-
Hộ Minh Bồ Tát
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
Nói về sự đản sanh của Ðức Bổn Sư, người con Phật chúng ta ai
cũng biết Bồ Tát Hộ Minh là một vị Bổ Xứ Bồ Tát trên cung trời
Ðâu Suất giáng trần để làm Thái Tữ Tất Ðạt Ða, và sau nầy là
Ðức Phật Thích Ca. Chữ Bồ Tát là danh từ Nam Phạn Bodhisatta,
gồm hai phần:
-
-
Bodhi là trí tuệ, hay tuệ giác.
-
-
Satta là gia công, hay chuyên cần.
-
Vậy Bồ Tát là người gia công, hay người chuyên chú nỗ lực để
thành tựu trí tuệ, hay tuệ giác. Tuy nhiên theo Bắc Phạn chữ
Bodhisatta được viết là Bodhisattva và dịch là trí tuệ chúng
sanh. Nghĩa là những chúng sanh có nguyện vọng thành Phật.
Nhưng theo đúng nghĩa của nó chữ Bodhisattva là người đã lập
lời chú nguyện đi theo con đường Chánh Ðẳng và đã được thọ ký
thành Chánh Giác.
-
Mặc dầu Nam Phạn và Bắc Phạn có hai lối giải thích khác nhau,
nhưng dầu sao đi nữa cả hai cách gọi và giải thích nầy đều
được dùng để chỉ bất luận là ai có tâm nguyện cố gắng đạt
thành tuệ giác. Lẽ tất nhiên tất cả mọi chúng sanh đều có khả
năng trở thành Phật, bởi vì đạo quả Phật không phải là một đặc
ân dành riêng cho hạng người nào tốt số, mà là tất cả cho mọi
chúng sanh. Tuy nhiên số chúng sanh có tâm nguyện trở thành
chánh giác có thể phát khởi thiện tâm thiện nghiệp theo ba
cách:
-
1- Luyện Tập Trí Tuệ:
-
Hay còn được hiểu là Trí Huệ Bồ Tát. Loại Bồ Tát nầy thiên về
lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn chuyên cần
hơn trên đường phát triển trí tuệ. Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng về
công phu phát triển trí tuệ, và hành thiền nhiều hơn là chú
trọng với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các Ngài
luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp nhận
sự việc một cách mù quáng. Không tự bó tay quy hàng với bất cứ
một lý thuyết nào, cũng không nô lệ cho một quyển sách, một bộ
kinh hay bất cứ một cá nhân nào. Trí Tuệ Bồ Tát thích trầm
tĩnh yên lặng để trau dồi thiền tập. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch
ấy, Ngài chú nguyện, mang những tư tưởng an lành ấy rãi khắp
trong nhân gian để đem lại sự hổ trợ tinh thần cho nhân loại
đau khổ.
-
2- Luyện Tập Niềm Tin
-
Hạng người nầy còn được hiểu là Tín Ðức Bồ Tát. Loại Bồ Tát
nầy lòng sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng, mà ít chú
trọng về công trình trau giồi tâm trí và bồi đắp công đức vị
tha. Tín Ðức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm
thành, hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của ngài.
Tất cả những hình thức cụ thể về lễ bái, thờ phượng Phật
tượng, là sở trường của Tín Ðức Bồ Tát. Tượng Phật là một
nguồn cảm hứng gợi cảm đối với Ngài. Người Phật Tử bày tỏ lòng
kính mộ tinh thần cao cả nơi pho tượng tượng trưng, và suy
niệm về phẩm hạnh và ân đức của đức Từ Tôn. Càng suy tưởng đến
Ðức Phật, càng kỉnh mộ Ngài. Ðó là lý do tại sao Phật giáo
không khi nào phủ nhận hình thức ngưỡng mộ bề ngoài, mặc dầu
pháp hành đáng được khuyến khích hơn và chắc chắn là bổ ích
hơn, vả lại để đi đến thành quả thỏa đáng, đôi khi trí thức
khô khan cũng cần được hưởng chút hương vị của đức tin. Ðức
tin quá đáng lắm lúc cũng cần phải nhờ trí tuệ kiềm hãm để
khỏi phải sa vào cuồng tín.
