CÁI DIỆU DỤNG CỦA SÁM HỐI
Thông Trí
--o0o--
 
            Ðường đi từ Ðông Ðô qua Tây Phương tới mười muôn ức cỏi Phật. Ðường đi từ Phàm lên Thánh phải trải qua nhiều gian nan trắc trở mới đạt được đạo quả. Xa nhưng không có nghĩa là không tới. Khó nhưng không có nghĩa là không làm được.  Nhìn tấm gương của chư Phật, chư Tổ, đã đi qua chúng ta sẽ không nghi ngờ thắc mắc. Ở điểm này nếu là một người cầu an hay khiếp nhược thì sẽ phân vân nghi ngờ, nhưng nếu là một con người có nghị lực, biết hướng thượng và hướng thiện thì sẽ nhứt quyết làm cho bằng được bởi vì:
            - Bỉ ký trượng phu ngã diệt dĩ
            Có nghĩa là:
            - Người kia đã là bậc trượng phu, thì tôi cũng sẽ như vậỵ
            Ðức Phật ngài cũng đã từng dạy:
            - Ta là Phật đã thành
            Các con là Phật sẽ thành.
            Ðây là lời dạy đầy khích lệ. Con người của Thái Tử Tất Ðạt Ða, cũng như bao nhiêu người khác, nhưng nhờ sự dũng cảm kiên trì mà đạt thành đạo quả. Ngày nay, nếu chúng ta noi theo gương người, chắc chắn sẽ có kết quả. 
            Ngày xưa một Thái Tử Ðạt Ða, tự mình tìm ra ánh đạo, con đường giải thoát, người phải trang trải rất nhiều tâm huyết mới thành tựu. Ngày nay chúng ta chỉ có một con đường duy nhất là thực hành theo lời dạy của Ngài, vậy mà chúng ta vẫn thấy khó, là vì thật sự chúng ta chưa quyết tâm, hơn nữa cũng chưa thông suốt được giáo pháp của Phật. Trong giáo pháp của Phật ngài dạy rất nhiều, nhưng tất cả chung quy ngài đều nói nguyên nhân trói buộc, lôi cuốn chúng ta vào luân hồi sanh tử, trầm luân khổ hải và cách giải thoát. Có rất nhiều nguyên nhân và sự kiện, nhưng tất cả đều do thân, khẩu, ý tam nghiệp mà ra. Kiểm soát được thân khẩu ý là chúng ta sẽ tránh được phiền não sanh tử.
Có ba lớp người, một lớp người từ khi sanh ra cho đến khi mất chưa bao giờ cố tình tạo tội, hạng người này tương đối thánh thiện. Lớp người có tạo tội, nhưng sau đó biết ăn năn sám hối. Lớp người thứ ba là lớp người chỉ biết tạo tội mà không biết sám hối ăn năn, lớp người này tiêu diệt Phật tánh, Phật gọi là Nhất Xiển Ðề.  Trong ba lớp người trên, lớp người Thánh Thiện và Nhất Xiển Ðề, xin tạm gác lại. Ở đây chúng tôi muốn nói đến lớp người có tạo tội và biết hối lỗi. Theo trong kinh Thủy Sám có nói: Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không ai là không tội, không ai là không lỗi, tuy nhiên nếu biết sám hối thì tội nào cũng diệt phước nào cũng sanh. Như thế nào được gọi là sám hối?  Sám hối đây không phải nhờ ở một đấng thiêng liêng siêu hình nào che chở mà phải tự mình ăn năn những lỗi mình đã làm từ trước, quyết định dứt khoát chừa bỏ lỗi chưa làm. Trong kinh Lương Hoàng Sám Ðức Phật cũng dạy:  Người mà biết ăn năn thì trước hết là phải vận dụng hai tâm lý thì chắc chắn tội lỗi nào cũng diệt được. Hai tâm lý đó là Tàm và Quý. Tàm là hổ với chư Thiên, Quý là thẹn với loài người. Tàm là tự mình sám hối diệt sạch oán đối, Quý là khuyến khích người khác giải tỏa oán kết. Tàm là tự làm các điều thiện, Quý là tán đồng các người khác làm. Tàm là trong thì rất tự thẹn, Quý là ngoài phát lồ với người. Chính nhờ hai đức tính Tàm Quý nầy có cái năng lực làm cho hành giả cái vui vô ngại. 
