-
Học Kinh Pháp Bảo Ðàn
-
Lục Tổ Huệ Năng(638-713)
-
Tâm Minh
-
--o0o--
-
-
I-
Ngày Thứ Nhất
-
Hôm
nay chúng tôi học Kinh Pháp Bảo Ðàn. Ðáng lẽ gọi là: Ngữ Lục
của Tổ Huệ Năng vì đây là lời Tổ nói, được ghi chép lại, không
phải là Kinh, lời dạy của Phật. Nhưng đệ tử của Ngài là Thiền
Sư Pháp Hải, Trụ Trì Chùa Bảo Lâm đã y theo lời dạy của Ngài
mà đặt tên. Vì vậy chúng ta khỏi cần thắc mắc!
-
Cũng
như các lần học trước, anh chị em chúng tôi ai cũng đã đọc
trước ở nhà và đến đây tuần tự tóm lược các Phẩm trong Kinh
rồi sau đó mới quyết định xoáy vào phẩm nào. Lần nầy chúng tôi
học kỹ phẩm thứ ba: Phẩm Nghi Vấn. Ðây là phẩm nói lên những
nghi vấn, thắc mắc trong lòng người học đạo, đại diện là quan
Thứ Sử và hội chúng lúc đó. Cứ mỗi thắc mắc của đại chúng đều
được Tổ giải đáp thật rành mạch mà bình dân dễ hiểu, và thoáng
vô cùng mặc dầu khó làm:
-
01-
Thắc mắc thứ nhất
-
Vua
Lương Võ Ðế hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma rằng:
-
-
Trẫm suốt đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai thì có những
công gì?
-
Tổ
bảo:
-
-
Thật không có công đức.
-
Tại
sao vậy ?
-
Ngài
Huệ Năng trả lời quan Thứ sử:
-
- Tại
vì Võ Ðế tâm tà, không biết chánh pháp, những việc làm của ông
ta gọi là cầu phước, chứ không thể đem phước đức để đổi làm
công đức.
-
Lục
Tổ dạy tiếp:
-
-
Thấy tánh ấy là Công, bình đẳng ấy là Ðức. Trong tâm khiêm hạ,
ấy là công, bên ngoài hành lễ phép, ấy là đức. Mỗi niệm không
gián đoạn, ấy là công, tâm hành ngay thẳng ấy là đức. Tự tu
tánh ấy là công, tự tu thân ấy là đức.
-
Tâm
thường khinh người, thị phi không dứt tức là không công; tự
tánh hư vọng không thật tức là không có đức. Này Thiện tri
thức! Công Ðức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố
thí cúng dường mà cầu được. Võ Ðế không biết chân lý chứ không
phải Tổ Sư ta có lỗi!
-
02-
Bài học thứ hai là bài học về cõi Tây Phương
-
Thứ
sử hỏi:
-
- Ðệ
tử thường nghe nói niệm Phật A Di Ðà thì được vãng sanh Tây
Phương; điều này có đúng không ? Thỉnh Hòa Thượng từ bi chỉ
dạy.
-
Tổ
đáp:
-
- Thế
Tôn nói Kinh A Di Ðà ở trong thành Xá Vệ có nói rằng Tây
Phương ở cách đây mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có 10
ác và 8 tà. Người mê niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người ngộ
tự tịnh tâm mình. Này Sử Quan! Tâm địa không có cái bất thiện
thì Tây Phương cách đây không xa, nếu ôm lòng chẳng thiện,
niệm Phật vãng sanh thật là khó đến! Nay khuyên thiện tri thức
trước nên dẹp trừ 10 điều ác tức là đã đi được mười muôn, sau
trừ tám cái tà tức là qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh
thường hành bình đẳng, liền đến Tây Phương, thấy đức Phật A Di
Ðà. Sử Quân, chỉ hành 10 điều thiện đâu cần phải nguyện vãng
sanh, còn nếu không đoạn cái tâm ác thì Phật nào lại đón tiếp!
