-
Tử Vi, Phong Thủy & Nghiệp Báo
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
--o0o--
-
-
Có người nói Tử Vi(horoscope) là một bộ môn của Thiên Văn Học
(cosmography), nên rất chính xác. Nhờ nghiên cứu vị trí những
ngôi sao ở thời điểm mới sanh(lọt lòng mẹ), nên có thể giải
đoán không sai cho từng người, từng giai đoạn của cuộc đời,
biết trước những việc xấu để tránh, việc tốt để làm, hầu đem
lại lợi lạc tối đa.
-
Nhưng có những người khác lại đặt trọn niềm tin vào địa lý hay
Phong thủy; với việc tìm được Long mạch để đặt mồ mả tổ tiên,
hoặc phương hướng nhà cửa là quyết định cho sự thịnh suy của
môt gia đình, một giòng họ.
-
Quan niệm của một số người hiểu được luật Nhân Quả, Nghiệp Báo
thì bảo rằng; Tử Vi, Phong Thủy chỉ là phần ngọn, còn gốc rễ
của hạnh phúc hoặc khổ đau là Nghiệp Báo.
-
Vậy Nghiệp Báo là gì? Khoa Tử Vi và thuyết Phong Thủy có nằm
trong Nghiệp Báo không? Vị nào đã xướng ra những thuyết nầy?
-
A- Nghiệp Báo
-
Trước tiên, Phật đã nói về Nghiệp Báo. Ngay trong đêm Thành
đạo, hồi canh ba đêm mồng tám tháng chạp cách nay 2591 năm.
Ngài chứng đắc Túc Mạng Minh, biết rỏ tiền kiếp của mình đã
làm gì và phải chịu quả báo ra sao. Ngài còn dùng Thiên Nhãn
Thông có thể trông thấy, những sự vật khác nhau, những chúng
sinh sống trở lại trong nhiều cảnh giới khác nhau, mỗi người
tùy theo Nghiệp hay Hành Ðộng có Tác Ý của mình gồm có:
Thân(Kaya kamma), Khẩu (Vaci kamma) và Ý nghiệp (Mano kamma)
để sẽ nhận lấy Quả (Kamma vipàka) Lành hay Dữ ở những kiếp
sau. Ta hãy theo dõi nghiệp báo cuả một người từ lúc mới chết
cho tới khi tái sanh trở lại ở một kiếp khác.
-
Từ lúc con người mới chết, cho đến 49 ngày gọi là Thân Trung
Ấm (T. T. Â). Trong Phật Giáo Ðại Thừa, nêu ra T. T. Â. là một
người đã chết mà sự sống nơi thân vật lý không còn tồn tại,
nhưng vẫn tồn tại sự sống trong thế giới vô hình. Cái Ngã nơi
T. T. Â. vẫn là cái Ngã nơi thân vật lý. Trước khi chết, người
nầy tên là cậu Hai, con ông Ba thì ở T. T. Â. người nầy vẫn
thấy mình là cậu Hai con ông Ba. Cho đến khi sau 49 ngày, phần
tâm thức tùy theo phước hoặc là nghiệp báo mà đi đầu thai vào
một trong sáu cảnh giới: Trời, Người, A Tu La, Ðịa Ngục, Súc
Sanh và Ngã Quỷ thì T. T. Â. mới tan biến. Sự sống được thành
hình ở một bào thai mới lúc cái Ngã cũ chấm dứt hoàn toàn theo
sự tan biến của T. T. Â. Trạng thái tan biến nầy, luôn luôn
đồng thời với cái lúc Tinh Trùng của cha lọt vào Noãn Cầu của
mẹ, theo kinh tạng Nguyên Thủy gọi là:
-
-
Khi tử tâm tối hậu chấm dứt thì kiếp sinh thức tối sơ xuất
hiện.
