích cực vào sự nghiệp của Chánh Pháp trong một năm đầu. Tuy nhiên, hơn một năm ta đã gắn bó hết mình với Tăng Già và dấn thân một cách tích cực.
            Chỉ dụ trên, ngày nay được biết là Bia Ðá Phụ I, và được công bố vào khoảng năm 257 trước Tây Lịch được tìm thấy 14 nơi ở Ấn Ðộ. Ðiều này có nghĩa là Asoka đã công bố rất là rộng rãi trong dân chúng lòng kính tin càng ngày càng tăng thêm của ông vào Phật Pháp.
            Trong Bia Ðá Phụ thứ ba, được tìm thấy ở bairat gần Jaipur, Rajasthan, Asoka nói(4):
            - Vua Piyadasi của nước Magadha (Ma Kiệt Ðà) chào đón các vị tu sĩ của Tăng Ðoàn, cầu mong các ngài được sức khỏe và an vui trong họat động của các ngài, và xin thưa với các ngài những lời sau đây. Thưa chư Ðại Ðức, các ngài đã biết lòng tôn kính và niềm tin của tôi đối với Phật, Pháp và Tăng Già lớn lao như thế nào. Thưa chư Ðại Ðức, bất cứ điều gì do Ðức Phật dạy, tất cả đều được nói ra một cách toàn hảo. Nhưng thưa chư Ðại Ðức, tôi thiết nghĩ nên nói ra điều khởi ra trong cảm nghĩ của tôi về việc làm thế nào để Chánh Pháp được trường cữu.
            Và Asoka liệt kê bảy bản kinh(5), và chỉ thị cho chư tăng và ni thường xuyên nghe và ghi nhớ.  Ðối với nam cư sĩ cũng vậy.
            Asoka không những lưu tâm đến việc thường xuyên học hỏi một số kinh điển Phật Giáo của Tăng, Ni và cư sĩ, ông còn hăng hái tham gia công việc trong Tăng Ðoàn. Ông cũng bày tỏ thái độ đối với sự làm chia rẽ của Giáo Ðoàn. Trong Chỉ Dụ Phụ trên Trụ Ðá tìm thấy ở Allahabad-Kosam, Sanchi và Sarnath, Asoka chỉ dụ cho chư Tăng những lời sau đây(6):
            - Không một ai được gây chia rẽ trong Tăng Ðoàn, bất cứ người nào gây ra sự ly gián trong Tăng Ðoàn, dù Tăng hay Ni, đều bị cho mặc đồ trắng, và đưa vào những nơi không có Tăng và Ni cư trú. Vì ta muốn rằng Tăng Ðoàn được đoàn kết và dài lâu.
            Những lời của chính Asoka, được trích ra ở trên, chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ rằng ông là một tín đồ Phật Giáo thuần thành. Ông không chỉ đề cập đến Phật, Pháp và Tăng Già, Ðức Phật còn được biểu hiện trên những chỉ dụ bằng biểu tượng nổi danh trong Phật Giáo là con Voi Trắng (7) được trình bày trong bản khắc ở Girnar ở cuối Bia Ðá XII, và được miêu tả bằng một hình cắt trên đá ở Dhauli, và chạm ở Kalsi với nhãn hiệu ỔgajatameỖ,Ợcon voi toàn hảo nhấtỢ. Con voi tượng trưng cho sự giáng sinh của Ðức Phật vào thế gian nầy như mẹ Ngài thấy trong giấc mộng, trước khi thụ thai, một con voi trắng đi vào trong bụng bà. Bốn con vật ở trên chóp của những trụ đá Asoka là: Voi, Bò, Ngựa và Sư tử. Những con vật nầy được vua Asoka chọn vì nó liên quan đến Ðức Phật. Con voi là điển hình cho Sự Thụ Thai, con bò chỉ sự đản sanh, Ðức Phật giáng sinh vào loài người, con ngựa chỉ cho sự từ bỏ của Ðức Phật, và sư tử tượng trưng cho Ðức Phật như là một vị Thầy vĩ đại.
            Cốt tủy của Giáo Pháp được Asoka giải thích trên năm chỉ dụ chính, ba bia đá và hai trụ.
