- Mệnh
&Nghiệp
- Trong Truyện
Kiều
- Nguyễn Mộng
Khôi
- --o0o--
-
-
Cuộc đời Nguyễn Du, tác giả
Truyện Kiều đã gặp nhiều gian truân từ nhỏ, mười tuổi mồ côi
cha, mười ba tuổi mẹ chết, suốt đời ăn nhờ ở đậu, hoặc nhà
anh, hoặc ở quê vợ. Tuổi thọ được 56 thì 38 năm đầu không mấy
khi an lạc, nào Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, nào Nguyễn Hữu
Chính dấy loạn, Quân Thanh, dứt hẳn nhà Lê. Dòng họ Nguyễn Du
vẫn theo Trịnh phù Lê từ trước, nên khi họ Trịnh bị diệt, Lê
Chiêu Thống lưu vong sang Tàu thì hầu hết gia đình ông bị liên
lụy. Hai người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm tới
chức Lại Bộ Thượng Thư, Nguyễn Ðiều là Trấn Thủ Sơn Tây, người
bác ruột, tiến sĩ Nguyễn Huệ làm quan ở phủ Chúa cùng thân phụ
là Hoàng Giáp Nguyễn Nhiễm, Tước Xuân Quận Công, có một thời
làm Tham Tụng(Tể Tướng), nhạc phụ là Ðoàn Nguyên Thục, làm
quan Ðông Các; và nhất là Nguyễn Du có người cha nuôi họ
Hà(không rõ tên tuổi), lúc còn sống làm Chánh Thủ Hiệu(một
chức quan võ nhỏ) ở Thái Nguyên. Sau khi ông Hà chết, Nguyễn
Du kế chức nghĩa phụ(1786-1789), trong khoảng thời gian nầy có
đánh vài trận với quân Tây Sơn, nhưng quân của Nguyễn Du thua
to; vì vậy, sau nầy ông không thể cộng tác với nhà Tây Sơn. Ðã
mấy lần ông tìm cách tập hợp các đồng chí để mưu đại sự, nhưng
lại thất bại. Ông phải trốn về quê nội ở Hà Tĩnh, nhưng thời
Tây Sơn việc trốn tránh không phải dễ dàng, vì vua Quang Trung
cho kiểm soát dân một cách rất chặt chẽ và có khoa học. Ngài
ra lệnh cho các trấn, bắt dân xã làm lại sổ đinh, ai cũng phải
ghi tên vào sổ, rồi cấp cho mỗi người một thẻ bài, khắc bốn
chữ: Thiên Hạ Ðại Tín, chung quanh ghi rõ họ tên, quê quán và
phải điểm chỉ(lấy dấu tay) làm tin. (Việt Nam Sử Lược- Trần
Trọng Kim). Về quê nội Ông sống lẩn trốn trong vùng núi Hồng
Lĩnh và những nơi thâm sơn cùng cốc. Văn học sử còn ghi lại:
-
- Trong vùng 99 ngọn núi không
chỗ nào là chỗ Tiên Sinh không đi tới, dân chúng địa phương
thương cảm hoàn cảnh của Ông nên thường nói: Hồng lĩnh vô gia,
huynh đệ tán(Hồng Lĩnh không nhà, anh em ly tán).
-
Khi vua Gia Long
thống nhất được giang sơn, muốn thu phục lòng dân miền Bắc,
bèn vời những người dòng dõi, cựu thần nhà Lê để giúp nước.