-
Cái Ngã cũ đã hết, cho nên người nầy không còn thấy mình là
Cậu Hai con ông Ba nữa. Chuyện kiếp trước bị quên. Người này
mang một hình hài mới, tên họ mới, thân phận mới do Nghiệp đã
tạo sẵn, nên kiếp sống tới của một người sẽ sinh vào một gia
đình nào là điều chắc chắn không có gì thay đổi được. Lúc tử
tâm tối hậu chấm dứt cũng là lúc tinh trùng lọt vào noãn sào
và một kiếp sống mới bắt đầu trong hình thức một bào thai nhỏ
bé mà mắt thường không thể trông thấy. Trong 500 triệu tinh
trùng của người cha có những tinh trùng chỉ mang Nhiễm Thể X,
nếu kết hợp với tiểu noãn sẽ cho ra một bào Thai Nữ. Có những
tinh trùng mang Nhiễm thể Y nếu kết hợp với tiểu noãn sẽ cho
ra một bào Thai Nam, nhưng do Nghiệp của chính người đó sẽ
mang thêm Nam hay Nữ nên khiến cho tinh trùng loại nào sẽ lọt
vào tiểu noãn. Lúc tiểu noãn thụ tinh, các Nhiễm Sắc Thể của
tinh trùng và của Trứng phối hợp thành 46 cái, một số lượng
cần thiết để sự sống có thể xuất hiện. Con người lúc bấy giờ
mặc dù chỉ là Một Tế Bào, nhưng Nghiệp Báo đã bao trùm lấy nó,
vì những Nhiễm Sắc Thể của người cha và người mẹ đã định đoạt
giới tính, màu tóc, màu mắt cũng như vóc dáng của hài nhi
tương lai, cũng chính Nhiễm Sắc Thể này khiến đứa trẻ được
sinh ra trở thành một vĩ nhân hay môt kẻ ngu đần. Những Nhiễm
Sắc Thể có hình xoắn, giống như một dây ngọc, hoặc một dây có
thắt nơ có chứa hàng ngàn phân tử di truyền GENE, cấu trúc bởi
DNA(Deoyribo Nucleic Acid), một chất hóa học chứa đựng bí mật
về sự sống và sự sinh trưởng của con người, hiện nay các nhà
khoa học đang tìm cách giải mã từng chi để biết được nhiệm vụ
của chúng một cách chắc chắn. Những Nhiểm Sắc Thể chứa hàng
ngàn phân tử di truyền có nhiệm vụ rỏ rệt trong từng giai đoạn
của việc sinh trưởng mỗi phân tử di truyền khác. Một số phân
tử di truyền ấn định màu mắt, một số khác ấn định về màu da và
một số nữa ấn định về chiều dài của xương. Con người hưởng thụ
phân nửa nhiễm thể của cha và phân nửa của mẹ, tổng cộng là
46, sự kiện này là nguồn gốc của sự khác biệt giữa những cá
thể trong nhân loại khi những cặp Nhiễm Thể của tiểu noãn được
phân làm hai thì sự Ngẫu Nhiên theo Luật Nghiệp Báo bí mật chi
phối, sẽ định đoạt Nhiễm Sắc Thể nào sẽ bị loại bỏ. Do đó
người phụ nữ có thể truyền lại cho con mình kể cả vóc dáng,
trí khôn hoặc bịnh tật từ tổ tiên và cũng chính sự ngẫu nhiên
theo Nghiệp sẽ phân chia và chọn lựa Nhiễm Sắc Thể của tiểu
noãn và của tinh trùng có thể được phân chia theo 8 triệu kiểu
khác nhau, chính NGHIỆP của đứa bé sắp xếp cuộc tạo dựng quan
trọng này, đầu tiên NGHIỆP của đứa bé đã qui định nó sẽ là con
của bậc cha mẹ nào để có thể nhận lấy tính di truyền và sức
khoẻ, trí khôn, hình dáng của dòng họ đó, rồi NGHIỆP tiếp tục
chi phối phân chia các chi để cho nó có những tính chất khác
hẳn với anh chị em cuả nó. Ở đây luật Nghiệp Báo đã thò tay
sắp xếp từng GENE cho đứa bé khi tinh trùng đã được kết hợp
với tiểu noãn, một tâm thức tối sơ xuất hiện, lúc này đồng
thời với cái chết thật sự ở thân cũ. Trước khi tinh trùng kết
hợp với noãn mỗi bên đã có 23 cặp Nhiễm Sắc Thể chứa đựng các
GENES, các phân tử DNA ấn định sự phát triển về sau các Nhiễm
Sắc Thể đã tạo thành một vùng không gian tâm linh vô cùng nhỏ