            Trong Bia Ðá Chính số ba tìm thấy tại Girna ở Gujarat, Asoka định nghĩa Giáo Pháp với những lời như sau(8):
            - Nên thuận thảo với cha mẹ, bằng hữu và quyến thuộc, nên rộng lượng với các vị bà la môn(brahmana) và sa môn(sramana), không nên giết hại sinh linh, không những nên tiết kiệm tiền tài, mà còn chỉ nên có tài sản tối thiểu.
            Trong Bia Ðá Chính số bốn, cũng ở ginar, Asoka nói(9):
            - Qua sự giáo huấn của vua trong Chánh Pháp, sự không giết chóc và làm hại sinh linh, sự thuận thảo với quyến thuộc, Bà La Môn và Sa Môn, thuận thảo với cha mẹ, và thuận thảo với người già cả, tất cả đều gia tăng đến mức độ chưa từng có trong nhiều thế kỷ trước.
            Lại trong Bia Ðá Chính số XI tìm thấy ở Kalsi gần Dehradun ở Uttar Pradesh, Asoka nói(10):
            - Không sự bố thí nào có thể so sánh với sự bố thí Chánh Pháp, tán dương Chánh Pháp, chia xẻ Chánh Pháp, tình thân trong Chánh Pháp. Và đó là đối xử tốt với nô lệ và tôi tớ, thuận thảo với cha mẹ, rộng lượng với bạn bè, người quen, và quyến thuộc và với bà la môn và sa môn, và tránh giết hại sinh linh.
            Trong bảy trụ bia chính, chữ Dhamma (Pháp) được định nghĩa trong hai chỉ dụ. Trong chỉ dụ số II, trên trụ Topra ngày nay dựng tại Ferozshah Kotla, Delhi, Asoka nói(11):
            - Thực hành theo Chánh Pháp(Dhamma) là đáng khen. Nhưng giáo pháp gồm có gì? Nó gồm có ít gây tội lỗi, làm nhiều việc thiện, từ bi, hỷ xả, chân thật và trong sạch.
            Trong chỉ dụ số VII trên cùng Trụ Torpa ở Delhi, Asoka nói(12):
            - Ý muốn của tôi là những việc làm cao thượng của Chánh Pháp và sự thực hành Chánh Pháp, bao gồm từ bi, hỷ xả, chân thật, trong sạch, tử tế và lòng tốt, sẽ được truyền bá trong dân chúng.
            Các chỉ dụ của vua Asoka trước tiên nhắm vào nhân dân nói chung, những tín đồ nam nữ tại gia. Vì vậy, không đề cập đến những từ chuyên môn Phật Giáo một cách thuần túy như Tứ Diệu Ðế, Bát Chánh Ðạo và Niết Bàn, Asoka kê ra bằng một ngôn ngữ đơn giản những đức hạnh, con đường mà người tại gia cần noi theo. Và khi làm như vậy, ông liệt kê những đức hạnh, theo sát trong giới tại gia do Ðức Phật để lại trong kinh Sigala (Số 31 của Trường A Hàm-Digha-Nikaya). Sáu loại bổn phận tương quan được kể ra trong kinh nầy là:
- Giữa cha mẹ và con cái;
- Giữa học trò và thầy;
- Giữa chồng và vợ,
- Giữa bạn hữu,
- Chủ và tớ,
- Cuối cùng giữa cư sĩ và Tăng Già. 
Trong mỗi trường hợp, có năm bổn phận, ngoại trừ trường hợp bổn phận của Tăng Già đối với người tại gia thì có sáu. Trong quan điểm của Asoka: Tinh hoa của Chánh Pháp bao gồm trong giới, không ở trong tín điều, nghi thức, lễ lộc, sự thờ cúng. Vì vậy, ông cố gắng ghi nhớ tinh thần của pháp chân thật, tự chủ, giữ tâm thanh tịnh, lân mẫn, từ bi, chân thật và tốt với mọi người.  Nói cách khác, ông dạy về luân lý, giới luật, và những đức hạnh đưa đến an vui trong thế gian nầy và đời sau.