-
Ngài
lại nói:
-
- Huệ
Năng vì mọi người dời cõi Tây Phương trong khoảng sát na ở
trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy
không?.
-
Ðại
chúng vâng dạ, muốn xem cõi Tây Phương hiện tiền trước mặt
-
Tổ
bảo rằng:
-
- Này
đại chúng ! Thân này là thành, mắt, tai, mũi, lưỡi là cửa,
ngoài có 5 cửa, trong có ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở
trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất;
tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm
ở trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức
là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật.
-
Ngài còn dạy về các hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Tinh Tấn,
Thanh Tịnh... của chư Phật Bồ Tát cũng như các phiền não trần
lao của tham, sân, si...như sau:
-
- Này
thiện tri thức! Từ Bi tức là Quán Thế Âm, Hỷ xả gọi là Ðại Thế
Chí, tịnh tức là Ðức Thích Ca, bình trực tức là Phật Di Ðà.
Nhân ngã là núi Tu Di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng
mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa
trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.. v.. v.. Này
thiện tri thức! thường làm 10 điều thiện thì thiên đường liền
hiển hiện, trừ nhơn ngã thì núi Tu Di sập, dẹp tham dục thì
biển độc khô, dứt phiền não thì sóng mòi mất, độc hại hết thì
rồng cá đều biến mất... Ở trên tâm địa mình là giác tánh Như
Lai. Nếu sáu cửa ở ngoài thanh tịnh, bên trong tự tánh trừ
sạch 3 độc thì trong ngoài sáng rực, chẳng khác với cõi Tây
Phương; không chịu tu như thế thì làm sao đến Tây Phương được
đây?
-
03- Bài học thứ ba là phương pháp tu hành của Lục
Tổ trao truyền cho quan Thứ Sử.
-
Tổ
bảo rằng ai tu cũng được, không cần phải ở chùa mới tu
được(tất nhiên nếu xuất gia được thì tốt hơn nhiều thứ, phải
không các bạn?), đây là bài kệ Vô Tướng:
-
- Tâm
bình hà lao trì giới
-
Hạnh
trực hà dụng tu thiền
-
Ân
tác thân dưỡng phụ mẫu
-
Nghĩa
tác thượng hạ tương lân
-
Nhượng tác tôn ti hoà mục
-
Nhẫn
tắc chúng ác vô huyên
-
Nhược
năng toản mộc xuất hoả
-
Ứ nê
định sanh hồng liên
-
Khổ
khẩu đích thị lương dược
-
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn
-
Cải
quá tất sinh trí tuệ
-
Hộ
đoản tân nội phi hiền
-
Nhật
dụng thường hành nhiêu ích
-
Thành
đạo phi do thí tiền
-
Bồ đề
chỉ hướng tâm mích
-
Hà
lao hướng ngoại cầu huyền
-
Thính
thuyết y thử tu hành
-
Tây
Phương chỉ tại mục tiền
-
Nghĩa
là:
-
- Tâm
bình không cần giữ giới
-
Hạnh thẳng không cần tu
thiền
-
Ân thì nuôi dưỡng cha
mẹ
-
Nghĩa thì trên dưới thương
nhau
-
Nhường thì trên dưới hoà mục
-
Nhẫn
thì các ác không ồn
-
Nếu
hay dùi cây ra lửa
-
Trong
bùn quyết mọc sen hồng
-
Ðắng
miệng tức là thuốc hay
-
Nghịch tai ấy lời ngay thẳng
-
Sửa
lỗi ắt sanh trí tuệ
-
Giữ
quấy trong tâm không hiền
-
Mỗi
ngày thường là lợi ích
-
Thành
đạo không do thí tiền
-
Bồ đề
chỉ hướng tâm tìm
-
Ðâu
nhọc hướng ngoại cầu huyền
-
Nghe
nói y đây tu hành
-
Cực
lạc chỉ ngay trước mắt
-
Bài học này làm nẩy sanh trong anh chị em chúng
tôi rất nhiều ý kiến đóng góp, ví dụ như:
-
01- Tâm bình không cần giữ giới, hạnh thẳng không
cần tu thiền: chúng ta thì sao? Ai nói động tới thì sân si nổi
dậy, la hét om sòm; không cần biết trên dưới gì cả: vậy là tâm
chưa bình, hạnh chưa thẳng, cho nên giới cũng cần phải tu mà
thiền cũng cần phải tinh chuyên chứ đừng nên xao lãng đó nha!