-
3- Luyện Tập Ðức Tánh Siêng Năng:
-
Hạng người nầy còn được hiểu là Tinh Tấn Bồ Tát. Loại Bồ Tát
nầy thì luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ khác, không có gì
làm cho Tinh Tấn Bồ Tát hoan hỷ bằng tích cực phục vụ. Ðối với
các Ngài:
-
-
Làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm việc.
-
Không tích cực hoạt động thì các Ngài không có hạnh phúc.
-
Bởi vì lý tưởng của Tinh Tấn Bồ Tát không phải chỉ sống cho
riêng mình mà còn sống cho kẻ khác nữa, vì thế tinh thần phục
vụ cho người khác là đức tính căn bản của Tinh Tấn Bồ Tát. Tâm
nguyện như thế nên người thực tập tâm nguyện Tinh Tấn Bồ Tát
luôn luôn hoạt động, luôn luôn làm việc không ngừng, không
biết mệt, không chán, tuy nhiên làm việc ở đây không phải làm
việc như người nô lệ, mà như một chủ nhân. Các Ngài không ham
muốn, không bám víu vào danh thơm tiếng tốt, các Ngài chỉ chú
trọng đến việc làm, đến sự phục vụ, ai biết ai không biết
mình, điều ấy không quan trọng. chẳng màng được khen, không sợ
bị chê. Bồ Tát thản nhiên trước lời tán dương hay khiển trách.
Bồ Tát quên mình trong khi phục vụ kẻ khác, có khi phải hy
sinh đến cả tính mạng của mình để cứu mạng sống chúng sanh
khác, những người bạn đồng hành trên bước đường dài dẳng của
vòng sanh tử luân hồi.
-
Muốn quên mình để hiến thân cứu mạng sống cho một chúng sanh
khác, Bồ tát phải thực hành tâm Bi và tâm Từ đến mức cao độ
đặc biệt. Bồ Tát ước mong sự tốt đẹp và an lành của thế gian.
Ngài thương tất cả chúng sanh như một bà từ mẫu thương đứa con
duy nhất của bà. Bồ Tát hòa mình với tất cả mọi người, rất
hoan hỷ xem tất cả mọi người như anh chị em. Thương yêu tất cả
như mẹ như cha như thầy. Trong khi thực hành như vậy Bồ Tát
mất dần ý niệm về cái ta và không thấy sự khác biệt giữa Ngài
và người khác. Ngài tự hóa với tất cả, lấy tốt trả xấu, lấy
thiện trả ác, lấy lành trã dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những
người chủ tâm hại mình, bởi vì Bồ Tát hiểu rằng lực lượng của
người dẫn đạo là pháp nhẫn. Vì thế bị nhục nhưng không nhục
mạ, bị đánh đập nhưng không đánh đập, bị làm phiền nhưng không
gây phiền nhiễu, Bồ Tát một mực giữ đức khoan hồng tựa như đất
mẹ trầm lặng, Bồ Tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm
của kẻ khác.
