-
Tổng Quan Phật Giáo Trung Hoa
-
Thông Nghĩa
-
--o0o--
-
-
Sau khi giáo đoàn phân phái cả hai Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa
Bộ đều có sự phát triển theo Nam Truyền thì sự phát triển nầy
từ khoảng Phật Nhập Niết Bàn sau 100-200 năm. Theo Bắc truyền
thì khoảng Ðức Thích Ca nhậpNiết Bàn 100-200 năm có sự phân
chia của Ðại Chúng Bộ và trong khoảngthời gian sau 200-300 năm
có sự phân biệt về mạt phái của Thượng Tọa Bộ, sở mục của các
hệ phái phân biệt theo nam Truyền và Bắc truyền có chỗ không
đồng, nhưng căn cứ vào Dị Bộ Tôn Luân Luận thì sự phân biệt
nầy của Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa có tất cả 20 bộ phái trong đó
tiểu thừa có 11 bộ phái và Ðại Thừa có tất cả là 9 Bộ Phái.
Phật Giáo vào Trung Hoa bằng sự truyền thừa của Phật Giáo Ðại
Thừa là hậu thân của Ðại Chúng Bộ. Trung Hoa là một quốc gia
có ảnh hưởng lớn với các nước lân bang như: Ðại Hàn, Nhật Bản,
Việt Nam... do đó mà muốn hiểu được cơ bản của sự truyền thừa
Phật Giáo vào Trung Hoa thì chúng ta có thể dễ dàng tìn hiểu
sự truyền thừa của Phật Giáo ở các nước lân cận.
-
A- Thời Kỳ Phôi Thai
-
Theo sử liệu ghi chép cho biết, Ðạo Phật vào Trung Hoa rất
sớm. Theo sách Liệt Tử có dẫn lời của đức Khổng Tử:
-
-
Khâu nầy nghe phưong Tây có bậc thánh không trị mà không loạn
không nói mà tự tin.
-
Sách Ngụy Thư Lão Thích Chi có ghi:
-
-
Vua võ Ðế nhà Tây Hán(năm Kỷ Hợi 110 BC-39 AD cộng 149) sai
tướng Hoạt Khử Binh đánh nước Hung Nô, bắt được hình người
bằng vàng dài hơn một trượng, đem về dâng cho Vua, Vua đem thờ
ở trong cung Cam Tuyền thường ngày thắp hương lễ bái.
-
Theo The Way of Lao Tzu dịch và ghi chú bởi Wing Tsit thì Lão
Tử xuất hiện vào thế kỷ thứ sáu hoặc là thứ tư trước Tây Lịch.
Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử là một sản phẩm của thời Xuân Thu
Chiến Quốc(720-481T.L.) Tuy nhiên trường phái của Lão Tử không
có một ai nhắc, mãi cho đến thế kỷ thứ nhất Tây Lịch người ta
mới biết. Ðạo Nho xuất hiện vào thời gian(551-479BC) Thời nhà
Châu; do đó mà khoảng thời gian nầy cũng chưa mấy thịnh hành.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong sách Liệt Tiên Truyện
của Lưu Hướng đời Tây Hán Thanh Ðế có ghi:
-
-
Từ đời Hoàng Ðế đến nay tu đắc đạo có hơn 700 người, nhưng
trong số ấy theo đạo Tiên chỉ có 146 người còn bao nhiêu đều
theo Ðạo Phật. Như trên đã nói người Trung Hoa biết Ðạo Phật
rất sớm nhưng mãi cho đến đời Ðông Hán, niên hiệu Vĩnh Bình
năm thứ 10 lúc đó vào 67 TL. Vua Hán Minh Ðế nhân dịp nằm mộng
thấy Phật, mới sai ông Thái Hâm, Vương Tuân và phái đoàn cả
thảy 18 người qua nước Nhục Chi( quốc gia nầy nằm về phía Tây
của Trung Hoa) để rước Phật về thờ và có mời được hai vị cao
tăng là Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan qua Trung Hoa. Vua
Hán Minh Ðế cho dựng Chùa Bạch Mã để thờ Phật và hai vị Pháp
Sư ở đó dịch kinh truyền đạo. Bấy giờ Phật Giáo được triều
đình Trung Quốc thừa nhận, do đó mà chùa chiền được phép xây
cất và tăng sĩ từ từ cũng rất đông, quyển Kinh được dịch ra
có Hán Văn sớm nhất có thể nói là Tứ Thập Nhị Chưong Kinh. Ðạo
Phật càng ngày càng phát triển, lúc bấy giờ các nhà truyền
đạo, từ Tây Trúc cũng bắt đầu truyền đến, trong số đó có các
ngài: An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sâm, Chi Diệu và Trúc Phật Sóc.
Thời kỳ nầy kinh chữ phạn dịch ra chữ Hán khoảng 300 bộ.
-
B- Thời Kỳ Phát Triển Và Hưng Thịnh
-
Phật Giáo đến Trung Hoa trước sau hơn hai ngàn năm. Ðạo Phật
du nhập trong xứ sở nầy, hoà hợp với người bản xứ rất nhanh,
và đồng thời cũng có những thời kỳ hưng thịnh, suy vong theo
sự đổi thay của vận nước. Ðại để có bốn thời kỳ chính.
-
1- Thời Kỳ Hưng Thịnh Lần Thứ Nhất Từ Tam Quốc Ðến Ðời Tây
Tấn, Thế Kỷ Thứ BA Thứ Tư Tây Lịch.