            Trong việc theo đuổi chính sách Cai Trị Theo Chánh Pháp, Asoka phát động một chiến dịch làm giảm bớt sự thống khổ của nhân dân, đúng hơn là cho mọi sinh linh, trong vương quốc của ông. Ông thực hiện những biện pháp phúc lợi công cộng với một mức độ chưa từng thấy ở Ấn Ðộ. Ðể làm cho việc giao thông thoải mái và an toàn, ông cho trồng cây có bóng mát trên những con đường lớn, đào giếng nước và dựng nhà nghỉ ở những nơi thích hợp. Ông mở những bệnh viện cho người cũng như súc vật. Ông cũng sắp đặt những khu vườn thảo mộc trồng những loại cây thuốc hiếm và những cây chữa bịnh (Bia đá số II). Ðể nâng cao tình trạng xã hội, Asoka ra lịnh hủy bỏ sự giết hại súc vật, samaja(những cuộc vui trong đó có những cuộc đấu thú vật, tiệc tùng bằng thịt...); săn bắn và những cuộc vui tương tự (Bia Ðá Số I).  Ông dùng tất cả thì giờ và sức lực vào công việc Quốc Gia, và cho phép được trình tấu những việc quốc gia bất cứ lúc nào. Trong Bia Ðá Số VI, ông nói(13):
- Trước kia, không có việc giải quyết việc nước hay nhận các trình tấu bất cứ lúc nào. Nhưng từ ta, ta muốn xắp xếp như vậy, bất cứ lúc nào, khi ta đang ăn hay ở hậu cung, hay ở nội thất, hay cả đang ở trong trại súc vật, hay trong chỗ dạy đạo, hay trong vườn, bất cứ nơi nào, các viên chức được phép trình tấu các việc nước. Ở bất cứ nơi nào ta cũng giải quyết những công việc của dân chúng. 
Như vậy vua Asoka không bỏ phí một cố gắng nào cho hạnh phúc và an vui của dân chúng ông. Ông nói: 
- Không có một bổn phận nào lớn lao hơn là làm việc cho sự tốt đẹp của mọi người(14) (Bia Ðá VI). Asoka nói thêm:
- Tất cả mọi người đều là con ta(Bia Ðá Rời-Văn bản Dhauli).
            Asoka cũng băn khoăn về việc đem phúc lợi và an vui đến nhân dân sống bên ngoài địa vực của ông, và ông tổ chức công tác truyền giáo trong các nước ngoại quốc và sắp việc cung cấp sự giúp đỡ y tế và những tiện nghi khác cho nhân dân không trực tiếp dưới sự cai trị của ông.
            Asoka làm mạnh chính quyền của ông trên căn bản chánh pháp và nhấn mạnh vào sự tối thượng của những luật đạo đức. Ðể khởi sự, ông ra lệnh tất cả các viên chức phải đi kinh lý vùng quê ít nhất năm năm một lần để làm công tác truyền giáo trong quần chúng (Bia Ðá III). Về sau, ông đặt ra một Bộ Truyền Giáo gồm có những viên chức là những Dhamma Mahamatara, với mục đích truyền bá tình thương trong dân chúng của ông (Bia Ðá V). Ông cũng thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo tôn giáo để dạy và thảo luận về Giáo Pháp; và tổ chức những cuộc trưng bày và diễn hành tôn giáo (Bia Ðá V). Xa hơn, Asoka còn làm những cuộc hành hương (dhamma-yatra) đến những nơi thiêng liêng của Phật Giáo(Bia Ðá VIII). Ông đã hành hương đến Lumbini (Lâm Tỳ Ni), nơi Ðức Phật đản sanh, Sambodhi, nơi Ðức Phật thành đạo, Sarnath, nơi Ðức Phật giảng bài pháp đầu tiên, Kushinara, nơi Ðức Phật nhập Niết Bàn, và các thánh địa khác liên quan đến Ðức Phật.  Asoka cũng mở những trung tâm Phật Giáo và nỗ lực quần chúng hóa sự tu tập thiền quán theo Phật Giáo (vipassana). Asoka đặc biệt nói về sự tối thượng của Thiền Quán(trên Trụ Bia VII). Ông nói(16):
- Việc đề xuất thực hiện Giáo Pháp trong dân chúng chỉ được xúc tiến theo hai đường lối, giới luật và thiền quán. Nhưng trong hai đường lối này, giới luật có kết quả ít, còn với thiền quán Giáo Pháp được thực hiện một cách lớn lao. 
Việc lựa chọn sáu văn bản Phật Giáo do vua Asoka đề nghị để chư tăng, ni và cư sĩ học tập cũng ủng hộ quan điểm này. Nếu chúng ta xem qua 3 bản kinh do Asoka chọn, từ Sutta-Nipata, chúng ta thấy rõ ràng cả ba kinh do ông chọn đều nhấn mạnh vào thiền quán(17).