-
Như trên đã trình bày, Bồ Tát là danh hiệu của người tu học
chờ thời gian thành Phật, là người có chí nguyện tìm cầu đạo
bồ đề mà được danh hiệu ấy. Bồ Ðề rốt ráo có nghĩa là hết thảy
trí. Người vì tìm cầu trí tuệ hoàn toàn của Phật, đặc biệt
mong cầu thành Phật nên gọi là Bồ Tát. Dĩ nhiên, nếu chỉ giải
thích là người trí tuệ không thôi thì chưa đủ. Bồ Tát sở dĩ
được xưng là Bồ Tát là ở chỗ xã kỷ để làm tất cả mọi việc
lành. Nói cách khác là tận lực hạ hóa chúng sanh, mà việc làm
đó cũng là một bộ phận của nhất thiết trí hoặc là chuẩn bị để
đạt đến nhất thiết trí. Theo lập trường nầy, người có chí
nguyện tu như thế gọi là Bồ Tát. Tuy nhiên Bồ Tát mà chúng tôi
trình bày ở đây, trước sau vẫn chỉ muốn nói đến Bồ Tát Hộ Minh
tiền thân của Phật Thích Ca, vì trong vô lượng, vô số, vô biên
A Tăng Kỳ trăm kiếp về trước, Ðức Phật Ngài đã ra vào sanh tử
dưới nhiều hình thức, nhiều thân phận. Do đó Bồ Tát ở đây
không nhất định phải đội mũ, làm quan..... mà tiền thân của
Ðức Phật Thích Ca, có khi làm ngựa, làm thỏ, làm chim, làm
quốc vương, làm thương gia..v..v.. tất cả đều là thân hình
phàm phu, và cũng là một con người bình dị như bao nhiêu con
người khác. Nhưng dù sao đi nữa ở hoàn cảnh nào thân phận nào
đi nữa, sau khi thực hiện xong tâm nguyện, phạm hạnh trong
sạch, khi mạng chung vãng sanh lên cõi trời Ðâu Xuất, đó là
nơi đến của những vị sau một thời gian dài tu luyện nhân cách
Bồ Tát.
-
Nói là sanh về Ðâu Xuất, nhưng không phải về đây để an hưởng
phước trời mà vì muốn giáo hóa chúng sanh, củng cố Bồ Tát đạo
trước khi giáng trần độ sanh, nên sinh lên cõi trời Ðâu Xuất.
Chúng sanh ở các cõi trời biết như thế, nên chư thiên ở hạ
giới vì muốn nghe pháp nên lên cõi trời Ðâu Suất, còn chư
thiên ở thượng giới muốn nghe pháp lại phải bay xuống cõi trời
Ðâu Xuất nghe nhận Phật Pháp.
-
Theo kinh điển lưu truyền cho biết, lúc Bổ Xứ Bồ
Tát mới sinh lên cõi trời Ðâu Xuất Chư Thiên ở cõi trời Ðâu
Suất gọi Bồ Tát là Hộ Minh, bởi nhân duyên ấy nên mới có hiệu
là Hộ Minh, Chư Thiên truyền nhau gọi là Hộ Minh, lời truyền
đó được truyền đi, trên thì suốt đến cõi trời Hữu Ðịnh, dưới
thì thấu suốt đến cõi của A Tu La, vì thế mà các chúng sanh ở
các tầng trời nầy đều tụ hội đến để nghe Bồ Tát Hộ Minh thuyết
pháp.
-
Nhờ tu tập, đầy đủ phước đức thiện căn, nên Hộ
Minh Bồ Tát từ khi sinh lên cõi trời Ðâu Xuất thì cung điện
của Chư Thiên, quang minh chiếu sáng, trang nghiêm tốt đẹp
hơn, rồi lại xuất hiện ra vô lượng vô biên việc trang nghiêm
khác. Riêng về Hộ Minh Bồ Tát tuy thấy năm món thắng dục nhưng
tâm không mê, không có lãng quên chính niệm. Ở cõi trời Ðâu
Xuất, thiên số thọ mệnh bốn ngàn năm, trong thời gian dài như
vậy Bồ Tát cũng vì các Chư Thiên thuyết pháp giáo hóa, tỏ bày
pháp tướng, khiến cho thiên chúng sanh tâm hoan hỷ. Theo thông
lệ tất cả chúng sanh trên các cảnh trời khi hết phước, sắp đọa
xuống nhân gian tự nhiên có năm tướng suy xuất hiện như là:
-
01- Hoa trên đầu héo.
-
02- Nách ra mồ hôi.
-
03- Quần áo bị cấu ghét.
-
04- Thân mất uy quang.
-
05- Không thích chỗ ngồi cũ.