Nguyễn Du bất đắc dĩ phải ra làm quan, sau hai, ba lần từ chối
không được. Trong suốt 18 năm làm quan với nhà Nguyễn, không
lúc nào Ông được vui, với cái tâm trạng: Hàng thần lơ láo,
phận mình ra đâu. Ðối với Nhà Vua, Ông chỉ biết giữ hết bổn
phận, chứ không nói năng gì, với thái độ im lặng của Ông có
lúc Vua Gia Long quở rằng:
-
- Nhà nước dùng người cứ ai
hiền tài thì dùng không phân biệt gì Nam với Bắc cả, Người đã
làm đến chức Á Khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức
trách của mình, có lẽ đâu lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng
dạ dạ hay sao!.(Việt Nam Sử Lược-TTK)
-
Có thể nói Nguyễn
Du được sinh trưởng trong một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất
thời Lê Mạt. Nhưng thời Tây Sơn thì gia đình ông lại gặp nhiều
hoạn nạn, nhiều gian truân. Chính cái hoạn nạn, cái gian truân
ấy, nên ông dễ dàng chấp nhận giáo lý Nhà Phật hầu giải thích
cảnh của một con người tài ba cho rằng mình phải trả cái
Nghiệp của kiếp trước, rồi có khi ông còn thấy dường như có sự
an bài đâu sẳn của Ðịnh Mệnh. Là một người uyên thâm cả Nho và
Phật giáo, nên thuyết Ðịnh Mệnh của Nho và thuyết Nghiệp Báo
của Phật đều được ông viết trong truyện Kiều, có lời văn rất
hay để truyền bá những lý thuyết triết học nầy.
-
A- ÐINH MÊNH
(Issarakarananavada):
-
Theo thuyết Ðịnh Mệnh hay
Thiên Mệnh, thì mỗi sự, mỗi việc đều do Trời, sự sung sướng
hoặc nỗi khổ đau của kiếp người đều do Ðịnh Mệnh:
-
- Ngẫm hay muôn sự tại Trời
-
Trời kia đã bắt làm người có
thân
-
Bắt phong trần phải phong trần
-
Cho Thanh cao mới được phần
thanh cao
-
(3241- 3244)
-
Thúy Kiều được
Thúc Sinh chuộc khỏi lầu xanh tưởng được yên thân, nhưng vì Số
Trời, vì số Ðào Hoa, nên phải vào lầu xanh lần thứ nhì:
-
- Chém cha cái số
đào hoa
-
Gỡ ra rồi lại buộc
vào như chơi
-
(2151- 2152)
-
Ðịnh Mệnh do Trời
sắp đặt nên dù có chạy trốn cũng không thoát:
-
- Biết thân chạy
chẳng khỏi Trời
-
Cũng liều mặt phấn
cho rồi ngày xanh
-
(2163- 2164)
-
Nguyễn Du đậu Tam
Trường(Tú Tài) vào thời Lê Hiển Tông, chắc chắn ông phải am
tường học thuyết của phái Tống Nho. Thuyết của phái nầy dựa
vào Nho Giáo để đưa ra việc trị quốc theo đường lối của chính
quyền nhằm bảo vệ Vương quyền và lấy Ðịnh Mệnh(Determinism) là
chủ thuyết. Người đề xướng ra thuyết nầy là Chu Hy đời Tống.
Nhưng khoảng năm thế kỷ sau, thuyết Ðịnh Mệnh hay Thiên Mệnh
mới được Nhà Minh(1368-1660) chọn làm ý thức hệ. Với ý thức hệ
nầy, người dân trong nước phải tuân theo Mệnh Trời, như Vua là
Con, Trời là Thiên Tử nên dân chúng phải tuyệt đối theo luật
của Vua và phải giữ Ðạo trung thành với Vua.
-
Học thuyết nầy có
lợi cho việc trị quốc vì người dân chịu an phận với Ðịnh Mệnh,
với địa vị hiện tại mà không được bất mãn hay than van. Vì vậy
có lợi cho chế độ chuyên chế của Nhà Minh, nhưng lại có hại
cho người Tàu; vì nó tiêu diệt tinh thần phê phán; mà óc phê
phán là động lực của sự tiến bộ.