-
Nhà Ðông Hán mất, Ngụy, Thục, Ngô nổi lên, tức là đời Tam
Quốc. Thời kỳ nầy là thời kỳ phát triển Tỳ Ðàm Tông, Tiểu
Thừa, Hữu Bộ. Mặc dù sự phân chia theo chế độ chính trị khác
nhau, thế nhưng trong nhân gian cho đến Vua Chúa đều quy
ngưỡng về Phật Giáo mỗi nươc như Ngụy, năm thứ hai niên hiệu
Gia Bình đời Vua Ngụy Minh Ðế(năm 250T.L.) thì có Ngài Ðàm Ma
Ca La từ xứ Trung Ấn Ðộ truyền sang và bắt đầu truyền giới
pháp, hay còn gọi là Thập Nhân Thọ về Tứ Phần Luật. Phép Thập
Nhân Thọ nầy là 10 vị Tăng Già truyền giới, trong đó có tam
sư: Hoà thượng, Yết Ma, Giáo Thọ và bảy vị Tôn Chứng. Việc thi
hành giới luật là bắt đầu từ đó. Ðông Ngô thì có Tôn Quyền là
đệ tử quy y của Ngài Khương Tăng Hộ. Ngài Khương Tăng Hội là
một nhà sư người gốc Khương Cư Ấn Ðộ thương theo thân phụ sang
Giao Châu buôn bán, sau đó đến Ðông Ngô.Theo trong sách cũng
có nói khi sang Ðông Ngô Ngài Khương Tăng Hội đã có ghé ở Việt
Nam. Tây Thục thì có ngài Châu Tử Hàng ở Lạc Dương khai đàn
giảng Kinh Bát Nhã. Trung Quốc được công khai giảng Kinh Phật
cho nhân dân nghe cũng bắt đầu từ đó. Nhưng thời bấy giờ kho
tàng Kinh Ðiển vẫn còn trong thời kỳ phôi thai, nên Ngài Châu
Tử Hàng mới qua Tây Vực học và tìm nguyên bản kinh chữ Phạn để
dịch lại. Chúng ta có thể nói Phật giáo Trung Hoa rất sớm trải
qua các triều đại như trước nhà Tây Hán, Ðống Hán, Tam Quốc...
Nhưng chưa phát triển mạnh, mặc dầu trong nhân gian có rất
nhiều người theo Phật. tuy nhiên Phật giáo phải đợi cho đến
đời Tây Tấn( 310TL.) mới được thịnh hành. Mở đầu cho phong
trào có Ngài Phật Ðồ Trừng một vị sa môn từ Tây Vực sang
thuyết pháp, nhân dân mộ theo rất đông có hàng vạn người. Nối
tiếp ngọn đèn chánh pháp, có các đệ tử của Ngài là: Ðạo An,
Pháp Hiền, Trúc Pháp Hải. Phật Giáo bắt đầu hưng thịnh tại
Trung Hoa có thể nói là từ đó. Sau Phật Ðồ Trừng có Ngài Cưu
Ma La Thập. Thời kỳ nầy là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo
Trung Hoa ở giai đoạn đầu và cũng có thể nói là Ngài Ðạo An,
Pháp Hiền và Cưu Ma La Thập là những vị cao tăng vĩ đại nhất ở
thời kỳ nầy, do đó mà về cuộc đời của các Ngài không thể không
tìm hiểu
-
a- Cưu Ma La Thập
-
Cưu Ma La Thập hay còn gọi là Ðồng Thọ. Gọi là Ðồng Thọ là vì
tuổi của Ngài còn quá trẻ mà tài năng và đức độ không thua kém
các vị trưởng lão. Theo Sách Bách Luận Sớ; cuốn thứ nhất có
chép:
-
-
Cha Ngài là Cưu Ma La Viêm, dịch là Ðồng, nguyên gốc là người
Ấn Ðộ, dòng dõi làm quan tướng quốc Ấn Ðộ. Mẹ là Kỳ Bà, dịch
là Thọ, Em gái của Vua nước Cưu Ty(Quy Từ). Như vậy Ngài Cưu
Ma La Thập có tên Ðồng Thọ, ngoài việc chỉ Ngài là người tuổi
trẻ tài cao, còn là cái tên ghép của tên cha và mẹ, như có lần
đã nói Cưu Ma La Viêm là quan tướng quốc (Ấn Ðộ thời kỳ đó)
sau vì chán ngán công danh, phú quý nên từ bỏ cuộc đời phồn
hoa xuất gia theo Phật trên bước đường truyền giáo ra Hải
Ngoại sang phương Ðông đến xứ Thông Lãnh rồi vào nước Quy Từ
nay là huyện Khố Xá tỉnh Tân Cương của Trung Hoa. Ở đây vì
Quốc Vương quý mến nên cầu thỉnh làm Quốc Sư. Nhà Vua có người
em gái tên là Kỳ Bà mới 20 tuổi và rất thông minh. Vì mến tài
và đức của Quốc Sư nên nhà Vua ép gã em gái, sau sanh ra Ngài
Cưu Ma La Thập. Lúc mới lên 7, Ma La Thập đã tỏ ra là một
người có tài năng quán chúng, nhân dịp theo mẹ vào Chùa để đi
xuất gia, thấy bình bát bằng thiếc, ngài lấy đội lên đầu và
tưởng tượng nặng, tức thì cái bình bát cũng nặng thêm bội
phần. Bình bát nặng đến đâu thì Ngài La Thập cũng khoẻ mạnh
đến đó để chịu đựng. Nhân việc nầy mà hiểu được vạn pháp duy
tâm, nghĩa là muôn việc gì cũng chỉ bởi tự tâm mình tưởng, do
tâm mình tạo ra. Vì thấy Ngài còn trẻ mà tinh thông Tam Tạng
Kinh Ðiển, nên Vua nước Cưu Ty Quy Từ cho làm một cái tòa sư
tử bằng vàng để cho Ngài ngồi thuyết pháp.
-
Vua và quân thần hết sức cung kính, và ngưỡng mộ uy đức của
Cưu Ma La Thập. Bây giờ nhà Ðông Tấn(317-419), ông Phù Kiên
hùng cứ đất Thiểm Tây, xưng Vương lấy Quốc Hiệu là Tấn, trong
lúc sắp đi chinh tây, có quan Thái Sư tâu:
-
-
Ở khu vực phía tây có một vì sao rất khác thường, điềm lành đó
chắc có bậc thánh nhân ra đời ở nơi đó. Nghe thế Vua Phù Kiên
nói: Trẫm nghe nói nước Cưu Ty Quy Từ có Ngài La Thập Pháp Sư,
như vậy có phải người nầy không? Sau Vua Phù Kiên sai danh
tướng Lữ Quang thống lãnh bảy vạn tinh binh để chinh Tây.