            Asoka cũng triệu tập một cuộc Kết Tập Kinh Ðiển. Ðó là Cuộc Kết tập lần thứ ba, được tổ chức tại Pataliputta (Hoa Thị) vào khoảng 253 trước Tây Lịch, dưới sự chủ toạ của ngài Maggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Ðế Tu). Cuộc kết tập nầy có 1000 vị cao tăng tham dự và kéo dài 9 tháng. Trong cuộc kết tập nầy, Tam Tạng Pali được đọc lại và hình thức cuối cùng của Tạng Kinh Pali được đúc kết. Ðể góp phần vào việc thúc đẩy sự truyền bá Giáo Pháp, Asoka được nói là đã dựng 84,000 tháp khắp nơi trong nước. Chỉ ở Kashimir, người ta nói rằng ông đã dựng 500 ngôi chùa. Ông cũng được nói là đã cúng dường toàn xứ Kashmir cho Giáo Ðoàn Phật Giáo. Asoka cũng được cho là người đã xây dựng thành phố Srinagar, thủ đô của Kashmir. Một thành phố khác cũng do ông xây dựng là Deo-Patan (Deva-patana) ở Nepal. Với những việc làm đó, ỔTiếng Trống PhápỖ (Dhamma-ghosha-Pháp Cổ) vang rền khắp nước (Bia Ðá IV), và Chánh Pháp được truyền bá xa và rộng.
            Trong khi hăng say giảng dạy và truyền bá những lời dạy tuyệt vời của Ðức Phật, Asoka cũng tỏ ra tôn kính các tôn giáo khác. Dù là một Phật Tử thuần thành, ông không yêu cầu ai phải theo Phật Giáo. Ông đối xử với Tăng Sĩ Phật Giáo và những nhà tu các giáo phái khác như nhau. Vị hoàng đế Phật Giáo đầu tiên ước muốn được thấy mọi cộng đồng chung sống trong hòa bình và tình huynh đệ. Ông khuyến khích mọi người tôn trọng quan điểm của người khác bao lâu mà chúng còn có ích lợi cho sự tốt đẹp chung.
            Với những cố gắng có hệ thống và đầy nghị lực, Asoka đã đưa Phật Giáo ra khỏi những chùa động và tự viện, làm cho nó trở thành một tôn giáo thế giới. Nhưng với Asoka, Giáo Ðoàn Phật Giáo đã không thực hiện công tác truyền giáo. Vì vậy, Asoka thấy rằng mình có trách nhiệm trong việc truyền bá Phật Giáo đến các nước Tích Lan, Miến Ðiện và những quốc gia chung quanh.
            Asoka nói về công tác truyền giáo của ông trong hai chỉ dụ. Trong bia đá V, ông nói(18):
- Những viên chức này làm việc với tất cả mọi tông phái để xây dựng Chánh Pháp cũng như vì sự phúc lợi và an lạc của những người kính tín Chánh Pháp ngay cả trong những người Yavana, Kamboja và Gadhara, Rashtrika và Paitryantika và những người dân khác sống ở các biên giới miền Tây trong lãnh thổ ta. 
Trong Bia Ðá XIII, ông nói(19):
- Như vậy, sự chinh phục bằng Chánh Pháp giờ đây được coi như sự chinh phục tốt đẹp nhất của Người Ðược Chư Thần Thương Yêu. Và sự chinh phục đó đã được thực hiện do Người Ðược Chư Thần Thương Yêu không những tại đây trong lãnh thổ của ông, nhưng còn ở những vùng biên giới xa xôi hàng sáu trăm do tuần(1500 dặm), nơi đó vua nước Yavana tên là Antiyoka đang cai trị và ở đó, bên ngoài vương quốc của vua Antiyoka vừa được nói đến, bốn vị vua khác tên là Turamaya, Antikini, Maka và Alikasundra cũng đang cai trị, và về miền Nam là những dân tộc Chola và Pandya xa xôi cũng như Tamrahparni(Tích Lan).