nơi GiAO TỬ (trứng hoặc tinh trùng), nhưng chưa đủ để gọi là
tâm thức tối sơ. Tính chất tinh thần của tinh trùng hay tiểu
noãn quá ít ỏi và đơn giản nên không đủ để định nghĩa đó là
một người. Chỉ khi nào tiểu noãn và tinh trùng đã kết hợp năng
lực tâm linh tại đó được nhân bội lên, vì đó đã được hình
thành các GENES các đoạn phân tử DNA để ấn định sự phát triển
của não bộ, lúc đó tâm thức tối sơ của một người mới thực sự
hình thành, tâm thức này càng lúc càng phát triển phức tạp,
dần dần theo sự phát triển của tế bào não. Ban đầu phôi trứng
đã thụ tinh, dường như chỉ có một tâm thức tối sơ cao cấp hơn
bản năng sinh tồn của một tế bào bình thường một chút, đến khi
các tế bào phát triển theo hai cơ cấu thần kinh động vật và
thực vật theo hai bán cầu theo các trung khu. Lúc đó tâm thức
cũng phát triển theo hai cơ cấu Ý THỨC và VÔ THỨC. Qua hai
tháng, não bộ đã phát triển hoàn chỉnh với 15 tỷ tế bào. Ý
THỨC và VÔ THỨC đã dược thành lập xong, tuy nhiên não bộ vẫn
hoạt động thầm lặng, đơn giản. Bào thai ngủ nhiều hơn thức,
thỉnh thoảng bào thai cũng thức dậy vui đùa chút ít rồi lại
chìm vào giấc ngủ say sưa. Nhưng nơi cái não bộ trinh trắng
đó, thật đã mang đủ các mầm mống THIỆN ÁC phức tạp được Ý
NGHIỆP đời trước tạo nên. Những tư tưởng đời trước đã qui định
nhân cách, tính tình cho đời sau. Một số người nghĩ rằng nếu
tư tưởng đời trước tạo ra tư tưởng đời sau, vậy phải chăng có
một loại tâm thức nào đó không bị tiêu diệt theo cái chết, đã
giữ nguyên các hạt giống tư tưởng của đời trước để nhập qua
bào thai mới và như vậy người thông minh sẽ tiếp tục thông
minh, kẻ ngu dốt sẽ tiếp tục ngu dốt. Thật ra, nghĩ như vậy
cũng đúng nhưng chỉ một phần nhỏ thôi, tuy nhiên vấn đề không
đơn giản như vậỵ. Bởi vì theo quan điểm của Phật Giáo đời sống
của vạn loại không phải hiện hữu và chấm dứt trong một vài
đời, mà là triền miên vô tận. Vì thế có thể một người đời
trước là một bác học, nhưng ông luôn đố kỵ với những kẻ có tài
vì sợ họ giỏi hơn mình, kiếp sau ông là một người ngu dốt. Có
thể một người nông dân ít học, nhưng ông biết lo lắng việc học
hành của con cái, thường hay phụ giúp xây cất trường học trong
làng, kiếp sau ông là một người thông minh, học giỏi. Không có
tâm thức nào rời thân cũ, nhập qua thai mới để mang theo các
hạt giống tư tưởng cũ. Chỉ có luật NGHIỆP BÁO tự trong bản thể
qui định tất cả. Nếu đời này chúng ta có được tư tưởng tốt
lành, nhân cách đáng kính, chỉ bởi đời trước chúng ta thường
xuyên ta thán một bậc thánh nào đó, hơn nữa chúng ta thường
tâm nguyện cho đạt được sự cao cả của vị thánh nhân đó. Luật
NGHIỆP BÁO sắp xếp tất cả mà không bị ngăn cách bởi không
gian, vì trong bản thể tất cả vị trí đều chung một chỗ nhưng
không lẫn lộn với nhau. Trong thế giới sinh vật, người ta quan
sát thấy những hiện tượng biến dị không theo một truyền thống,
ví dụ trong một bầy chim lông vàng lại xuất hiện con chim lông
xám măc dù chúng cùng một sự di truyền từ cha mẹ. Những biến
dị này, có nhiều nguyên nhân, hoặc do môi trường, nhiệt độ,
hóa chất, tâm lý... Trong loài người cũng vậy, không phải hễ
là anh chị em thì phải giống nhau, sự biến dị lạ lùng đã khiến
cho anh chị em vẫn có sự khác về hình dáng, tài năng. Ở đây
chính NGHIỆP RIÊNG đời trước đã đạo diễn nên sự sai khác này.