Trước khi đi nhà Vua có ra lệnh cho tướng Lữ Quang là: Cuộc
hành binh viễn chinh nầy, không phải vì tham lam đất đai,
quyền lợi mà nghe nói bên nước Quy Từ có Ngài La Thập tinh
thông Tam Tạng Kinh Ðiển, thấu suốt cả tánh và tướng của muôn
pháp, nên muốn ruớc về làm Quốc Sư, nhà Vua còn căn dặn tướng
Lữ Quang đưa bức thư nói rõ nguyên nhân trước. Khi nào Vua Cưu
Ty Quy Từ không chịu giao Ngài La Thập thì sẽ dùng binh.
-
Chiến thắng quân Cưu Ty Quy Từ rước Ngài La Thập về đến Lương
Châu, tướng Lữ Quang nghe nói Vua Phù Kiên bị ông Dao Tràng
giết, nên tự tiện chiếm đất Lương Châu và xưng là Tam Hà
Vương, lấy hiệu là nước Lương. Sau Dao Tràng cũng mến tài đức
của Ngài La Thập nên muốn rước, nhưng Lữ Quang không cho. Khi
Dao Tràng mất con là Dao Hưng lên ngôi cũng cữ binh qua nước
Lương rước Ngài La Thập, Lữ Quang cũng không cho, khi Lữ Quang
mất, con là Lữ Long lên ngôi. Lần thứ hai Dao Hưng cử đại quân
qua đón rước Ngài La Thập, Lữ Long đầu hàng và tướng binh nhà
Tấn rước Pháp Sư về Trường An Vua Dao Hưng tôn thờ Ngài làm
Quốc Sư, và xây tịnh thất cho Ngài tại Tây Minh, để kiểm duyệt
lại các kinh, cũng từ đó tuân lệnh chiếu Vua Ngài chuyên trách
về việc phiên dịch Ba Tạng Thánh Ðiển thành Hán Văn. Trải qua
mười ba năm như thế Ngài đã phiên dịch được ba mươi lăm bộ,
gồm có hơn ba trăm quyển kinh sách như: Kinh Bát Nhã, Kinh
Pháp Hoa, Kinh Di Ðà, Luận Thập Tụng, Luận Thành Thật, Luận
Trí Ðộ, Trung Luận, Bách Luận..v..v.. Song song với việc phiên
dịch Kinh Ðiển, Ngài còn dụng tâm duyệt xét những kinh cũ,
thấy phần nhiền sai lệch so với bản văn tiếng phạn. Vì lẽ đó
mà Ngài cho mời các bậc danh Tăng, học giả: Tăng Triệu, Tăng
Duệ, Tăng Lãnh, Ðạo Sanh, Ðạo Dung, Ðạo Hằng, Huệ Quang, Huệ
Nghiêm, Ðạo Thường, Ðạo Phiêu thời kỳ đó được mệnh danh là
Thập Môn Thập Triết, cùng với các danh Tăng khác cộng chung
tất cả là tám trăm người cùng nhau duyệt xét lại các kinh đã
có từ trước, Ngài thị tịch vào ngày 13 tháng 4 năm Hoàng Thỉ
thứ 15(413T.L.), hưởng thọ 70 tuổi.
-
Như trên chúng ta thấy Phật Giáo hưng thịnh ở thời kỳ nầy là
do sự nhiệt tình của các Vua, Quan, dân chúng cũng như chư
tăng ngọai quốc truyền vào rất đông, nhưng Ngài Cưu Ma La Thập
có thể nói là ngôi sao sáng ở thời kỳ nầy. Ðời nầy bắt đầu có
Tam Luận Tôn và Thành Thật Tôn lần lượt xuất hiện.
-
b- Pháp Hiền
-
Năm 399, năm ấy Ngài 60 tuổi vì nhận thấy cuộc sống
tu học thiếu căn bản về giới luật nên Ngài quyết tâm đi Ấn Ðộ
để học hỏi. Những nơi mà Ngài từng đi qua như: Vùng Tây Bắc
Ấn, Phật Thánh Ðịa tại lưu vực sông hằng, vùng phụ cận
Calcutta, đảo Tích Lan. Năm 413 Ngài an toàn về tới Nam Kinh,
như vậy cuộc du hành thỉnh kinh của Ngài trước sau là 11 năm.
Ngài mang về Trung Quốc đủ loại như: Kinh, Luật, và Luận.
-
c- Ðạo An
-
Là đệ tử của Ngài Phật Ðồ Trừng sinh năm 312 T.L.
Năm 12 tuổi đã ở chùa, và xuất gia năm 18 tuổi, sau khi thọ
giới cụ túc ngài chu du khắp nơi học hỏi và giảng đạo, sở
trường của ngài là nghiên cứu về tư tưởng Bát Nhã, phiên dịch
trước tác của Ngài Long Thọ, và Ngài La Thập. Ngài chủ trương
là đệ tử của Phật thì phải lấy họ Thích do đó mà ngày nay
người tăng sĩ ai cũng đều lấy họ Thích
-
2- Thời kỳ Hưng Thịnh Thứ Hai Là Thời Kỳ Nam Bắc
Triều (420-588T.L.) Trong khoảng thời gian nầy có sự suy vong
lần thứ nhất và lần thứ hai.
