-
Ðạo Phật & Khoa Học
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
--o0o--
-
-
Có những tôn giáo một thời đã làm mê hoặc được số
đông tín đồ. Nay, một số tín điều căn bản đã tỏ ra sai lầm
dưới ánh sáng khoa học. Ngược lại, Phật giáo càng chứng tỏ là
một tôn giáo, từ cấu trúc, tư tưởng trong các kinh điển cho
tới phương pháp hành trì, rất là tương hợp với khoa học, Ngày
nay, Phật giáo đã đi vào thế giới Tây phương một cách nhẹ
nhàng, cởi mở và hòa đồng. Cho nên thế giới Tây phương càng
ngày càng hâm mộ Phật giáo về những sắc thái tiến bộ của Phật
giáo, có những khoa học gia thượng thặng ngày nay cũng đã nhận
ra rằng tư tưởng Phật giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc
giải thích những hiện tượng khoa học và dẫn họ đến những tư
tưởng mới và khám phá mới trong khoa học.
-
Quan niệm về: VŨ TRỤ, VẬT LÝ NGUYÊN TỬ, VI TRÙNG
TRỊ LIỆU Y KHOA..v..v.. của Phật giáo hầu như tương hợp hoàn
toàn với những kiến thức ngày naỵ
-
Trên 25 thế kỷ trước, Ðức Phật nói kinh A-Di-Ðà:
-
- Ông Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây có Ðức Phật
Vô Lượng Thọ, Ðức Phật Vô Lượng Tướng, Ðức Phật Vô Lượng
Tràng, Ðức Phật Ðại Quang, Ðức Phật Ðại Minh, Ðức PhậT Bảo
Tướng, Ðức Phật Tịnh Quang, các Ðức Phật như thế nhiêù như số
cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại Nước Các Ngài, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài, che khắp ba nghiệp Ðại Thiên Thế Giới.
-
Các Ðức Phật như thế nhiều như số cát sông Hằng
đó, mỗi vị đang giáo hóa chúng sinh trên vô lượng hành tinh
trong vũ trụ. Năm 1960, giáo sư Drake đã đưa ra một công thưc
để tính số lượng những hành tinh có nền văn minh trong giải
Ngân Hà:
-
N = T x Sht
x Ssv
x Sss
x Svm
x Ssll
x Stt
-
N: Số những nền văn minh trong giải Ngân Hà
-
T: Tỉ số sinh sản của sao trong Ngân Hà
-
Sht:
Số sao loại mặt trời có khả năng có hành tinh. Có những sao
không có hành tinh quay chung quanh
-
Ssv
:
Số hành tinh trong hệ thống sao trên có môi trường thích hợp
với sự sống của sinh vật
-
Sss:
Phần của những hành tinh có khả năng có sinh vật trong đó sự
sống được phát triển thật sự
-
Svm:
Phần của những hành tinh có sự sống thật sự trong đó có một
nền văn minh phát triển.
-
Ssll:
Phần của những xã hội văn minh có khả năng liên lạc với những
nền văn minh khác. Trái đất hiện nay là một quá trình lâu dài.
Sự sống bắt đầu cách đây ba tỉ năm đưới những hình thức vi
sinh vật. Loài người mới xuất hiện cách đây khoảng một triệu
năm.
-
Stt:
Tuổi thọ của xã hội văn minh đó. Khi một nền văn minh phát
triển đến một điểm cao, nó có thể tự hủy bằng những vũ khí
hoặc những tai nạn có sức tàn phá khủng khiếp.
-
Công thức này được giáo sư Drake trình bày ở kỳ họp hội đồng
thiên văn quốc tế năm 1979 tại Montreal, Canada với đề tài
Chiến Lược tìm kiếm sự sống trong vũ trụ.
-
Thật sự trong vũ trụ có hàng tỉ giải ngân hà và nói rằng số
chư Phật đang giáo hóa chúng sinh tại Nước Các Ngài nhiều như
số cát sông Hằng không quá sự ước tính của các nhà thiên văn
hiện tại.
-
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật giáo chúng ta không thể
bỏ qua kinh Hoa Nghiêm, phẩm thế giới thành tựu. Trong phẩm
này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết của mười đặc tính của các
thế giới: Nhân Duyên khởi, chỗ Trụ Nương, Hình Trạng, Thể
tánh, Thanh Tịnh tánh, Trang Nghiêm tánh, Phật xuất hiện, kiếp
trụ, kiếp chuyển biến sai biệt và vô sai biệt.