Họ có duyên làm anh chị em với nhau nhưng vẫn cưu mang NGHIỆP
RIÊNG BIỆT cuả mình từ vô lượng kiếp trước, rồi thêm nữa GENE
không phải là đại biểu cho LUẬT NGHIỆP BÁO, nó cũng chỉ là một
móc xích trong chuổi nhân quả mà thôi. Ví dụ một người bị dư
một nhiễm sắc thể, 47 thay vì 46 như mọi người, nên mắc hội
chứng đau. Người này ngu đần, yếu ớt, mặt mày biến dạng. Chính
do NGHIỆP đời trước, nên trong quá trình tạo thành trứng hoặc
tinh trùng của cha mẹ, một giao tử đã dư một Nhiễm Sắc Thể để
dành tặng cho kẻ xấu số kia, đúng vào lúc trứng đó rụng, nó
được thụ tinh và đứa bé ra đời với định mệnh khắc nghiệt. Vì
là bệnh trong Nhiễm Sắc Thể nên rất khó chữa. Biết đâu sau
này do phúc của người bệnh đến lúc tốt đẹp, y học sẽ tìm ra
một phương pháp bỏ bớt một Nhiễm Sắc Thể tai hại kia. Các nhà
khoa học đang lần mò vào từng GENE để thay đổi số phận con
người, những người bịnh do GENE tức là do NGHIỆP CỐ ÐỊNH, khó
chuyển. Biết đâu đến khi đủ phúc, y học sẽ can thiệp vào GENE
để chuyển NGHIỆP cho họ. Chỉ có một cái cố định là LUẬT NGHIỆP
BÁO, một NGHIỆP chắc chắn sẽ có một quả báo, phần còn lại là
do mỗi chúng ta tự chọn cho mình loại quả báo nào bằng cách
gây NGHIỆP ra sao. Nếu muốn cuộc đời mình được nhiều tốt đẹp
hãy cố gắng tạo nhiều nhân lành và gạn lọc tư tưởng của mình
thường xuyên. Nếu NGHIỆP đã in dấu lên diện mạo của một người
thì NGHIỆP cũng in dấu lên thời điểm ra đời của người đó.
-
B- Khoa Tử Vi
-
Khoa Tử Vi xuất hiện từ luận cứ này vào đầu nhà Tống, ngài Hi
Di Trần Ðoàn đã khám phá ra phương pháp lập một Lá Số Tử Vi,
dựa vào Ngày Giờ sinh của một người. Hơn một trăm ngôi sao,
sắp xếp quanh 12 cung. Các Ngôi Sao đó phối hợp lẫn nhau để
nói cái tính chất nào đó, nhưng kỳ thực chúng chỉ là một Ký
Hiệu, một Mật Mã mà thôi (trong Thiên Văn Học không có tên
những vì sao này). Sự phối hợp các mật mã đó mới làm thành một
Câu Văn, một Ý Nghĩa đầy đủ. Ví dụ như trong khoa Tử Vi nói
rằng: Liêm Trinh, Tham Lang đóng tại Cung Tý. Hợi thì khó
thoát khỏi được Hình Ngục, hoặc sao Ân Quang, Thiên Quý đóng
tại cung Sửu Mùi thì Lừng Danh Thiên Hạ.