-
Thời gian nầy có Ngài Huệ Lâm là một trong các cao
tăng học cao hiểu rộng được nhà vua mời tham chánh. Có thể nói
từ trong hoàng cung đến ngoài dân gian ai cũng mến mộ tài của
Ngài cũng trong lúc nầy có nhiều cao tăng từ bên Tây Trúc
sang, và lập nhiều tông phái mới. Trong đó có một tông phái
mới đáng được chú ý đó là Thiền Tôn do Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma cũng
từ Tây Trúc sang. Ngài Tam Tạng Chân Ðế dịch và truyền vào
Trung Hoa Luận Ðại Thừa Khởi Tín lúc đó ở Trung Quốc mới đề
xướng ra pháp môn: Chân Như Duyên Khởi. Ngoài ra còn có Ngài
Ðàm Vô Sấm truyền sang Niết Bàn Tông, Ngài Nam Nhạc lập ra
Thiên Thai Tôn. Ðây là thời kỳ biến đổi hưng thịnh lần thứ hai
tại Trung Hoa. Những vị cao tăng đã đóng góp trong thời kỳ
hưng thịnh nầy thì có rất nhiều, tuy nhiên những vị có ảnh
hưởng lớn trong việc hoằng truyền Phật Pháp ở thời kỳ nầy thì
có Ngài Chân Ðế và Bồ Ðề Ðạt Ma, Ngài Nam Nhạc và Ngài Ðàm Vô
Sấm.
-
a- Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma
-
Theo truyền thuyết Bồ Ðề Ðạt Ma là con trai thứ ba
của một vị Vua ở Miền Nam Ấn Ðộ, ngài thông minh và thâm trầm,
học cái gì cũng hiểu thông tường tận. Sau đó bỏ nhà đi tu và
đắc pháp với Ngài Bát Nhã Ða La, là vị Tổ thứ hai mươi bảy,
tính từ Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Truớc Khi Tổ Bát Nhã Ða La
viên tịch, Ngài có dặn:
-
-
Ngươi hãy tạm giáo hóa ở đây, nước nầy, sau sang Trung Hoa mới
thật là nhân duyên lớn. Nhưng phải đợi ta diệt độ khoảng sáu
mươi năm, sau đó ngươi sẽ đi, nếu đi sớm, sau e có việc không
tốt. Theo lời Thầy dặn Ngài Ðạt Ma ở tại nước nhà đi đây đó để
giáo hóa quần sanh. Người huynh đệ đồng sư với Ngài là Phật
Ðại Tiên cùng chung sức lo Phật sự. Người đương thời gọi hai
Ngài là: Mở Hai Cửa Cam Lộ. Tuy nhiên sau đó môn đồ của Ngài
Phật Ðại Tiên lại chia thành sáu tôn:
-
1- Hữu Tướng Tôn
-
2- Vô Tướng Tôn
-
3- Ðịnh Huệ Tôn
-
4- Giới Hạnh Tôn
-
5-Vô Ðắc Tôn
-
6- Tịch Tịnh Tôn.
-
Thấy sự phân chia ấy mà ngại cho chánh pháp suy vi, Ngài dùng
phương tiện cảm hóa khiến tất cả đều quay về với chánh pháp.
Theo huyền ký của Tổ Bát Nhã Ða La, và thời điểm đã đến, Ngài
xuôi thuyền buôn sang Trung Hoa. Sau ngót ba năm trên biển cả,
thuyền mới cặp bến Quảng Châu, nhằm đời nhà Lương niên hiệu
Phổ Thông năm đầu(năm 20 T.L.). Ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý
Thích Sử tỉnh nầy ra đón Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu
vua Lương Võ Ðế. Vua được sớ liền sai sứ lãnh chiếu chỉ đến
thỉnh Ngài về Kim Lăng Kinh Ðô của Nhà Lương. Sau vài ba câu
chuyện qua lại, Bồ Ðề Ðạt Ma đã biểu lộ khí chất ngang nhiên
của một con người phàm vượt thoát, trong khi đó Vua Lương Võ
Ðế chỉ là một vị Vua ngoan đạo thuần thành, nhưng vẫn chưa
thoát tục, nên không thể lãnh hội được lời chỉ giáo của bậc
cao nhân. Thấy thế Ngài bỏ Vua đi về Giang Bắc. Vượt qua sông
Giang Bắc đi tới Lạc Dương thuộc Hà Nam nhằm vào đời Hậu Ngụy,
Vua Hiếu Minh Ðế niên hiệu Chánh Quang năm đầu năm 520 T.L.
Ngày 23 tháng 11 Ngài ngụ tại Chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn
quay mặt vào vách ròng rã suốt chín năm. Ở đây, nơi thâm sơn
cùng cốc, một học tăng Thần Quang đã đến cầu đạo, mặc dầu đã
đủ mọi nghi lễ mà ngài vẫn ngồi yên lặng ngó mặt vào vách
không màng đến. Không giống như những người truyền đạo của các
tôn giáo khác, vì muốn có tín đồ đông mà phải năn nỉ, cầu
cạnh, dụ dỗ mua chuộc..v..v.. Với thái độ dững dưng đó làm cho
ta thấy Ngài là một con người đặc biệt trong lịch sử tôn giáo.
Ngài có một đời sống khác thường mang một tâm hồn siêu thoát,
xem công hầu khanh tướng như cỏ rác, Ngài là một con người đi
trên thị phi, tầm thường, vượt hẳn ra ngoài những công lệ, phá
hủy những chủ nghĩa công thức đến tận gốc rễ, và nuôi trong
lòng một niềm đau đớn trước sự đi xuống của con người. Có thể
nói Bồ Ðề Ðạt Ma đã làm một cuộc cách mạng toàn diện thổi
luồng sinh khí vào tư tưởng đương thời, để mở đầu một tiến
trình sinh hoạt mới cho thế hệ sau nầy.