-
02- Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa trên dưới
thương nhau. Ðiều này thì Phật cũng đã dạy rồi:
-
-
Trong thời không có Phật, thờ phụng cha mẹ là thờ phụng Phật.
Nói cách khác, nếu chúng ta đi chùa, lạy Phật, làm đủ chuyện
mình cho là nhiều phước đức lắm nhưng về nhà thấy cha mẹ già
không cần dòm ngó tới, lời cha mẹ thì coi như Ne pas; vậy thì
nhất định không phải là Phật tử chân chính mà chỉ là thứ dỏm
thôi!
-
Anh chị em cùng một cha mẹ sống chung nhau dưới
một mái nhà, nếu không biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau
thì ra ngoài xã hội làm sao mà tốt với ai được? Nếu có thì đó
chỉ là đóng kịch, giả dối hay là vì lợi dụng gì đó mà thôi,
con người như vậy ai mà tin tưởng được? Thầy Thanh Từ cũng có
nhắc nhở chúng ta:
-
- Nếu
sống thường trực nơi gia đình không ra gì thì sống một, hai
ngày ở chùa có nghĩa lý gì đâu?
-
Nói
tóm lại, người Phật tử chân chính nói chung, người HTr/GÐPT
nói riêng, phải sống sao cho người khác nhìn vào thấy mình
sống đạo chớ không phải chỉ giảng đạo.
-
03- Ðắng miệng tức là thuốc hay, nghịch tai là lời
ngay thẳng:
-
Ðiều
này chúng ta cũng thường nghe:
-
-
Thuốc đắng đả tật, lời thật mất lòng, nhắc chúng ta tu tập làm
sao để khi nghe những lời phê bình thẳng thắn, chỉ cái sai,
cái lỗi của mình ra thì mình vẫn vui vẻ nhận lỗi chứ không nổi
sân si, đùng đùng bỏ đi, không làm việc nữa.. v..v... ACE mình
cái gì chứ cái này hay tái phạm; do đó, đây là chuyện hết sức
đơn giản nhưng không dễ làm, vì vậy Tổ Huệ Năng cũng hết lòng
căn dặn.
-
Muốn làm tốt điều này thì đừng bao giờ nghĩ rằng
mình không bao giờ lầm lẫn, mình rất chuyên môn trong công
việc, mình là số một, trong lãnh vực này... mà phải biết rằng
ai cũng có lúc nhầm lẫn, giỏi tới đâu cũng vậy thôi, biết nhận
lỗi sửa lỗi là người trí tuệ, còn nếu cứ giữ quấy trong tâm
thì đó không phải người hiền, người trí mà là người ác và ngu,
phải không các bạn!
-
Ðây là những bài học đơn giản nhất rút ra từ Phẩm
Nghi Vấn. Chúng ta sẽ tiếp tục học Pháp Bảo Ðàn ở những lần
sau
-
II-
Ngày Thứ Hai
-
Kinh
nầy tương đối dễ tìm vì vậy anh chị em chúng tôi ai cũng có
một bản, do vậy buổi học nầy còn có phần hào hứng hơn lần đầu.
Ðây quả là những lời dạy đơn giản, bình dị của Lục Tổ, nói lên
cốt lõi của Thiền Tông. Hôm nay chúng tôi tiếp tục học ba
phẩm: Phẩm thứ nhứt, thứ tư và thứ năm: Tự Thuật, Ðịnh Tuệ và
Tọa Thiền.