-
Nước Tàu, đến thế
kỷ 14 đã làm được nhiều phát minh vĩ đại. Nhưng từ đó về sau,
nếu tinh thần người Tàu bị mờ ám, thì học thuyết Chu Hy phải
chịu một phần trách nhiệm không nhỏ! Khi Minh Thái Tổ lên
ngôi(1368) thì nước Tàu ngang với Châu Âu, ít nữa về mặt kỹ
thuật. Thế mà đến thế kỷ 17, Châu Âu tiến về mọi mặt: Khoa
học, kinh tế, xã hội, quân sự, hàng hải... Còn nước Tàu thì
đứng yên một chỗ, tức là ở cái mức của thế kỷ 14.
-
Nếu thuyết Ðịnh
Mệnh được nhà Minh chọn làm ý thức hệ ở Tàu thì ở Việt Nam từ
thời Hậu Lê tới các Vua đầu nhà Nguyễn cũng bắt chước Nhà Minh
nên đã tôn sùng và quảng bá tư tưởng này; vì vậy thuyết Ðịnh
Mệnh có ảnh hưởng lớn từ giới bình dân tới giới trí thức ở
nước ta bấy giờ.
-
Có câu:
-
- Con Vua thì lại
làm Vua
-
Con ông Sãi chùa
thì quét lá đa
-
(Ca dao)
-
Hoặc:
-
- Quyền họa phúc
Trời tranh tất cả
-
Chút tiện nghi
chẳng trả phần ai
-
(Cung Oán Ngâm Khúc)
-
Vì học thuyết Tống
Nho áp dụng vào việc trị quốc nên việc báo ân, báo oán, việc
trừng trị, việc trả thù những kẻ có tội là chuyện đương nhiên,
không đáng chê trách. Ngược lại, Ðạo Phật khuyên ta không nên
trả thù. Khi trả thù tức là làm người khác đau khổ, mình sẽ
tạo nên một nghiệp khác. Cái nợ của nghiệp cũ chưa trả xong,
đã chuốc thêm nợ mới, nên những tín đồ Phật giáo không chấp
nhận việc trả thù. Trong khi các Nho Sĩ coi việc trả thù là
bình thường. Vua là con Trời(Thiên Tử) cũng trả tù kẻ xúc phạm
tới mình. Trong lịch sử Trung Hoa và Việt Nam, có nhiều chuyện
trả thù một cách tàn nhẫn. Tội phạm có thể bị những hình phạt
dã man, khủng khiếp như: Tội cho voi giày ngựa xé, tội lăng
trì(xẻo từng miếng thịt của tội nhân cho đến chết), tội yểu
trảm (chém ngang lưng, làm hai khúc)... tội nặng hơn như mưu
toan lật đổ chính quyền hoặc mưu toan làm loạn thì có thể bị
tru di tam tộc(giết cả ba họ: Họ tội phạm, họ mẹ, họ vợ), khi
xử ba họ, người ta đưa ra pháp trường một lúc, từ đứa bé sơ
sinh cho đến những cụ già gần đất xa trời, tất cả đều bị chém.
Lịch sử Việt Nam còn ghi lại hai vụ án bị tru di tam tộc nổi
tiếng là: Ba họ của Tể Tướng Nguyễn Trải, bị giết năm 1442 và
ba họ của thi hào Cao Bá Quát bị tru di năm 1854.
-
Trong truyện Kiều,
Thúy Kiều báo ân, trả oán một cách độc ác, nàng đã giết những
người làm khổ nàng, điều nầy không phù hợp với thuyết Nhân
Quả, Nghiệp Báo Nhà Phật, nhưng lại hợp với thuyết Thiên Mệnh
của phái Tống Nho:
-
- Nàng rằng: Lồng
lộng Trời cao!
-
Hại nhân, nhân
hại, sự nào tại ta?
-
Trước là Bạc Hạnh,
Bạc Bà,
-
Bên là Ưng Khuyển,
bên là Sở Khanh;
-
Tú Bà với Mã Giám
Sinh.
-
Các tên tội ấy
đáng tình còn sao?
-
Lệnh trên truyền
xuống khai đao,
-
Thế sao thì lại cứ
sao ra hình.
-
Máu rơi thịt nát
tan tành,
-
Ai ai trông thấy
hồn kinh phách rời!