-
Từ bỏ quê hương, Bồ Ðề Ðạt Ma đi qua xứ lạ để rao truyền đạo
lý của đấng giác ngộ, tuy nhiên khi vào đất Trung Hoa, lần gặp
Vua Lương Võ Ðế làm Ngài cảm thấy thất vọng. Những tâm huyết
của ngài gần như khô cạn, tiếng nói của người như là tiếng nói
cô liêu trong bãi sa mạc hoang vu. Người đương thời không ai
hiểu nổi, vì thế mà Ngài phải quay mặt vào vách để thiền định
suốt thời gian dài 9 năm âm thầm lặng lẽ không nói năng, đi,
đứng, đôi mắt nhìn trừng trừng vào hư vô thăm thẳm của trần
gian, nhìn vào kiếp người phù du, và đày đọa thống khổ. Thái
độ trầm lặng của Bồ Ðề Ðạt Ma chúng ta thấy con người đó mang
một tâm hồn kiêu hãnh hiên ngang, không quỳ lụy trước hoàn
cảnh mới, dám sống ngoài vòng cương tỏa của xã hội. Lúc đầu
chúng ta cứ tưởng Bồ Ðề Ðạt Ma có những cử chỉ tàn bạo đối với
môn đệ, như những lúc Huệ Khả cầu đạo..v..v.. Nhưng thật ra
những cử chỉ lạnh lùng đó là hành động tích cực nhất để giúp
cho những ai có tâm thành tiến tu trên con đuờng giải thoát.
Và rồi ngài mở đầu cho một tôn phái Thiền Tôn của Phật Giáo
Trung Hoa. Trước khi Ngài an nhiên thị tịch, Ngài truyền cho
Ðệ Nhị Tổ là Huệ Khả, tức là Thần Quang bốn quyển Kinh Lăng
Già và bài kệ:
-
-
Ta sang đến cõi nầy
-
Truyền pháp cứu mê tình,
-
Một hoa nở năm cánh
-
Nụ trái tự nhiên thành.
-
b- Ngài Chân Ðế
-
Vào thời kỳ Vua Lương Võ Ðế, niên hiệu Ðại Ðồng năm
thứ 12, Ngài Chân Ðế do đường thủy mà đến Trung Hoa, lúc đó
thời buổi loạn lạc, do đó mà ngài Chân Ðế cũng phải chạy đi tỵ
nạn khắp nơi, tình trạng như vậy suốt 20 năm. Thấy một thời
gian quá dài mà chưa thực hiện được đại chí hoằng pháp của
mình, do đó Ngài mới có ý niệm trở về cố quốc. Nhưng khi Ngài
đến Quảng Châu thì gặp Ngài Huệ Khải Pháp Sư, ở đây ngài Huệ
Khải thỉnh cầu ngài ở lại giảng bộ Nhiếp Ðại Thừa Luận, sau
hai năm làm việc ngài đã dịch xong bộ luận, và Ngài muốn đi
nơi khác. Tuy nhiên vì Ngài Huệ Khải và Tăng Nhẫn thỉnh cầu ở
lại để giảng dịch Câu Xá Luận nên Ngài đã nhận lời. Lúc bấy
giờ là đời vua nhà Trần tự Văn Ðế niên hiệu Thiên Gia năm thứ
tư ngày 15 tháng giêng thì Ngài dịch và giảng xong bộ Câu Xá
Luân tại Chùa Chế Chỉ. Khi Ngài giảng đến Phẩm Hoặc chưa xong
thì lại phải dời đến Nam Hải. Cho đến tháng 10 mới dịch xong
thành luận kệ một quyển luận văn 20 quyển. Ðến niên hiệu Thiên
Gia năm thứ năm, ngày 2 tháng 2 ngài Huệ Khải và Tăng Nhẫn lại
khẩn cầu ngài Chân Ðế đem luận nầy dịch lại một lần nữa. Ðến
Quảng Ðại nguyên niên, ngày 15 tháng 12, thì bộ luận mới hoàn
thành(hiện tại đang nằm trong Ðại Tạng Kinh). Ðây là lần đầu
tiên bộ luận được dịch sang tiếng Trung Quốc. Ngài Chân Ðế
Pháp Sư dịch kinh điển rất nhiều, đặc biệt là kinh điển có
liên hệ đến Phái Duy Thức Pháp Tướng Học của ngài Thế Thân và
Vô Trước. Trong thời kỳ nầy kinh sách dịch sang Hoa Ngữ phần
lớn đều do ngài Chân Ðế. Về Ngài Ðàm Vô sấm và Nam Nhạc xin
được trình bày ở các tông phái Ðại Thừa
-
c- Thời Kỳ Suy Vong Lần Thứ Nhất Dưới Thời Hậu Ngụy Thái Võ Ðế
(439-450TL.)
-
Giữa thời Nam Bắc triều(420-588TL.) trong lúc Ðạo
Phật đang thời cực thịnh, nhân dân sống cuộc sống an nhàn.
Nhưng đến niên hiệu Thái bình Chân Quân thứ 7 tức là vào
khoảng 446TL. Vua Hậu Ngụy là Thái Võ Ðế, một ông Vua tàn bạo
nghe lời sàm tấu, nên ông tàn sát các tăng lữ, phá hoại Chùa
tháp, kinh tượng đều bị đốt phá. Cai trị được bốn năm thì ông
mất. Văn Thành Vương lên ngôi thấy việc làm tàn ác, vô lý và
mất nhân tâm nên đã truyền chiếu chỉ phục hưng Phật Giáo. Dần
dần các vị Vua kế tiếp cũng có thiện cảm với Phật Giáo nên
cũng hô hào chấn hưng, đạo Phật lại được phục hưng. Trong thời
gian nầy có ngài La Ma Na Ðề dịch và truyền Ðịa Luận Tôn. Ðến
đời Tuyên Võ Ðế(508 TL.) Phật Giáo lại cực thịnh, các cao tăng
từ Tây Trúc đến có khoảng 3000 vị, chùa tháp trong nước có hơn
một vạn, tăng lữ gần hai triệu.