            Như vậy Asoka đã gởi các nhà truyền giáo để truyền bá chánh pháp trong năm vương quốc Syria, Egypt, Cyrene, Epirus và Macedonia.  Ông cũng đã gởi các nhà truyền giáo đến các nước phương Nam xa xôi như Tích Lan. Trong ngay vương quốc của ông cũng vậy, ông đã gởi các nhà truyền giáo đi nhiều nơi trong lãnh thổ. Tên một số nhà truyền giáo và các nước được ghi lại trong Mahavamsa (Biên niên sử) là(20):
            - Majjhantika đến Kashmir và Gandhara
- Mahadeve đến Mahisamandala (Mysore)
- Rakkhita đến Vanvasi (Bắc Kanara ở Karnataka)
- Yona Dhammarakkhita đến Apparantaka
- Mahadhammarakkhita đến Maharashtra
- Maharakkhiat đến Yonaloka (vùng chiếm đóng của quân Hy lạp ở vùng Tây Bắc Ấn);
- Majjhima đến Himavanta (vùng Hymalaya)
- Sona và Uttara đến Suvarnabhumi (Miến điện)
- Mahinda, Itthiya, Uttiya, Sambala, Bhadasara đến Tích Lan. 
Khi xác định truyền thống này, Dipavamsa, một tập biên niên sử khác của Tích Lan, nêu ra một khác biệt nhỏ. Theo sử liệu này, Majjhima, người được ủy nhiệm đi đến Himavanta, có năm vị tu sĩ cùng đi là Kasapagota, Dudubhissara, Sahadeva và Mulkadeava. Truyền thống truyền giáo do vua Asoka bảo trợ được xác nhận với bằng chứng khảo cổ. Những hài cốt của Majjhima, Kasapagota, và Dudubhissara đã được tìm thấy (21) từ các tháp ở Sanchi, và Sonara trong cùng một vùng.
            Trong các đoàn truyền giáo do Asoka bảo trợ, đoàn do Mahinda, con trai của vua, cầm đầu đến Tích Lan là thành công nhất. Những mối quan hệ giữa Asoka và Tissa, vua của Tích Lan, trở thành gắn bó đến nỗi theo yêu cầu của Vua Tích Lan, Asoka đã gởi một nhánh tháp cây Bồ Ðề chính, nơi Ðức Cồ Ðàm thành Ðạo, do con gái của vua là Sanghamitra đem sang. Nhánh tháp cây Bồ Ðề nầy được trồng ở Anuradhapura ở Tích Lan, và hiện nay vẫn còn sống.
            Trong giới vua chúa, không có người nào sánh được với vua Asoka về cả phương diện làm người cũng như một lãnh tụ. Với những việc làm tốt đẹp của ông, ông được toàn thể nhân loại, nói đúng hơn là toàn thể sinh linh, nhớ ơn. Vì vậy chúng ta gọi ông là Asoka Ðại Ðế. Chúng ta cũng gọi ông là: Chuyển Luân Pháp Vương, vì Asoka cai trị dân chúng theo Chánh Pháp, chấp hành công lý theo Chánh Pháp, và bảo vệ dân chúng theo Chánh Pháp(Trụ Bia I). Với Asoka, thực hành Chánh Pháp là việc quan trọng nhất. Sức mạnh tỏa khắp trong những chỉ dụ của ông là Chánh Pháp. Ông dùng từ ỘChánh PhápỢđến 125 lần trong những câu bia. Asoka không chỉ truyền bá Giáo Pháp Phật Ðà mà còn sống theo Chánh Pháp. Ông dạy những điều ông thực hành. Asoka sùng đạo nghiêm túc theo đuổi Luật Hiếu Sinh trong đời sống riêng tư của ông.  Ông cấm đoán việc giết hại súc vật trong những ngày thiêng liêng như các ngày vía. Ông chấm dứt việc giết hại súc vật để nấu nướng trong hoàng cung và hoàn toàn từ bỏ việc ăn thịt. Trong thời gian ông cai trị, không có chim chóc hoặc thú vật bị giết hại chỉ với mục đích vui chơi, gọi là thể thao, hay cho những mục đích cúng tế. Ông đi hành hương thay vì đi săn bắn. Nhãn hiệu của ông ỔDevanampiyaỖ (người thân của chư thần) và Priyadarsi (người thiện ý) chỉ cho những việc làm thiện của ông là rất thích đáng.