-
Cho hay muôn sự
tại Trời,
-
Phụ người chẳng bỏ
khi người phụ ta!
-
(2381-2392)
-
NGHIỆP BÁO(Kamma Niyama)
-
Nếu thuyết Ðịnh Mệnh bảo số
mệnh đã được định trước cho mỗi người, không ai có thể cưỡng
lại Mệnh Trời; thì thuyết Nghiệp Báo nói ngược lại, nghĩa là
cá nhân có thể thay đổi được Nghiệp của mình. Danh từ
Nghiệp(Kamma) có nghĩa là hành động hay làm. Chữ báo(Nyama) có
nghĩa là đền trả một cách công bằng. Bởi nghiệp do hành động
mà có, nên có nhân chỉ cần sửa đổi Hành Ðộng tức thì Nghiệp sẽ
đổi thay. Trước kia một người chuyên nghề trộm cắp, sau nầy
người ấy học nghề thợ mộc, thợ nề. Nghề nghiệp do sở thích của
mình học tập mà thành. Nghề nghiệp đổi thay tùy tâm tịnh giác
của mình đổi sang nghề nghiệp mới, thì nghề nghiệp cũ từ từ
phai nhạt.
-
Trong đêm Thành
Ðạo cách nay 2624 năm, Ðức Phật đã thành đạt khả năng thông
suốt các tiền kiếp của Ngài. Ngài chứng đắc Túc Mạng Minh,
biết rõ tiền kiếp đã làm gì và phải chịu quả báo ra sao. Ngài
nói:
-
- Như Lai nhớ lại nhiều kiếp
sống trong quá khứ như thế nầy: Trước hết một kiếp, rồi hai
kiếp, rồi ba, bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi rồi một
trăm, một ngàn, một trăm ngàn...
-
Trong lúc canh ba
Ngài đắc Thiên Nhãn Minh, nhận thấy chúng sinh chết từ kiếp
sống nầy, tái sinh vào một kiếp khác. Ngài chứng kiến cảnh
tượng kẻ hèn người sang, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người
khốn khó. Chúng sinh tiêu diệt và tái sinh tùy hành vi tạo tác
của mọi người
-
Những khổ đau,
gian truân của Thúy Kiều là để trả những nợ xưa(túc trái):
-
- Ðã đành túc trái
tiền oan
-
Cũng liều ngọc nát
hoa tàn mà chi
-
(1765-1766)
-
Tạo Nhân Nghiệp
xấu là phải thọ Quả Nghiệp xấu, kêu cầu cũng vô ích:
-
- Mấy người bạc ác
tinh ma
-
Mình làm mình
chịu, kêu mà ai thương
-
(2393-2394)
-
Hoặc là:
-
- Ðã mang lấy
Nghiệp vào thân
-
Cũng đừng trách
lẫn trời gần trời xa
-
(3249-3250)
-
Khi đã biết mình
rơi vào lầu xanh, Thúy Kiều đã dùng dao tự tử:
-
- Thương ôi tài
sắc bậc nầy
-
Một dao oan nghiệt
dứt dây phong trần
-
(985- 986)
-
Nhưng có vay, thì
phải trả, trốn nợ sao được! Trong giấc mơ hồn ma Ðạm Tiên đã
rỉ tai cho Thúy Kiều:
-
- Rỉ rằng nhân quả
dở dang
-
Ðã toan trốn nợ
đoạn trường được sao !