-
d- Thờ Kỳ Suy Vong Lần Thứ Hai
-
Ðến đời Bắc Chu Võ Ðế(574 TL.) Phật Giáo lại bị
ách vận lần thứ hai: Vua bãi bỏ Phật Giáo, dùng Chùa tháp làm
nơi phủ đệ cho các vương hầu, tăng sĩ già thì đuổi về làn dân,
tăng sĩ trẻ thì sung vào quân đội. Dân chúng bị cấm đoán không
cho cúng Phật, thờ Phật. Sau khi Vua Võ Ðế mất, Tuyên Ðế nối
ngôi, lại sắc chiếu phục hưng Phật Giáo. Nhà Vua còn truyền
chiếu chỉ tuyển chọn cao tăng để phiên dịch kinh luận. Nhà Bắc
Chu suy vong nhà Tùy được thiên hạ, Vua, quan, dân ai cũng có
thiện cảm với Phật Giáo, nhờ đó Phật Giáo mới bắt đầu hưng
thịnh trở lại. Ở giai đoạn nầy các Vua, quan ai cũng quy y
Phật Pháp, các tăng lữ trong lúc nầy cũng trước tác rất nhiều
kinh luận.
-
3- Thời Kỳ Hưng Thịnh Thứ Ba. Nhà Ðường(700-900TL. Trong
Khoảng Thời Gian Nầy Có Hai Lần Suy Vong, Lần Thứ Ba & Lần Thứ
Tư.
-
Nhà Tùy suy nhà Ðường nổi dậy, Vua Ðường Cao Tổ
cũng sùng tín Phật Giáo, tuy nhiên có quan Thái Lịnh là Phó
Dịch bảy lần dâng sớ bài bác Phật Giáo nên Vua Cao Tổ phải hạn
chế việc xây Chùa và truyền đạo.
-
a- Ðường Huyền Trang
-
Sau Vua Cao Tổ là Lý Thế Dân nối ngôi hiệu là
Ðường Thái Tôn(700-900 TL.), đời nầy nhân dân an cư lạc
nghiệp, đường xá giao thông với ngoại quốc cũng được mở rộng,
nên không những Phật Giáo hưng thịnh mà các giáo phái của
ngoại quốc cũng được truyền vào như Tiên Giáo, Ma Ni Giáo, Hồi
Giáo ..v..v.. Trong khoảng thời gian nầy, ngài Ðại Tam Tạng
pháp Sư Huyền Trang phát nguyện sang Thiên Trúc để cầu kinh.
Lý do là kinh điển Phật giáo bấy giờ phần lớn đều bị các vua
chúa thiêu hủy, tuy có dịch lại ở những lần phục hưng, nhưng
phần lớn đều bị thiếu xót thất lạc. Cuộc Tây Du của Ngài Huyền
Trang nhằm ba mục đích rõ rệt:
-
1- Chiêm bái Phật Ðịa
-
2- Nghiên cứu Phật Lý
-
3- Sưu tầm Kinh Ðiển
-
Vào tháng 8 niên hiệu Trinh Quán thứ ba năm 629
TL. Pháp Sư một mình một bóng khởi sự cuộc hành trình, mặc dầu
các bạn của Ngài ai cũng đều bỏ cuộc. Lùc bấy giờ Ngài 26
tuổi. Từ Trường An thủ đô của Ðại Ðường, Ngài đi Tây Du cầu
pháp đã thành tựu trở về Trung quốc.Trong thời gian ở Ấn Ðộ
ngài đã đi trên 130 quốc gia. Nơi nào Ngài nghe nói có Ðức
Phật đã đặt chân đến giáo hóa thì Ngài cũng có mặt ở đó. Ðặc
biệt những Phật tích như: Rừng Nê Hoàn Kiên Cố, Gốc Bồ Ðề Hàng
ma, Tháp Ca Lô, Núi Lưu Ảnh Na Kiết ..v..v.. không có Phật
tích nào mà Ngài không đặt chân tới đảnh lễ. Trong thời gian
du học đó, đặc biệt ngài lưu lại Trung Ấn Ðại Học Na Lan Ðà
thuộc nước Ma Kiệt Ðà 5 năm, ở đây Ngài được Luận Sư giới Hiền
đem hết sở học truyền trao cho. Ngài tinh tấn tu tập không bao
giờ giải đãi. Trên đường về lại Trung Quốc, Ngài có ghé tại
Vilasana để thăm lại hai người bạn cũ là Sư Tử Quang, và Sư Tử
Nguyệt. Trong chuyến trở về nầy, lúc đầu có khoảng 100 vị tăng
sĩ đi theo ngài, nhưng vượt qua khỏi núi Tuyết Sơn thì đoàn
tăng lữ chỉ còn lại bảy vị tăng, 20 người hộ vệ, một voi, 10
lừa, và 4 ngựa. Những người có công hộ tống Ngài Huyền Trang
trở về Trung Quốc thì rất nhiều, nhưng đoàn người cuối cùng
đưa Ngài đến xứ Navapa của đất Lâu Lan để đi vào nội địa Trung
Quốc thì chỉ có đoàn người của Vua Kustana. Pháp Sư Huyền
Trang về đến Trung Quốc vào tháng giêng mùa Xuân niên hiệu
Trinh Quán 19 (645 TL.). Pháp Sư đã mang về Trung Quốc:
-
1- 150 hột Xá Lợi Phật
-
2- Một tượng Phật theo mẫu đứng trong hang Long
Khốt trong núi Chánh Giác. Ma Kiệt Ðà cao độ 3 bộ 4 tấc Anh
tính luôn cả đế.
-
3- Một tượng Phật gỗ bằng trầm hương, trình bày
Ðức Phật Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên tại
Varanasi.
Tượng cao 3 tấc 5 Anh kể cả đế.
-
4- Một tượng Phật bằng gỗ trầm hương do Vua
Udajana xứ Kausambi tạc cao 2 tấc 9 Anh gồm cả đế.
-
5- Một tượng Phật bạc cao 4 tấc Anh cả đế, tạc
hình Ðức Như Lai từ cung trời giáng xuống Ca Tỳ La Vệ.
-
6- Một tượng Phật vàng cao 3 tấc 5 Anh kể cả
đế,tạc hình Ðức Phật đang thuyết Kinh Pháp Hoa và những kinh
khác trên đỉnh núi Linh Thứu Phong xứ Ma Kiệt Ðà.