-
Nhưng riêng Hộ Minh Bồ Tát thì khác, khi thấy năm tướng suy
hao ngài tự biết thời kỳ giáng trần đã đến, vì thế Ngài thông
báo đến tất cả Thiên Chúng. Khi biết đươc tin Hộ Minh Tôn Giả
sắp giáng trần các Thiên Chúng từ các cõi trời tha hóa, cõi
sắc giới, cõi Dạ Ma, cõi Tứ Thiên Vương tất cả đều đến hội
họp, cho đến Long Vương, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La Ca Lâu
La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Cưu Bàn Trà, La Sát, Ðịa Cư
Thiên, thuộc cõi Sắc và cõi Dục... tất cả đều bay lên cung
trời Ðâu Xuất tập hợp một nơi, để nghe lời giáo huấn cuối
cùng.
-
Khi thấy chúng sanh ở các cõi trời tụ hợp đầy đủ,
lúc bấy giờ Hộ Minh Bồ Tát, nhìn Thiên Chúng, Phạm Vương Ðế
Thích, Hộ Thế, Chư Long, Tỳ Xá Xà..., bằng một tâm ý thư thái,
không kinh sợ hải, không nghi, không sợ, và nói ra lời nói
khoan hòa:
-
- Nhân giả các người nên biết. Ta thấy năm tướng
suy xuất hiện, hiện tượng nầy báo cho biết, chẳng bao lâu ta
sẽ hạ sanh xuống nhân gian, quyết định không nghi. Thời đã đến
cho nên các ngươi hãy niệm vô thường, nên tưởng những việc sợ
hải, đời vị lai các ngươi hãy xem thân thể ô uế đừng nặng lòng
yêu đắm, bởi vì các món dục ràng buộc vây hãm, ở trong sanh tử
chẳng được xuất ly, thân hình sú uế, thực là chán ghét, tất cả
các ngươi hãy chắp mười ngón tay quan sát thân thể ta đây. Tất
cả các Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ, căn lành rất lớn, nên biết được
các xứ sở, ở trong công đức, tịch định tâm mình, nên không
sinh phiền não, không theo các khổ mà làm, thường ở gần tất cả
chúng sanh khởi tâm đại bi.
-
Quý vị phải biết, tất cả chúng sanh ở nhân gian kia trồng các
căn lành, sinh lên thiên cung, nơi đây phúc hết lại thoái lui
xuống. Ta bởi vì thấy tâm tánh của các chúng sanh trong các
cõi trời, cõi người như thế cho nên từ đây hạ sanh xuống nhan
gian, vì tất cả chúng sanh trong thế gian diệt hết mọi khổ.
-
Ðã đến lúc Bồ Tát vào đời để độ đời, nên sau dạy
bảo Chư Thiên và quán sát nhân duyên, khắp mọi nơi, mọi xứ Bồ
Tát quyết định lựa chọn thân mẫu là Hoàng Hậu Mayàdevi, vì
chính bản thân của đức Hoàng hậu có đủ 32 điều kiện:
-
01- Có đủ 32 chủng tướng.
-
02- Do chính đức mà sanh
-
03- Chi thể đầy đủ
-
04- Ðức hạnh không thiếu
-
05- Có đủ tài làm mẫu nghi thiên hạ
-
06- Luôn luôn là chánh thất.
-
07- Thuộc chủng loại thanh tịnh.
-
08- Tánh hạnh đoan chính không ai bằng
-
09- Danh đức sưng khen.
-
10- Chưa từng sanh sản
-
11- Có công đức lớn.
-
12- Thường niệm việc vui
-
13- Tâm thường tùy thuận các việc lành
-
14- Không có tà dâm
-
15- Thân miệng ý tự nhiên điều phục.
-
16- Tâm không có sợ.
-
17- Ða văn tổng trì
-
18- Rất mực tài khéo.
-
19- Tâm không có thiểm dối
-
20- Tâm không lừa dối.
-
21- Tâm không giận tức.
-
22- Tâm không ghen ghét.
-
23- Tâm không sẻn lận
-
24- Tâm không vội vả
-
25- Tâm khó lay chuyển
-
26- Có tướng chi đức
-
27- Tâm hay nhẫn nhục.