            Nhìn từ mọi góc độ, triều đại Asoka là một triều đại duy nhất. Giai đoạn nầy là giai đoạn sáng sủa nhất của Ấn Ðộ. Trong giai đoạn nầy, dân chúng vui hưởng một đời sống tự do và cơ hội bình đẳng về mọi phương diện của cuộc sống. Chẳng những giá trị văn hóa lần đầu tiên được đánh giá đúng đắn trên đại lục này, nhưng những sứ giả văn hóa của nó đã đi ra nước ngoài và truyền bá văn hóa của nó. Dưới sự lãnh đạo đầy khả năng và sinh lực của Asoka, nước Ấn Ðộ đã đạt đến chỗ cao nhất của sự tiến bộ tinh thần và vật chất, và chiếm một vị thế đứng đầu trong các quốc gia văn minh thế giới. Chúng ta có thể gọi ông là một người đa tài, nhà chính trị và lãnh đạo, nhà cải cách tôn giáo và xã hội, triết gia và thánh nhân. Theo lời của H.G.Well:
- Asoka là một trong sáu nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại (những người kia là Ðức Phật, Socrates, Aristotle, Roger Bacon và Abraham Lincoln). Cũng theo H.G.Well:
- Trong số hàng chục ngàn tên của vua chúa đầy dẫy trong những trang lịch sử, sự oai nghiêm và độ lượng, sự trầm lặng và sự cao qúy vân vân, tên Asoka chiếu sáng dường như độc nhất, giống như một ngôi sao(22)
            Trong vòng năm mươi năm sau khi vua Asoka qua đời vào năm 232 trước Tây lịch, vương triều Maurya (Khổng Tước) sụp đổ. Trong khi đi tìm những lý do suy tàn của một đế quốc lớn lao như  vậy, các sử gia đã gắng công một cách vô ích khi tìm những lỗi lầm của Asoka và việc yêu chuộng Chánh Pháp của ông. Một số sử gia nói rằng nguyên nhân cội rễ của sự suy sụp của đế quốc Maurya là chủ trương Ahimsa của Asoka, hủy bỏ chủ nghĩa quân phiệt xâm lược, vì vậy làm suy yếu khả năng quân sự. Nhưng lý luận này dường như không có nền tảng.
            Trong bia đá Jaugada, có một câu hỏi sau đây đến với dân chúng của những vùng không bị chinh phục bên ngoài biên giới vương quốc nhà Vua nói(23):
- Nhà Vua muốn gì nơi chúng ta? Ðiều duy nhất sau đây là điều ta mong muốn được nhân dân ở các vùng biên giới nhận thức rằng nhà vua muốn họ không bị lo âu, họ tin tưởng vào nhà Vua, và họ có thể mong từ nhà vua sự hạnh phúc và không khốn khổ. Ðiều sau đây họ cũng nên nhận thức rằng Nhà vua sẽ tha thứ cho họ về những lỗi lầm nào có thể tha thứ. Người dân ở các vùng biên giới có cần sợ hãi một vị Vua hèn yếu không? Chắc chắn là không. Chỉ với sức mạnh của quốc gia mới tạo nên những sự sợ hãi ngờ vực. Ðiều đó đủ để chứng minh rằng chính quyền của Asoka có đủ sức mạnh quân sự và dân chúng ở các vùng biên giới ý thức được các nguồn năng lực dồi dào trong tay ông hay sao? Ðể giải tỏa những lo sợ của họ, ông đã tuyên bố với công chúng rằng họ không cần phải lo sợ vì ông không có ý định quấy nhiễu họ khi họ không gây điều gì quấy.
            Ngay nếu Asoka theo đuổi chính sách bạo động, có gì bảo đảm rằng vương triều Maurya (Khổng Tước) sẽ tồn tại vĩnh viễn. Có thể là không. Chúng ta phải nhớ rằng các đế quốc ra đời rồi tiêu diệt do nhiều lý do có thể từ bên trong, bên ngoài, xã hội và chính trị. Không phải rằng đế quốc Mông Cổ bắt đầu suy tàn nhanh chóng sau Aurangzeb, người đã theo đuổi chính sách cướp phá, cưỡng đoạt và độc tài? Thêm nữa, Ðế quốc hồi giáo sụp đổ lập tức sau khi Maharaja Ranjit Singh, con sư tử của Punjab, qua đời? Tại sao? Không phải do người Hồi suy yếu về quân sự nhưng bởi vì những sự tranh chấp chia rẽ trong những người thừa kế. Với sự chứng minh này, những lý do suy tàn của vương triều Naurya cần phải tìm ở những nguyên nhân khác. 