            Ngoài việc vận dụng hai tâm lý Tàm Qúy ra, hành giả còn phải thật hành một trong bốn pháp sám hối chân chánh theo quan điểm của Phật dạy:
01- Tác Pháp Sám Hối
Pháp Sám Hối này thuộc về sự, người có lỗi phải lập đàn và cung thỉnh
thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là Tác Pháp. Khi vào giới tràng, mình phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa.
02- Thủ Tướng Sám Hối
Pháp này thuộc về sự, khó hơn Tác Pháp Sám Hối. Phật chế pháp này, là pháp sám hối thuộc về quán tưởng. Muốn thực hành pháp này, hành giả phải đến trước Phật hay Bồ Tát thành tâm lễ bái, trình bày những tội lỗi đã phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ một ngày, ba ngày, bảy ngày, bốn mươi chín ngày, hay nhiều hơn nữa... cho đến khi nào mình cảm thấy đủ thì thôi.
03- Hồng Danh Sám Hối
Pháp Hồng Danh Sám Hối này cũng thuộc về sự do ngài Bất Ðộng Pháp Sư đời nhà Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong kinh Ngũ Thập Tam Phật, tức là đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhứt Thế Pháp Tràng Mãn Vương, và rút 53 hiệu Phật trong kinh Quán Dược Vương Dược Thượng với pháp thân đức Phật A Di Ðà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Ðại Nguyện thành nghi sám hối tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền não.
            Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, thì sẽ diệt trừ được những phiền não và tội lỗi đã tạo, trong hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ. Ðức Phật Tì Bà Thi nói: Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, thì trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác. Ðức Phật Thích Ca cũng nói: Thưở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm thời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu của 53 vị Phật nầy, và thành tâm lễ bái mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp. Còn 35 danh hiệu Phật sau, từ đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương thì trong kinh Bửu Tích nói: Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật nầy và lễ bái thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ. 
04- Vô Danh Sám Hối
Pháp này thuộc về lý sám hối, rất cao và rất khó, chỉ có bậc thượng căn mới có thể thực hành được. Pháp này có hai cách.
            - Quán Tâm Vô Sanh: Nghĩa là quan sát tự tâm mình hiện tiền không sanh. 
Kinh Kim Cang nói:
Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không. Cứ như thế mà quán trong ba thời gian đều không có tâm, thì vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có, thì các tội lỗi cũng không.  Nếu trong kinh nói:  Tội từ nơi tâm sanh, mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không sanh, thì tội kia cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối.
            - Quán Pháp Vô Sanh: Nghĩa là quán sát thật tướng tức là chơn tánh của các pháp không sanh. Chữ thật tướng, nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối, từ xưa tới nay nó vẫn thường như thế không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt từ xưa cho tới nay, nên gọi là thật tướng (tướng chơn thật ). Nó cũng có tên là chơn như hay chơn tâm. Khi nhận được thật tướng  rồi thì các giả tưởng đều không còn. Lúc bấy giờ những tội lỗi giả tướng kia, không còn gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong kinh Quán Phổ Hiền có nói: Muốn sám hối phải quán thật tướng của các pháp, thì tội mới hoàn toàn tiêu diệt.