-
Các nhà Tử Vi chỉ chú trọng vào Quả Báo mà không để ý đến
Nghiệp Nhân, chứ thật ra khi Quả Báo hiện diện tức là Nghiệp
Nhân đã có mặt. Nếu Lá Số Tử Vi nói rằng người đó giàu có, thì
có nghĩa rằng người đó đã từng bố thí rất nhiều trong quá khứ.
Nếu Lá Số Tử Vi nói rằng người đó sẽ gặp thất bại thì nó cũng
có những Ngôi Sao hay ký hiệu để nói lên rằng người này có
tính xấu, ít kiên nhẫn, hẹp hòi v.v..
-
C- Phong Thủy
-
Một khoa thuật khác cũng được chú ý là khoa Ðịa Lý hay Phong
Thủy. Trong lịch sử cổ đại Trung Hoa từng xuất hiện một phong
tục, tập quán hết sức phổ biến, một tín ngưỡng có tính cách
truyền thống, gắn liền với quan niệm cho rằng, việc chọn đất
mai táng tổ tiên(âm trạch) Cũng như chọn đất làm nhà cho người
sống(dương trạch), có quan hệ mật thiết với cuộc sống, tồn
vong, họa phúc của con cháu và những người đang sống. Người ta
thường nói:
-
-
Táng Tiên Âm Hậu
-
Tức là:
-
-
Chọn đất mai táng để tổ tiên phù hộ cho con cháu hưởng phúc
lộc.
-
Tất cả hoạt động có liên quan đến việc chọn đất mai táng, hoặc
đất làm nền nhà được người xưa gọi là Thuật Phong Thủy(Ðịa
Lý). Phong Thủy với ý nghiã chỉ những hoạt động chọn đất mai
táng, hoặc đất làm nền nhà cũng chỉ xuất hiện ở giai đoạn muộn
về sau vào thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều(thuộc thế kỷ III, IV,
V, VI) là giai đoạn thuyết Phong Thủy gắn liền với tên tuổi
của Quách Phác và trước tác nổi tiếng do ông soạn là Táng Thư
hoặc được gọi là Táng Kinh. Ở đời thượng cổ, vào các triều đại
Hạ, Thương, Chu; người ta gọi các hoạt động Phong Thủy là
Tướng Ðịa, Tướng Trạch với ý nghĩa bói quẻ để chọn đất cư trú
hoặc đất mai táng.
-
Trong lịch sử ông Quách Phác đời Tấn là người đầu tiên giải
thích khái niệm Phong Thủy và từ đó thuyết Phong Thủy trở nên
cơ sở lý luận ổn định và phát triển. Trong Táng Thư, Quách
Phác viết:
-
-
Việc mai táng là để tích tụ Sinh Khí. Sinh Khí nhân gặp Gió
thì tan đi, gặp Nước ngăn thì dừng lại. Ý cổ nhân muốn qui tụ
Sinh Khí không cho nó tản đi, khiến cho nó phải dừng lại. Vì
vậy gọi là thuật Phong Thủy.
-
Nhưng Sinh Khí là gì? Sinh Khí theo sự giải thích của sách Lã
Thị Xuân Thu là do Dương Khí thịnh mà phát tiết ra. Sinh Khí
là cái nguyên tố đem lại sức sống cho mọi sinh vật, là cái khí
làm cho mọi vật nẩy nở và sinh trưởng. Sinh Khí luôn tồn tại
và vận hành trong lòng đất. Vì vậy, việc mai táng cũng phải
đưa Sinh Khí trở về với hài cốt. Nơi tích tụ nhiều Sinh Khí là
đất có Long Mạch. Ngôi đất chọn làm Âm Trạch (mai táng tổ
tiên) hay Dương Trạch(nhà ở của người sống) được gọi là có
nhiều Sinh Khí nếu phía sau nó dựa lưng vào ngọn núi cao, được
gọi là Chủ Phong, bên trái có núi gọi là Thanh Long, bên phải
có núi gọi là Bạch Hổ, hai núi này, đứng hộ vệ chầu về núi
chính, tạo thành vòng tay che để chống những luồng Ác Phong
(gió độc), bảo vệ cho Sinh Khí không bị gió xua tan. Phía
trước Âm Trạch hay Dương Trạch cũng được một hòn núi nhỏ án
ngữ gọi là Án Sơn... còn có rất nhiều những Thủ Pháp chuyên
môn những bí quyết nhà nghề rất phong phú, phức tạp và nhiều
khi Thần Bí nữa).