            Lại có một số người nói rằng Asoka đã trở nên một con người tôn giáo quá độ và phung phí tài sản quốc gia cho việc truyền bá Phật Pháp. Sự buộc tội này cũng không có nền tảng. Asoka, không nghi ngờ là một phật tử thuần thành, nhưng ông biết rõ những trách nhiệm của một vị Vua và những bổn phận của một phật tử. Ông biết cân phân những việc phải làm của ông và đã không lạm dụng quốc gia trong việc Phật sự. Lòng mến mộ Phật, Pháp, và Tăng của ông thật lớn lao đến nỗi ông đã định hy sinh đời mình cho mục đích nhưng đến khi vấn đề thu thuế cho quốc gia ở những địa danh thiêng liêng của Phật Giáo được đặt ra, ông đã tỏ ra quan tâm trước tiên đến ngân sách quốc gia. Như ở Lumbini (Lâm Tỳ Ni), nơi đản sanh của Ðức Phật, có thể đủ để chứng minh quan điểm này. Hãy xem nhà Vua đã nói những gì trong trụ bia ở Lumbini. Ông nói(24): 
- Sau khi lên ngôi hai mươi năm, Vua Priyadarsi, Người Ðược Chư Thần Thương Yêu, đích thân viếng thăm nơi này và lễ bái tại đây, bởi vì Ðức Phật, Vị Thánh giòng họ Sakya (Thích Ca), đã đản sinh nơi đây. Ông cho xây một bức tường đá quanh chỗ này, và dựng lên trụ đá này để ghi nhớ cuộc viếng thăm. Vì Ðức Phật đã sinh ra nơi đây, ông cho làng Lumbini được miễn thuế và chỉ nộp một phần tám sản phẩm đất đai thay vì theo tỉ lệ bình thường. Một vị Vua sùng mộ Phật Giáo như Asoka không thể cho Lumbini miễn mọi sắc thuế hay sao? Chắc chắn là ông có thể làm việc đó. Nhưng bởi vì ông không muốn ngân sách Quốc giãm sụt, ông chỉ thay đổi tỷ lệ thuế. Người dân ở Lumbini chỉ được một quyền lợi nhỏ nhoi so với tỉ lệ thuế thông thường là một phần sáu. Vị hoàng đế thận trọng nầy có thể phung phí tiền của dân chúng sao? Câu trả lời là không.
            Lý do chính cho sự suy thoái của vương triều Maurya(Khổng Tước) là do hai tác động:  sự thiếu khả năng của những Vua Maurya về sau, và sự vùng dậy của giai cấp Bà La Môn. Dường như không có một người con hay cháu nào của Asoka tỏ ra có khả năng lãnh đạo một vương quốc lớn như vậy. Ảnh hưởng của họ ở vùng Tây Bắc Ấn Ðộ bị suy yếu do những cuộc xâm lăng của người Hy Lạp. Người Hy Lạp đã chiếm và thành lập một vương quốc ở Punjab. Tuy nhiên một tai họa làm sụp đổ Vương quốc Maurya là do Pushyamitra(Bổ Sa Mật Ða La), Tổng Tư Lệnh Quân Ðội của Vua Maurya cuối cùng là Brihadratha (Ða Xa Xương), đã ám sát Vua và cướp ngôi lên làm Vua Magadha (Ma Kiệt Ðà) vào năm 185 trước Tây Lịch. Việc ám sát vị Vua Phật Giáo do một tướng lãnh Bà La Môn cần phải được giải thích. Theo Bác sĩ B.R. Ambedkar(25):
- Việc Pushyamitra ám sát vua Brihadratha rất tiếc là bị bỏ lơ. Người ta đã không có một chút quan tâm nào đến tầm quan trọng của nó. Các sử gia đã coi biến cố nầy như một việc xảy ra hàng ngày giữa cá nhân, do từ sự tranh chấp cá nhân giữa hai người. Nhưng khi quan sát đến những hậu quả của nó, ta thấy rằng đó là một biến cố khởi đầu của một thời đại. Sự quan trọng của nó không thể được đo lường bằng việc coi nó như là một cuộc thay đổi một triều đại, vương triều Sunga (Huân Ca) thay thế vương triều Maurya (Khổng Tước). Nó là một cuộc cách mạng chính trị lớn lao không kém cuộc cách mạng Pháp, nếu không nói là lớn hơn. Sự cố này là một cuộc cách mạng đẫm máu, do người Bà La Môn sắp đặt để lật đổ sự lãnh đạo của những vị vua Phật Giáo. Ðó là ý nghĩa của việc Brihadartha ám sát Pushyamitra.