            Trong các pháp sám hối của Ðạo Phật mặc dù có lạy, có quì, có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin, mà trong cái lạy ấy chứa một nguồn năng lực nội tại vô biên, một sức đề kháng cả tinh thần lẫn thân thể trong việc cảnh giác:
            - Làm phát triển tánh thành thật
            - Có thái độ cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu
            Phương pháp sám hối mà đức Từ Phụ đã chỉ dạy từ thời xa xưa cho tới bây giờ đã và đang được các đệ tử của Ngài phụng trì tín cẩn. Chí thành sám hối với Tàm-Qúy, hai tâm lý ấy nó đã đóng một vai trò lớn trong việc quán chiếu nội tâm, có thể nói là một động cơ lớn thúc đẩy hành giả trong việc khai phá nguồn giác ngộ nột tại như theo hệ thống kinh tạng Pali, đức Phật có đề cập đến một vị Trưởng Lão tên Pothila. Vị Trưởng Lão nầy lão thông Tam Tạng Kinh Ðiển, và cũng là thầy chỉ đạo của 500 vị Tỳ Kheo. Mặc dầu Ngài lão thông kinh điển nhưng chưa chứng đạo, vì vậy để gián tiếp khích lệ ông về phương diện tu chứng nên Ðức Phật đã đặt cho một cái tên là Pothila Rỗng. Ðiều nầy như gián tiếp nói cái kiến thức của Trưởng Lão Pothila mà không có sự thực chứng, giống như cái trống tuy kêu to nhưng bên trong trống rỗng không có gì hết. Ðối với người học Phật, cả nội tại lẫn ngoại tại phải đi đôi. Vì thế mà khi nghe Ðức Phật kêu mình là Pothila Rỗng thì vị Trưởng Lão nầy như bị đả kích mãnh liệt, ông tự suy nghĩ: Ta là thầy của 500 vị Tỳ Kheo khác mà chưa chứng quả thì làm sao hướng dẫn họ? Bâng khuâng suy nghĩ mãi cuối cùng Trưởng Lão Pothila quyết định: Ta phải vào rừng để tu thiền định. Thế là chiều hôm đó, sau khi giảng kinh xong, đợi lúc trời tối nhá nhem, Trưởng Lão Pothila mang y bát, nối gót theo nhóm thính chúng cuối cùng ra khỏi pháp đường. Các thầy Tỳ Kheo khác ngồi trong phòng đọc kinh, nhưng chẳng hề hay biết gì về vị Pháp Sư thầy dạy của mình. Sau khi rời khỏi pháp đường một đoạn đường khá xa, Trưởng Lão Pothila gặp một cụm rừng là nơi ẩn cư của 30 vị Tỳ Kheo thuộc nhóm tu khác. Ở đây Trưởng Lão Pothila đến chào vị Trưởng chúng và thưa:
            - Bạch Trưởng Lão xin ngài hãy chỉ dạy cho con.
Trưởng Lão Pothila là một vị giảng sư nổi tiếng nên tất cả mọi người ai cũng biết, do vậy vị trưởng chúng nói:
            - Này Tôn Giả, ngài là một vị giảng sư nổi tiếng, chúng tôi còn phải học với ngài, sao ngài lại nói thế.
            - Thưa Trưởng Lão xin ngài đừng từ chối, xin ngài hãy chỉ dạy cho con.
Tất cả các vị Tỳ Kheo ngụ tại khu rừng này đều đã đắc A La Hán, vị Trưởng Lão nghĩ thầm: Ông sư nầy là người học rộng, có lẽ ông đầy lòng kiêu hãnh, nên thầy từ chối chỉ dạy và gởi Pothila xuống đệ nhị tòa. Gặp vị sư đệ nhị tòa, Pothila cũng cung kính xin học hỏi, nhưng sư đệ nhị tòa lại đẩy sang đệ tam tòa. Và cứ như thế cho đến người nhỏ nhất trong chúng, một chú tiểu 7 tuổi đang ngồi khâu áo. Kiên chí của Pothila cũng tụt dần đến mức thấp nhất. Trưởng Lão Pothila đến bên chú tiểu chấp tay cung kính:
            - Thưa tôn giả, xin ngài hãy chỉ dạy cho con
            - Ồ Pháp Sư, ngài nói gì thế? Ngài lớn hơn tôi về tuổi tác cũng như học thức, tôi còn phải học thêm ở ngài nữa mà.
            - Bạch Tôn Giả, xin ngài đừng từ chối. Hãy chỉ dạy cho con.
            - Thưa Tôn Giả, nếu ngài đủ kiên nhẫn làm theo lời tôi, tôi sẽ hướng dẫn ngài.
            - Con sẽ kiên nhẫn tất cả. Nếu ngài dạy con nhảy vào lửa, con cũng sẽ nhảy theo.
            Nhìn bộ y phục đắt gía của Pothila, chú tiểu chỉ cái ao gần đó:
            - Xin ngài hãy để nguyên y phục nhảy xuống ao
            Chú vừa dứt lời, Tôn Giả Pothila đã nhảy xuống ao.
            Thấy y phục của vị Trưởng Lão nầy đã ướt đẫm chú tiểu bảo:
            - Hãy leo lên
            Trưởng Lão Pothila liền leo lên đứng cạnh cung kính trước mặt chú tiểu, chú giảng dạy:
            - Này tôn giả, như một cái hang có sáu ngỏ. Một con dế chui vào hang, ai muốn bắt nó phải bịt năm cửa, chỉ chừa một cửa là tóm được nó ngay. Tôn Giả hãy quán sát sáu căn của mình, đóng năm căn lại và tập trung trọng tâm vào ý căn.