-
Trong 10 đặc tính của các thế giới, tôi chỉ luận về Hình Trạng
của các thế giới trong giải thiên hà, ngân hà. Chúng ta hãy
đọc đoạn kính văn sau đây: Lúc đó, Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo
chúng rằng chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai
khác, hoặc tròn... hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như
hoa... có vi trần số sai khác như vậy.
-
So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà,
ngân hà khám phá bởi khao học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo
đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác. Thí
dụ như hình nước xoáy, chúng ta có thể quan sát được trong các
chòm sao như Letus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải
ngân hà (milky way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa
là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà
có chứa hàng tỷ ngôi sao...Chúng ta không thể tưởng tượng được
ở một thời chưa hề có kính thiên văn. (Mãi đến thế kỷ XVII,
Galileo (1564-1642) mới chế ra kính thiên văn) mà Ðức Phật và
các vị Dõi Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ
như trên. Có lẽ vì khâm phục tri kiến của chư Phật và các vị
Bồ Tát, nhà bác học lừng danh nhất thế kỷ XX này, Albert
Einstein (1879-1995) viết:
-
-
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ (cosmic
religion)... Bao gồm cả thiên nhiên vật lý và tinh thần...
Phật giáo bao gồm các thứ đó... Nếu có một tôn giáo nào đáp
ứng được yêu cầu của nền khoa học tân tiến, tôn giáo đó chính
là Phật giáo(The religion of the future will be cosmic
religion... cover both the natural and spiritual... Buddhism
answers this description... if there is any religion that
would cope with the modern scientific needs, it would be
Buddhism).
-
Cho tới ngày nay giáo ly của nhà Phật chưa có điều gì ngược
lại với khoa học. Trước đây, một số người đi lễ chùa nghe
Thâỳ tụng Bát Nhã Tâm kinh: Sắc chẳng khác Không, Không chẳng
khác Sắc(Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc), họ không khỏi thắc mắc và hoài
nghi, nhưng từ khi nhà bac học Niels Borh đã nghiên cứu về ánh
sáng và thấy được: Ánh sáng không là Hạt (particle) và cũng
chẳng là Sóng(way) mà nó vừa là Hạt vừa là Sóng, cả hai thứ bổ
túc cho nhau, nó vừa Có vừa Không.
-
Nếu Hạt Sóng là yếu tố căn bản của ánh sáng thì các khoa học
gia đang tìm thành phần nhỏ nhất của vật chất. Mãi đến cuối
thế kỷ thứ XiX các nhà vật lý nguyên tử đã tìm được và khẳng
định rằng thành phần cuối cùng của vật chất là Nguyên Tử và
đặt tên mới bằng tiếng Hy Lạp (Atom) có nghĩa là không thể
chia cắt được nữa. Kích thước của nguyên tử rất nhỏ chỉ bằng
10-8 cm(1
cm có thể sắp xếp 100 triệu nguyên tử). Tin mới này thật ra đã
có từ thời Phật Thích Ca. Ở Ấn Ðộ, thời Phật, danh từ Paramãnu
có nghĩa tương đương với nguyên tử. Một hạt bụi rất nhỏ mà ta
thấy bay vởn vơ trong làn ánh sáng được gọi là Ratharenu. Một
Ratharenu phân làm 36 Tajjaris. Một Tajjaris chia làm 36 Anus
và một Anus chia làm 36 Paramãnus(nguyên tử), như vậy thì
trong hạt bụi nhỏ có 46656 nguyên tử.
-
Ðến đầu thế kỷ XX, các nhà bác học bảo nguyên tử chưa phải là
nhỏ nhất, nó được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn: electron,
proton, neutron . . .
-
Giữa thật niên 60, các nhà bác học lại tìm ra thêm những Phản
Hạt của electron, proton, neutron... người ta gọi những hạt
này là hạt cơ bản(elementary particle).
-
Tới thập niên 70, khoa học tiến bộ hơn, có những máy gia tốc
năng lượng rất lớn, họ đã tìm ra Hạt Quarks 3 hạt quarks mới
bằng một hạt cơ bản. Trong kinh Phật có một danh từ tương
đương với Quark là hạt Lân Hư Trần (nghĩa là hàng xóm của Hư
Không), (Quart có kíck thước 10-16 cm).