            Rõ ràng là người Bà La Môn không vui lòng với những chính sách của Asoka và những người thừa kế ông bởi vì họ cấm đoán việc tế súc vật, chấm dứt săn bắn, ngăn cản việc ăn thịt và uống rượu, cải cách những Samaja, một loại mela đã trở thành những nơi đồi trụy và đã làm mất của họ nhiều quyền lợi. Nhưng trên hết là những vị vua Phật Giáo không đặt quan trọng vào đẳng cấp. Những người Bà La Môn vô cùng yêu quí cái nhãn hiệu đẳng cấp của họ và những tế lễ giết chóc cảm thấy khó chịu với lề luật của Phật Giáo. Hơn nữa, họ ganh tị về việc Vua Asoka đã bảo trợ Phật Giáo ngoài sự mong muốn của họ. Những người Bà La Môn vì vậy thù địch với Vương Quốc Maurya (Khổng Tước), và sự bất mãn và ganh ghét của họ đóng một vai trò trong việc làm sụp đổ vương quốc. Từ trước họ đã phản đối việc cấm đoán việc tế lễ có đẫm máu. Khi thấy những người kế nghiệp Asoka yếu đuối và bất tài, họ nổi lên làm cách mạng, và xúi giục người dân Ấn không còn tin tưởng vào vương triều Phật Giáo Maurya. Và họ đã loại trừ ảnh hưởng của Phật Giáo bằng những phương tiện điên khùng. Trước khi ám sát vua Brihadratha của vương triều Maurya, có hai điều lệ đã thành luật bất thành văn của quốc gia được mọi người chấp nhận là không thể hủy phạm:
1- Luật thứ nhất là một người Bà La Môn chỉ phạm đến vũ khí là có tội. 
2- Luật thứ hai cho rằng vua là nhân vật thiêng liêng và kẻ giết vua là phạm tội. 
Pushyamitra đã vi phạm cả hai luật này. Chắc chắn, với tư cách cá nhân, ông đã đứng vào vị trí phá vỡ những quy luật đã trở thành vững chắc của quốc gia. Phải có một thứ âm mưu và hổ trợ từ người khác trong tín ngưỡng của ông đã thúc đẩy ông. Rõ ràng là từ Manu Smriti xuất hiện sau năm 185 trước Tây lịch. Chúng ta lại trích từ lời của Bác sĩ Ambedkar(26):
- Ðạo Bà La Môn chiến thắng muốn có một bản kinh thẩm quyền không thể sai để biện hộ cho sự phạm tội của họ. Ðiểm đặc trưng nổi bật của Manu Smriti là nó không chỉ coi Chaturvana (Hệ thống giai cấp) là luật của quốc gia, nó không những cho việc giết hại súc vật là hợp pháp, mà nó còn cho phép người Bà La Môn có quyền sử dụng vũ khí và có quyền giết vua. Trong đó, Manu Smriti đã làm những điều mà không ai trước Smirti làm. Nó là một sự chệch hướng hoàn toàn. Nó là một lý thuyết mới. Tại sao Manu Smirti phải làm như thế? Câu trả lời duy nhất là nó phải làm mạnh những việc làm cách mạng của Pushyamitra bằng một sự bào chữa có tính cách triết lý.
            Những hành động về sau của Pushyamitra hoàn toàn xác nhận động cơ nham hiểm của cuộc cách mạng Bà La Môn. Ngay sau khi nắm quyền, ông phục hồi việc tế súc vật bị Asoka hủy bỏ, và khủng bố Phật Giáo một cách dã man. Ông được ghi lại là phá hủy và san bằng nhiều ngôi chùa và giết hại tăng sĩ. Người ta nói rằng ông tuyên bố thưởng một trăm đồng tiền vàng cho cái đầu của một tu sĩ Phật Giáo.
            Sự sụp đổ của Ðế quốc Maurya (Khổng Tước) xảy ra một cách nhanh chóng do những tác động khởi lên từ cả bên trong lẫn bên ngoài, không thể khảo sát trong giai đoạn các vua kế nghiệp Asoka. (còn tiếp)
-- o0o --