            Nghe những lời nói của chú tiểu, Trưởng Lão Pothila hột nhiên tỉnh ngộ nói:
            - Bấy nhiêu cũng đủ rồi
            Trưởng Lão Pothila liền nhập định. Ðức Thế Tôn ở cách đó 100 dặm biết rằng Tôn Giả nầy sẽ đắc quả, ngài liền hóa thân đến trước mặt Pothila đọc bài kệ.
            - Tu Thiền trí huệ sanh
            Bỏ Thiền trí huệ diệt
            Biết con đường ngã hại
            Hướng đến lợi và hại
            Hãy tự mình nỗ lực
            Khiến trí huệ tăng trưởng
            Từ câu chuyện trên chúng ta thấy một con người ý thức được mình có lỗi sám hối, biết được mình có khuyết điểm mà khởi tâm Tàm Quí thì chắc chắn sẽ trở thành người hữu dụng, như Trưởng Lão Pothila. Ngài biết được mình hơn ai hết, và với tâm cầu học, dẹp bỏ cái ngã để cuối cùng ông cũng chứng được đạo quả.
            Nói đến việc sám hối, tu thân, cầu tiến hướng thượng trong thế gian, chỉ trừ một số người buông tha trụy lạc thì không nói, nhưng phần lớn ai ai cũng muốn cầu đạo, tu đạo giải thoát. Nhưng những hiểu rõ tâm mình, và thấysuốt chân lý thì trong số trăm nghìn người quả thật cũng khó tìm được một. Ngày xưa chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ muốn trở thành Chánh Ðẳng Chánh Giác thì phải mất vô lượng vô số, vô biên a tăng kỳ kiếp mới đạt thành đạo quả, như vậy việc chúng ta tìm chưa thấy tự tánh của mình và chưa hiểu rõ chân lý đó là lẽ đương nhiên. Từ phàm phu tu tập để trở thành thánh nhân, con đường đó đầy chông gai và khổ khó. Do đó mà muốn hoàn thành một phẩm cách của con người ít ra cũng phải mất hai ba mươi năm công phu mới đạt được. Ngẩu nhiên có một sự lỗi lầm nào đó mà bị bè bạn ruồng bỏ, người đời xa tránh không để cho họ có một cơ hội sám hôi thì thật là một điều oan uổng. Trong khế kinh có nói: không sợ ý niệm phát khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm trễ.  Từ bậc thánh hiền trở xuống ai cũng có lỗi lầm, nhưng khi đã biết Tàm Quí, và được uốn nắn gọt dũa để trở thành thiện tri thức, thì những cá nhân ấy đều là những lương đống của quốc gia, hay ít nhất cũng là người hữu dụng không nên bỏ.  Ðức diệu dụng nầy, khi ta biết sử dụng, nếu là một con người hoàn toàn thánh thiện, là một con người biết sửa chữa hối lỗi ăn năn, là một con người cùng hung cực ác, thì ta cứ theo đó mà đối xử như ngài Nguyên Linh đã từng nói: "Như người thợ mộc khéo, tùy theo gỗ mà dùng cho đúng chỗ.  Gỗ to thẳng thì làm cột trụ, nhỏ thì làm dui mè, và ngay cả vụn vặt không làm guốc để đi được thì làm củi mà nấu cơm.v.v... Một người dùng ngựa cũng vậy, khi điều khiển ngựa tùy theo đường lớn, hoặc đường đồi núi mà đổi ngựa để cho thích hợp với sở trường của nó". Con vật, khúc gỗ, còn như vậy thì con người cũng như vậy, nếu biết tùy theo trường hợp yêu, ghét, tan, hợp, nên hư, biết ăn năn, hay ngoan cố mà tiến thoái thì không khác gì như người thợ mộc bỏ giấy mực mà làm theo hình ngay và cong của gỗ. Người buôn bán bỏ đi cái cán cân so sánh nặng nhẹ.  Sự thật tuy là tiêu chuẩn nhưng vẫn có cái sai lầm không tránh khỏi. Pháp sám hối và sự diệu dụng của đạo Phật nhằm cải thiện đời sống cá nhân, cảm hóa lòng người tốt đẹp hơn để từ đó đời sống của cá nhân trong xã hội được hạnh phúc, hòa bình và an lạc.
-- o0o --