-
28- Tâm có hổ có thẹn
-
29- Có khả năng làm cho giận bớt dâm nộ, si
-
30- Là người con gái không có lỗi nhà
-
31- Hiếu thuận và hướng theo chồng.
-
32- Người có thể sanh tất cả các công đức.
-
Và cha là đức vua Suddhodana dòng họ Sakya, là quốc chủ của
nước Kapilavastunagara(ngày nay là nước Napal), vì dòng họ nầy
có đầy đủ 60 loại công đức:
-
01- Từ trước cho đến đời hiện tại là giòng tốt thanh lịch
-
02- Tất cả các thánh thường quan sát nhà ấy.
-
03- Không làm việc ác.
-
04- Nhà ấy sanh ra đều thanh tịnh cả.
-
05- Giòng họ ấy thanh tịnh không tạp.
-
06- Gia thế con con cháu cháu kế tiếp tương thừa
không đoạn tuyệt.
-
07- Nhà kia từ trước đến nay là giòng họ làm vua
không dứt.
-
08- Tất cả các vua nhà ấy sinh ra đều trồng sâu
nhân lành từ đời trước.
-
09- Những người sinh trong nhà ấy thường được
thánh khen ngợi,
-
10- Những người sinh trong nhà ấy đều là những người có uy
đức.
-
11- Nhà ấy tất cả các phụ nữ đều đoan chính.
-
12- Nhà ấy có rất nhiều nam nhi trí tuệ.
-
13- Nhà ấy sanh ra tâm tính diệu thuận
-
14- Người sanh ra nhà ấy không có đùa bỡn
-
15- Nhà ấy sanh ra không có sợ hãi
-
16- Nhà ấy sanh ra không có khiếp rạt
-
17- Nhà ấy sanh ra thông minh đa trí
-
18- Nhà ấy sanh ra phần nhiều tài khéo
-
19- Nhà ấy sanh ra biết sợ tội lỗi
-
20- Nhà ấy sanh ra chẳng cùng thế gian tài khéo
tập hợp, cũng chẳng ham của để sinh sống thân mình
-
21- Nhà ấy sinh ra thường được lòng bạn bè
-
22- Nhà ấy sinh ra chẳng lấy việc sát hại cầm thú
để nuôi sống thân mạng.
-
23- Dòng họ nhà ấy thường nhớ đến ân nghĩa
-
24- Dòng họ nhà ấy hay tu khổ hạnh.
-
25- Nhà ấy sanh ra chẳng theo người khác chuyển
-
26- Nhà ấy sanh ra chẳng từng mang hận
-
27- Nhà ấy sanh ra chẳng biết tâm si
-
28- Nhà ấy sanh ra chẳng biết sợ hãi thuận theo
người ta.
-
29- Nhà ấy sanh ra sợ sát hại người
-
30- Nhà ấy sanh ra không có tôi hoạn
-
31- Nhà ấy sanh ra khất thực được nhiều
-
32- Ðến nhà ấy không bị phạt sai khiến
-
33- Nhà ấy cương cường khó mà hàng phục.
-
34- Phép tắc nhà kia thường đúng lề luật
-
35- Nhà kia thường thích bố thí chúng sanh
-
36- Nhà kia kiến lập nhân quả cần cù
-
37- Nhà ấy sanh ra thế gian khoẻ mạnh
-
38- Nhà ấy thường thường cúng dường tất cả Chư
Tiên, Chư Thánh.
-
39- Nhà ấy thường thường cúng dường thần linh.
-
40- Nhà ấy thường thường cúng dường Chư Thiên
-
41- Nhà ấy thường thường cúng dường Ðại Nhân.
-
42- Nhà kia lịch đại đời đời không có oán thù.
-
43- Nhà ấy danh tiếng ưu chấn mười phương
-
44- Nhà kia là tối thắng tất cả mọi nhà.