-
Nói một cách đơn giản về Phong Thủy, khi nhìn phong cảnh chung
quanh một ngôi nhà, một ngôi mộ, Nhà Ðịa Lý có thể biết được
vận hưng, suy cuả một gia đình, dòng họ đó, gắn liền với Sinh
Khí, Long Mạch tốt hay xấu. Chúng ta chưa vội phủ nhận hiệu
quả của Khoa Phong Thủy, chỉ cho rằng nếu quả thực việc táng
mả hay làm nhà ở vị trí tốt, khiến cho con cái phát đạt thì nó
cũng không nằm ngoài Luật Nghiệp Báo. Chỉ người có Phúc, có Âm
Ðức, có Nghiệp Lành mới sinh vào gia đình được Âm Trạch tốt,
Dương Trạch khá, còn những người khổ công tìm Ðất mà thiếu
Thiện Nghiệp lại phải sinh qua dòng họ khác bỏ Khu Ðất tốt cho
người khác hưởng hoặc giả, nhiều người thiếu Phước Ðức, có tìm
được Long Mạch cũng kẻ khác có Tiền, có Thế Lực hơn chiếm mất.
Trong sử, không thiếu những chuyện cưỡng đoạt này. Chu Nguyên
Chương(Minh Thái Tổ) sai dời Tường Sơn Tự để xây Hiến Lăng cho
mình. Phụ thân vua Quang Tự nhà Thanh là Thuần Thân Vương cho
xây lăng tẩm trên Pháp Vân Tự, ngôi chùa này có từ đời Ðường
vốn Ðắc Ðịa và được nhiều Phật Tử sùng kính.
-
Cũng vì hiểu được điều này nên các nhà Ðịa Lý đã khuyên: TIÊN
TÍCH PHÚC, NHI HẬU TẦM LONG (trước phải chứa PHÚC ÐỨC, sau mới
tìm Long Mạch) hoặc:
-
-
Phong thủy nhân gian bất khả vô
-
Toàn bằng âm chất lưỡng tương phò
-
Phú quí nhược tùng phong thủy đắc
-
Tái sinh Quách Phác giả nan đồ
-
Phỏng dịch theo ý:
-
-
Phong thủy ở nhân gian chẳng phải là không có
-
Tất cả đều do Âm Ðức giúp
-
Nếu chỉ theo Phong Thủy mà mong được Phú Quí
-
Dù Quách Phác có sống lại thì ý đồ này cũng khó lắm.
-
Nói tóm lại NGHIỆP của mỗi người và của xã hội có liên quan
đến Vạn Tượng, và quả thật nó biểu lộ ra bằng những dấu hiệu
nào đó. Nhiều người đã để tâm và nghiên cứu các dấu hiệu này
và thành hình những khoa thuật chuyên biệt như Tử Vi và Phong
Thủy ..v..v... Ấn Ðộ và Trung Hoa là nơi có nhiều khoa thuật
loại này hơn cả. Tuy nhiên nếu hiểu Nghiệp Báo rồi, chúng ta
chỉ bình tâm Tu Dưỡng Ðạo Ðức và Tạo Nghiệp Lành, mọi chuyện
sẽ trở nên tốt đẹp. Ðó là lý do tại sao trong Ðạo Phật không
chú trọng đến các khoa thuật như trên mặc dù nó không phải
hoàn toàn vô lý như một số người đã phủ nhận.
-
-
Sách
Tham Khảo:
-
1- Phật Giáo Nhìn
Toàn Diện
-
2- Nghiệp Và Kết
Quả
-
3- Văn Hóa Thần Bí
-
4- Tử Vi Ðẩu Số.
|