-
7- Một tượng gỗ trầm hương cao 1 tấc 3 Anh kể cả
đế, tạc hình Ðức Phật khắc phục mãng xà ỡ Nagaraha.
-
8- Một tượng Bổn Sư bẳng gỗ trầm giống như lúc
Ngài đi khất thực quanh thành Veisali và vài tượng khác. Về
kinh điển, Ngài mang về 224 bộ Kinh Ðại Thừa, 192 bộ Luận Ðại
Thừa, 15 bản của phái Thượng Toạ Bộ, 15 bản của phái Ðại Chúng
Bộ, 15 bản của phái Chánh Lượng Bộ, 22 bản của phái Di Sa Tắc,
17 bản của phái Ca Thấp Di La, 42 bản của phái Pháp Mật, 67
bản của phái Nhất Thiết Hữu Bộ, 36 bộ Nhân Minh Luận, 13 bộ
Thanh Minh Luận. Tổng cộng 520 hòm có tất cả 675 cuốn. Ngài
phải dùng 20 con ngựa để chuyên chở tấtcả các kinh điển như đã
nói từ nước Kustana vào nội địa Trung Quốc. Tính đoạn đường
ngài đi từ Tràng An đến Vương Xá Thành, chu du các nước cho
tới lúc trở về Trung Hoa mất 17 năm và Ngài đã đi 8,333 dặm
Anh(Khoảng chừng 10,000 Km) Ðường Thái Tôn là người rất mến mộ
Phật Giáo và trọng kinh điển, nên Ngài đã ban cho Pháp Sư ở
Chùa Ðại Từ Ân và Chùa Hoằng Phước để dịch kinh truyền đạo.
Nghỉ một thời gian rất ngắn, Ngài bắt đầu sự nghiệp phiên dịch
kinh luận từ năm Trinh Quán thứ 19 tháng 3 đến năm Long Sóc
thứ 3 tháng 10 Ngài mới nghỉ. Tính ra trong suốt 19 năm phiên
dịch ngài chưa hề gián đoạn. Ngài hết sức truyền bá chánh
pháp, nên Phật Giáo được hưng thịnh lẫy lừng trong khắp nhân
gian. Ðây là thời kỳ hưng thịnh lần thứ ba của Phật Giáo Trung
Hoa.
-
Có thể nói trong lịch sử các cuộc hành hương Phật Tích, chỉ có
cuộc hành hương của Pháp Sư Huyền Trang là quyến rũ, ly kỳ
nhất, bởi khoảng thời gian của cuộc hành trình 19 năm, bởi
những gian nan nguy hiểm ở dọc đường, bởi số lượng các nước
Ngài đã đi qua, bởi những tường thuật Ngài để lại đã là nguồn
cảm hứng bất tận cho các học giả.
-
b- Ngài Nghĩa Tịnh
-
Sau Vua Cao Tổ đến Võ Tắc Thiên Hoàng Ðế cũng sai
sứ qua Khotan và Kustana cầu Kinh Hoa Nghiêm thêm, và các kinh
điển chữ Phạn và đồng thời cũng mời Ngài Thật Xoa Nan Ðà về
dịch kinh chữ Phạn và Ngài Bồ Ðề Lưu Chi Tam Tạng dịch Kinh
Hoa Nghiêm. Số lượng Kinh Hoa Nghiêm dịch 80 quyển gọi là Thập
Bát Hoa Nghiêm do bà Võ Tắc Thiên đích thân đề tựa và viết bài
Kệ Khai Kinh:
-
-
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
-
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
-
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
-
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa.
-
Dịch Là:
-
- Pháp Phật cao siêu rất nghiệm mầu
-
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
-
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
-
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nghiệm mầu.
-
Trong thời gian nầy Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng cũng phát tâm qua
Ấn Ðộ du học và cầu kinh. Trong cuộc hành trình sang Ấn Ðộ
thỉnh kinh, từ năm 671 Ngài đi bằng đường thủy từ Quảng Ðông,
cho đến năm 673 Ngài đến vùng Calcutta, sau đó lưu trú tại Ðại
Học Na Lan Ðà 10 năm. Năm 685 Ngài trên đường trở lại Trung
Hoa cũng bằng đường biển, cho đến năm 695 mới về đến cố quốc.
Trên đường về Ngài có ghé lại đảo Sumatra và trước tác 2 quyển
Kiến Văn Kục. Sự nghiệp phiên dịch của Ngài Nghĩa Tịnh được 60
bộ cộng tất cả là 230 quyển. Trong số đó có:
-
-
Kim Quang Minh Kinh thuộc Phật Giáo Ðại Thừa
-
-
Nam
Hải Kỳ Quy Nội Pháp Truyền: Nội dung nói về cuộc sống các tăng
sĩ Phật Giáo Ấn Ðộ và vùng Nam Hải.
-
-
Ðại Dương Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện: Nội dung nói cuộc
sống của 16 vị tăng của Trung Hoa và các quốc gia lân cận sang
Ấn Ðộ. Nhờ có sự ghi chép của Ngài Nghĩa Tịnh mà ngày nay
chúng ta mới biết được hành trình của chư Cao Tăng đã hy sinh
cao cả cho công cuộc tìm đạo và truyền đạo tại Ấn Ðộ, và từ Ấn
Ðộ sang Trung Hoa. Bên cạnh Ngài Nghĩa Tịnh ta còn thấy hết
dời Vua nầy đến đời Vua khác, Vua nào cũng ủng hộ Phật Pháp,
tăng sĩ có nhiều người Tây Du, hoặc phiên dịch nên Phật Giáo
càng ngày càng hưng thịnh.