-
Những khám phá mới nhất của các nhà bác học nguyên tử ngày nay
vẫn đi sau tri kiến của Phật. Nhưng họ còn kinh ngạc hơn khi
biết được Ngài đã Thấy những vi sinh vật khi bát nước trong
trẻo vừa múc lên từ miệng giếng và Ngài đã Chú vãng sinh cho
những sinh vật bé nhỏ này trước khi uống:
-
-
Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng
-
Mãi hơn 24 thế kỷ sau, bác sĩ Louis Pasteur (1822-1895) mới
tìm ra những vi sinh vật này (vi trùng). Công trình nghiên cứu
đã đưa Pasteur lên đài danh vọng: Ông được tặng thưởng huân
chương Bắc Ðẩu Bội Tinh và được bầu vào Han Lâm viện Pháp
quốc(Academie Francaise). Khi Ông mất, chính phủ Pháp đã tổ
chức quốc táng.
-
Chúng ta thán phục Phật và các chư vị Bồ Tát đã thấy trước
chúng sinh hàng bao thế kỷ vũ trụ, vật lý, vi trùng..v..v..
nhưng chủ yếu của đạo Phật là làm cho chúng sinh bớt Khổ Ðau,
rồi tiến tới An Lạc và Giải Thoát. Thực vậy, Ðức Phật đã tỏ
ra vị thầy thuốc đại tài để chữa bệnh Ðau Khổ cho con Người.
Bác sĩ Carl Jung (1875 - 1961) ông Tổ của ngành phân tâm học
ca ngợi Phật
-
-
Công việc của tôi là chữa trị bệnh đau khổ về tâm thần. Chính
điều này đã đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp của
bậc Thầy vĩ đại của nhân loại mà đề tài chính yếu là sự trói
buộc của đau khổ(My task was to treat psychic suffering and it
was this that impelled me to become acquainted with the view
and the methods of that Great Teacher of humanity, whose
principal theme was the chain of suffering).
-
Ðể cởi trói sự đau khổ, Ðức Phật đã nói kính Tứ Diệu Ðế
(Aryasatyâni) cho 5 người bạn xưa kia đồng tu với Ngài là:
Kondanna, Mahanama, Bhaddiya,Vappa, Assaji về kinh tứ Diệu Ðế
hay kinh Bốn Sự Thật mà Ðức Phật đã nói lần đầu tiên sau khi
thành đạo, gồm có:
-
1- Sự có mặt của khổ đau (Khổ Ðế-Duhkha Aryasatya)
-
2- Sự có mặt của những nguyên nhân của các khổ đau
ấy(Tập Ðế-Samudya)
-
3- Sự chấm dứt khổ đau(Diệt Ðế-Nirdha)
-
4- Con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau hay Ðạo Ðế(Marga) là
con đường Bát Chánh. Bản chất của Bát Chánh Ðạo là nuôi dưỡng
bằng nếp sống tỉnh thức hằng ngày, đó là Chánh Niệm. Chánh
Niệm đưa tới Ðịnh và Tuệ, có năng lực giải thoát con người
khỏi mọi niềm đau khổ và đem lại An Vui.
-
Theo bác sĩ Jung thì đau khổ chính là tâm bệnh mà
Tâm bệnh sinh Nhân bệnh. Vậy Tứ Diệu Ðế là một đơn thuốc
(prescription) để trị bệnh cho chúng sinh.
-
Ðể kết luận tôi xin trích một đoạn văn ngắn của Albert
Einstein:
-
-
Phật giáo không cần duyệt xét quan điểm của mình để cập nhật
hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
phải từ bỏ quan niệm của mình để chấp nhận khoa học bởi vì
Phật giáo bao gồm khoa học và đồng thời cũng vượt qua khoa
học. Phật giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư
tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật giáo đã kíck thích con người
khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính nó và
trong môi trường sống chung quanh nó. Phật giáo siêu việt
vượt qua thời gian. (Buddhism requires no revision to keep it
up today with recent scientific finding. Buddhism needs no
surrender its view to science, because it embraces science as
well as goes beyond science. Buddhism is a bridge between
religious and scientific thoughts, that the stimulates man to
discover the talent potentialities within himself and his
environment. Buddhism is timeless)
-
Nếu không phải vì giác ngộ hoàn toàn nắm vững cơ cấu huyền bí
của vũ trụ thì làm sao có thể biết được những điều vi diệu như
trên; và chúng ta nên nhớ là những điều Ðức Phật và các Bồ Tát
tuyên thuyết cho người đời chỉ là một nắm lá trong tay so với
số lá cây trong rừng.
|