-
Số còn nặng nghiệp
má đào,
-
(995-997)
-
Khi được cứu tỉnh,
Thúy Kiều được Tú Bà dụ dỗ và hứa hẹn sẽ gả nàng cho một người
đàng hoàng. Nhưng đó chỉ là cái bẩy mà Sở Khanh thực hiện mẹo
lừa. Sau một trận đòn vô cùng tàn nhẫn của Tú Bà: Uốn lưng
thịt đổ, dập đầu máu sa, Kiều phải van xin:
-
- Thân lươn bao
quả lấm đầu
-
Chút lòng trinh
bạch từ sau xin chừa
-
(1147-1148)
-
Từ đó, đời Kiều
trải qua nhiều hoạn nạn:
-
- Hết nạn ấy đến
nạn kia
-
Thanh lâu hai
lượt, thanh y hai lần
-
(2667-2668)
-
Sự đau khổ đã đến
cùng cực, đến tuyệt vọng, nàng gieo mình xuống sông Tiền
Ðường, coi như đã trả xong cái Nghiệp của kiếp trước:
-
- Triều đâu nổi
sóng đùng đùng
-
Hỏi ra mới biết
rằng sông Tiền Ðường
-
Nhớ lời thần mộng
rõ ràng
-
Nầy thôi hết kiếp
đoạn trường từ đây!
-
Ðạm Tiên nàng nhé
có hay?
-
Hẹn ta thì đợi
dưới này rước ta.
-
(2619-2624)
-
Trong Truyện Kiều
của Thanh Tâm Tài Nhân thì Thúy Kiều gieo mình xuống sông Tiền
Ðường là chấm dứt chuyện một cô gái con nhà khuê các phải trả
cái Nghiệp kiếp trước, đã chịu nhiều đau khổ suốt mười lăm năm
trời. Nhưng trong Ðoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du muốn chứng
minh thuyết Nhân Quả, Nghiệp Báo của Nhà Phật nên ông cho Kiều
sống lại, được tái ngộ với mẹ cha, với hai em và người tình
đầu đời của mình:
-
- Giác duyên lên
tiếng gọi nàng
-
Buồng trong vội
dạo sen vàng bước ra.
-
Trong xem đủ mặt
một nhà:
-
Xuân già còn trẻ,
huyên già còn tươi;
-
Hai em phương
trướng hòa hai
-
Nọ chàng Kim đó là
người ngày xưa?
-
(3007-3012)
-
Hoặc là:
-
- Này chồng, này
mẹ, này cha
-
Này là em ruột,
này là em dâu
-
(2981-2982)
-
Nghiệp cũ của
những kiếp trước đã trả xong: Túc khiên rửa đã lâng lâng sạch
rồi, và ngay trong kiếp này, Thúy Kiều đã làm được nhiều việc
thiện. Hành động bán mình chuộc cha là một Thiện Nghiệp.
-
- Lấy tình thâm
trả nghĩa thâm.
-
Bán mình đã động
hiếu tâm đến trời!
-
(2683-2684)
-
Việc Thúy Kiều
khuyên Từ Hải ra hàng là một suy nghĩ đúng. Ðầu hàng để tiết
kiệm xương máu cho những người vô tội. Chỉ: Năm năm hùng cứ
một phương hải tần của Từ Hải mà: Ðống xương Vô Ðịnh đã cao
bằng đầu. Lúc Từ Hải bị hại, Thúy Kiều đau khổ, nhưng một Từ
Hải chết để cứu sống bao nhiêu người là một nhân lành lớn.
-
- Hại một người
cứu muôn người
-
Biết điều khinh
trọng, biết lời phải chăng
-
(2685-2686)
-
Trong nguyên bản
truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cũng ca ngợi Thúy Kiều qua
lời Ðạm Tiên:
-
- Không biết chị bán mình cứu
cha, đức hiếu đã động đến Trời; chị khuyên giặc qui thuận
Triều Ðình, che chở được cho dân, lòng trung đã khiến mặt trời
cũng phải mờ đi. Vả lại, số khổ đã đủ, ngày nay mạng kiếp cũng
tiêu trừ. Từ đây, Chị được phúc, được lộc, và tình duyên sẽ
như nguyện. Hội Ðoạn Trường đã bỏ tên chị(Bất tri thư thư nhân
mại thân cứu phụ, hiếu đức động thiên; khuyến thuận bảo dân,
trung tâm tổn nhật. Thả tòng tiền khổ huống dĩ lịch tận, kim
nhật kiếp hựu tiêu hoàn. Tự thử, phúc lộc sinh thân, tình
duyên như ý. Ðoạn Trường hội tạc dĩ trừ danh).