-
c- Thời Kỳ Suy Vong Lần Thứ Ba
-
Như tất cả mọi người chúng ta ai cũng biết đời
Ðường là thời kỳ cực thịnh của lịch sử Phật Giáo Trung Hoa,
các vua chúa ở đời nầy đều quy y Phật. Ðến đời Võ Tôn sau Võ
Tắc Thiên là ông Vua sùng mộ Lão Giáo, nghe lời các đạo sĩ xúi
dục nên đã thẳng tay đàn áp Phật Giáo. Trong thời kỳ pháp nạn
lần thứ ba nầy có tới 44,600 ngôi Chùa bị phá hủy, và 265,000
tăng sĩ bị bắt buộc hoàn tục. Những pháp khí như chuông đồng,
khánh, lư nhang, chân đèn đều bị tịch thu để đúc tiền. Võ Tôn
mất, Vua Tuyên Tôn lên ngôi lại ra lệnh tu bổ chùa tháp, chấn
hưng Phật Giáo. Thời kỳ chấn hưng lần nầy có thêm các tôn phái
mới tại Trung Hoa như là: Tịnh Ðộ, Câu Xá, Luật, Hoa Nghiêm,
và Chân Ngôn Tôn.
-
d- Thời Kỳ Suy Vong Lần Thứ Tư
-
Nhà Ðường suy, thiên hạ thay nhau cai trị là đời
Ngũ Ðại: Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu.
Trong thời gian nầy chiến tranh triền miên, dân tình rối loạn.
Ðạo Phật cũng bị ảnh hưởng bởi thời cuộc. Nhưng nếu chỉ có
chiến tranh loạn lạc, thì Phật Giáo cũng không đến độ xuống
dốc một cách bi thảm. Phật Giáo suy tàn ở giai đoạn nầy là do
một tay phá phách của Vua Thế Tôn nhà Hậu Chu không thích Phật
Giáo cho nên đã ra sắc lệnh phá hủy đến 30,336 ngôi chùa tháp,
các tượng Phật bằng đồng, khánh, lư nhang, chân đèn, đều bị
đem ra đúc tiền. Các kinh điển bị thất lạc gần hết. Tình trạng
suy đồi đó mãi cho đến nhà Tống được thiên hạ lúc bấy giờ Phật
Giáo mới bắt đầu khôi phục trở lại. Những Chùa, Tháp, tượng
Phật ngày xưa nay lại được trùng hưng. Nhà Vua cũng sắc chỉ
cho sứ qua Cao Ly và Tây Vực thỉnh kinh và chư Pháp Sư về
giảng đạo. Ðời nhà Tống Phật Giáo có phục hưng nhưng so với
thời thịnh Ðường thì còn thua kém rất nhiều.
-
4- Thời kỳ Hưng Thịnh Lần Thứ Tư
-
Nhà Tống mất ngôi, nhà Mãn Châu trị vì thiênhạ.
Mông Cổ, Hốt Tất Liệt diệt Kim và nhà Nam Tống thống nhất
thiên hạ, lập ra nước Nguyên. Các vị vua của nhà Nguyên cũng
sùng Ðạo Phật. Tuy nhiên phải đợi cho đến nhà Nguyên mất ngôi,
nhà Minh trị vì Phật Giáo mời bắt dầu hưng thịnh. Minh Thái Tổ
lúc nhỏ đã từng là một vị sa di trong cửa thiền. Do đó khi lên
ngôi ông hết lòng ủng hộ Phật Pháp. Ngài quy định Pháp tắc cho
tăng lữ, đặt ra ty Tăng Cang, Tăng chánh, Tăng Hội ..v..v..
Những chức tước mà có ngày hôm nay cũng bắt nguồn từ đó. Dưới
thời Minh Thái Tổ cũng có nhiều tăng sĩ phiên dịch và trước
tác Kinh Luận nên Phật giáo lại được trùng hưng.
-
Nhà Minh suy, nhà Mãn Thanh được thiên hạ, các vị vua của Mãn
Thanh cũng sùng tín đạo Phật, nhưng không có gì đặc sắc. Trong
thời kỳ nầy Phật Giáo cũng từ từ suy tàn.... Cho đến khi Tôn
Văn đề xướng thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa, tiêu diệt nhà Mãn
Thanh, lập nên Dân Quốc, trong thời gian nầy dân chúng bắt đầu
ảnh hưởng văn minh của Tây Phương. Càng ảnh hưởng văn minh của
Âu Tây, thì Phật Giáo lại đi vào con đường nghiên cứu nhiều
hơn. Ðể phổ cập vào đời sống nhân sinh nhiều hơn nên về sau
nầy Chư Tăng và các Cư Sĩ có kiến thức Phật Học uyên thâm cũng
hô hào đẩy mạnh phong trào trùng hưng thời bấy giờ như các
ngài: Ðế Nhàn Pháp Sư thành lập giảng đường Chùa Quán Tôn, ở
Ninh Ba Chiết Giang. Ở Võ Xương Hồ Bắc có Phật Học Viện do
Thái Hư Ðại Sư diễn giảng, ở Tô Giang có Phật Học Viện Hoa
Nghiêm, ở Nam Kinh có Nội Học Viện do Âu Dương Cảnh Vô chủ
giảng, và các Tạp Chí như Phật Học Tùng Báo, Hải Triều Âm, Cư
Sĩ San Lâm ..v..v.. lần lượt xuất hiện.
-
Nói tóm lại Phật Giáo Trung Hoa có những lúc cực thịnh như các
triều đại: Nhà Tây Tấn, Nam Bắc triều, Thạnh Ðường, và Nhà
Minh, và những thời đại suy vong được các nhà viết sử Phật
Giáo thường nói tóm gọn là: Tam Võ Nhất Tôn Chi Ách. Nghĩa là:
Ba ông Vua hiệu: Hậu Ngụy Thái Võ Ðế, Bắc Chu Võ Ðế, Ðường Võ
Tôn, và Hậu Chu Thế Tôn như đã nói ở trên. Sau nhà Hậu Chu là
nhà Minh, Phật Giáo được trùng hưng không thua kém thời Thạnh
Ðường, có thể nói đó là lần trùng hưng cuối cùng của Phật Giáo
Trung Hoa.
|