-
45- Nhà ấy sanh ra từ đời thượng thế đến nay đều là dòng
thánh.
-
46- Nhà ấy sanh ra ở trong dòng thánh là tối đệ nhất
-
47- Nhà ấy sanh ra thường là dòng chuyển luân thánh vương
-
48- Nhà ấy sanh ra là chủng tính đại oai đức nhân
-
49- Nhà ấy sanh ra có vô lượng quyến thuộc vây quanh
-
50- Nhà ấy sanh ra có họ hàng không phá hoại nhau.
-
51- Nhà ấy sanh ra anh em họ hàng thắng tất cả mọi người
-
52- Nhà ấy sanh ra biết hiếu dưỡng mẹ.
-
53- Nhà ấy sanh ra đều hiếu thuận cha
-
54- Nhà ấy sanh ra đều cúng dường tất cả Sa Môn.
-
55- Nhà ấy sanh ra đều cúng dùng tất cả Bà La Môn
-
56- Nhà ấy sanh ra năm giống thóc phì nhiêu, kho đụn tràn đầy.
-
57- Nhà ấy sanh ra có rất nhiều vàng bạc, sa cừ mã não, tất cả
những tư tài không thiếu thốn.
-
58- Nhà ấy sanh ra nuôi nhiều đày tớ, voi ngựa, trâu dê, đầy
đủ tất cả.
-
59- Nhà ấy sanh ra chẳng từng thọ ân người ta.
-
60- Nhà ấy sanh ra như thế, tất cả mọi việc đầy đủ ở trong thế
gian không thiếu thốn.
-
Sau khi quán sát để tìm quốc độ và phụ mẫu xứng đáng cho việc
giáng thế độ sanh, Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát Hộ Minh ở Ðâu Xuất
cũng đã tuyên thuyết một trăm lẻ tám pháp minh môn, lưu lại
cho Chư Thiên để ức niệm.
-
Tối hậu thân Bồ Tát là từ cung trời Ðâu Xuất giáng
trần, qua hình ảnh voi trắng sáu ngà để vào thai mẹ, và xuất
hiện trong lúc tư tưởng, tôn giáo, triết thuyết cũng như về
mặt chính trị, kinh tế và xã hội thật vô cùng phức tạp. Thêm
vào đó nạn kỳ thị tôn giáo cũng trầm trọng. Phía Tây Ấn Ðộ là
địa bàn hoạt động của Bà La Môn Giáo. Phía Ðông thuộc Kỳ Na
Giáo. Hai tôn giáo nầy tranh giành ảnh hưởng với nhau, và chi
phối hoàn toàn đời sống con người, không những về mặc tinh
thần mà cả về phương diện vật chất nữa. Có thể nói đây là một
thời đại loạn ly xứ Ấn Ðộ. Con người lúc nầy không còn biết
tin tưởng và bám víu vào đâu. Giữa lúc hoàn cảnh bế tắc ấy, Bồ
Tát Hộ Minh xuất hiện để sau nầy là một Thái Tử Tất Ðạt Ða, là
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni như một mặt trời sáng rỡ trong buổi
sớm mai, làm mất đi những bóng tối của đêm đen dày đặc, đang
phủ che cuộc đời. Ngài là vị cứu tinh không chỉ dành riêng cho
xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà còn là của cả nhân loại chúng sanh. Thật
vậy, Ðức Phật là người đầu tiên khởi xướng thuyết Nhân Bản,
lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết các vấn đề bế tắc
của thời đại, cả về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Và giáo
lý của Ngài là nguồn sống, là ánh sáng, và là Niềm Tin cho mọi
con người trong xã hội, ở bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh và
nơi đâu... Ðó là lý do và cũng là đặc điểm chính yếu tại sao
Bồ Tát Hộ Minh lại phải xuất hiện trên cõi đời nầy.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo
-
-
Ðức Phật & Phật Pháp
-
-
Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
-
-
Ðường Xưa mây Trắng.
-
-
Phật Học Tinh Hoa
-
-
Kinh Phật Bản Hạnh Tập
|