-
Nguyễn Du còn muốn
chứng minh thêm thuyết Nhân Quả Nhãn Tiền, Thiện Nghiệp Cận
Ưng của Nhà Phật, nên cho Thúy Kiều gặp lại Kim Trọng để được
sống những chuỗi ngày an lạc và thỏa nguyện ba sinh:
-
- Khi chén rượu,
khi cuộc cờ
-
Khi xem hoa nở,
khi chờ trăng lên
-
Ba sinh đã phỉ lời
nguyền
-
Duyên đôi lứa cũng
là duyên bạn bầy
-
(3223-3226)
-
Rồi được hưởng phú
quí mà ít ai bì kịp:
-
- Phong lưu phú
quí ai bì
-
Vườn Xuân một cử
đề bia muôn đời
-
(3239- 3240)
-
Không những riêng
nàng được phú quí mà cả gia đình đều hưởng lộc lâu bền. Những
người đang làm quan như Vương Quan, Kim Trọng thì công danh sẽ
tăng tiến đều đều:
-
- Một nhà phúc lộc
gồm hai
-
Nghìn năm dằng
dặc, quan giai lần lần
-
(3235-3236)
-
Nguyễn Du đã đưa
ra thuyết Ðịnh Mệnh để cắt nghĩa cái số của con người đã được
Trời định trước, cá nhân phải bó tay trước Ðịnh Mệnh. Nhưng
những người không tin thuyết nầy bảo rằng, nếu có Ðịnh Mệnh đã
an bài thì tại sao con cháu Vua Lê, Chúa Trịnh sau nầy không
tiếp tục ngôi Vua, nghiệp Chúa? Nếu con vua thì lại làm vua
thì con cháu vua Quang Trung đã không bị tru di một cách dã
man!
-
Vì vậy thuyết
Thiên Mệnh hay Ðịnh Mệnh là xu thời và không có một luận cứ
vững chắc. Nguyễn Du không phải là không biết như vậy, nhưng
ông là người từ cửa Khổng sân Trình, là người sống ở thời cực
thịnh của phái Tống Nho mà từ vua quan tới bần dân đều coi
Thiên Mệnh là chủ thuyết quốc gia, lòng Trung Quân Ái Quốc
được coi như đức tính phải có của giới Sĩ Phu bấy giờ.
-
Nhưng, giữa thuyết
Thiên Mệnh của Nho và thuyết Nghiệp Báo của Phật, ông đã chọn
thuyết Nghiệp Báo để làm hướng đi cho cuộc đời. Ông quan niệm
chỉ có Thiện căn từ trong lòng mới có Nghiệp quả hạnh phúc:
-
- Thiện căn ở tại
lòng ta
-
Chữ Tâm kia mới
bằng ba chữ tài
-
(3251-3252)
-
Sở dĩ bị gian
truân đời này chỉ vì kiếp xưa đã vụng đường tu, đã gây nhiều
ác nghiệp, thì kiếp này phải vun đắp, phải tài bồi:
-
- Kiếp xưa đã vụng
đường tu,
-
Kiếp này chẳng kẻo
đền bù mới suôi.
-
(1195-1196)
-
Sau khi đã tìm
hiểu hai luồng tư tưởng có ảnh hưởng mạnh trong Truyện Kiều,
chúng tôi nghĩ rằng Ðạo Phật là chủ yếu của đại tác phẩm, nhằm
giải thích những gian truân của Nguyễn Du, một con người tài
ba, đáng lẽ phải được sung sướng, nhưng vì phải trả cái Nghiệp
tiền khiên của ông.
-
-
Sách Tham Khảo
-
- Truyện Kiều Nguyễn Du
-
- Trung Hoa Sử Cương
-
- Lịch Sử Thế
Giới
-
- Ðức Phật và Phật Pháp
|