-
01-
Bài học thứ nhất rút ra từ bản thân Lục Tổ Huệ Năng
-
Nhà nghèo, ít học, ở nơi quê mùa nhưng lại rất tin
vào tự tánh Phật của mình cũng như ở mỗi chúng sanh, nên khi
đối diện với Ngũ Tổ, ngài không có chút mặc cảm, trình bày
chánh kiến của mình:
-
-
Người thì có Nam có Bắc, nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc.
Thân quê mùa này cùng với thân Hòa Thượng chẳng đồng, nhưng
Phật tánh đâu có sai khác.
-
Nói
vậy nhưng ngài vẫn nghe lời Ngũ Tổ làm việc ở nhà bếp suốt tám
tháng trường, Ngài không làm được những việc vĩ đại như các vị
tổ khác: không đốt thân cúng dường, không dịch kinh, thuyết
pháp.. v.. v.. ngài chỉ giã gạo để lo việc ăn uống cho tăng
chúng trong chùa mà thôi. Cho đến một ngày Ngài được Ngũ Tổ
trực tiếp nói kinh Kim Cang cho con người tướng mạo quê mùa
nhưng trí tuệ phi thường. Lúc đó ngài chợt thốt lên:
-
- Ðâu ngờ tự tánh vốn thanh tịnh
-
Ðâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt
-
Ðâu ngờ tự tánh vốn đầy đủ
-
Ðâu ngò tự tánh vốn không dao động
-
Ðâu ngờ tự tánh vốn hay sanh muôn pháp.
-
Những lời này của Lục Tổ làm chúng ta nhớ đến lời
dạy của đức Thế Tôn về: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh trong Diệt Ðế,
đó là tự tánh thanh tịnh hay là cái chân ngã. Tâm ta như một
tấm gương có khả năng chiếu sáng kỳ diệu, ghi lại tất cả những
hình ảnh của bất cứ vật gì đi ngang qua(hay sanh muôn pháp) nó
mà không hề có phản ứng gì cả(vốn tự thanh tịnh, vốn không dao
động, vốn không sanh diệt). Ðể thực tập bài học này chúng ta
cố gắng trong đời sống hằng ngày, trong khi ăn uống, ngủ
nghỉ.. v..v.. an trú trong tâm Phật này càng nhiều càng tốt.
Ví dụ khi nghe ai phê bình mình hay nói xấu mình mà nổi tam
bành lục tặc lên, ấy là ta đã biến mất cái tâm thanh tịnh
thành tâm của loài A Tu La (quỷ chiến đấu) rồi. Nếu chúng ta
cố gắng theo dõi tâm(hơi thở) và giữ gìn tâm bớt dao động thì
một ngày nào đó có thể làm hiển lộ bản tâm thanh tịnh này và
hằng trú trong đó.
-
Ðại sư Sogyal Rinpoche ở thời đại chúng ta cũng
nói trong Tạng Thư Sống Chết về cái Tâm Bản Nhiên mà Lục Tổ
Huệ Năng gọi là tự tánh và thiền sư Bankei gọi là Tâm Bất Sinh
như sau:
-
- ...
Bởi thế, dù đời ta có thế nào đi nữa, Phật tánh của ta cũng
luôn ở đấy, và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư Phật với trí
tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được, và chúng
sanh với tất cả vô minh bất tận cũng không thể làm cho nó lấm
lem. Tính bản nhiên của tâm chúng ta có thể ví như bầu trời,
và sự mờ mịt của tâm thông tục giống như mây... Hoàn toàn cởi
mở, tự do, vô biên, Phật tánh ấy thực đơn giản, tự nhiên đến
nỗi không bao giờ trở thành phúc tạp, hư hỏng hay bị ô nhiễm,
nó thuần tịnh đến nỗi vượt cả ý niệm dơ sạch. Nhưng nói về tự
tính của tâm ví như bầu trời ấy chỉ là một ẩn dụ để giúp chúng
ta bắt đầu tưởng tượng được tính chất vô biên bao trùm tất cả
của nó; vì Phật tánh còn có một tính chất mà bầu trời không có
được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức, đó là cái giác tính
hiện tiền không lỗi nơi bạn, biết nhận thức mà vẫn trống rỗng,
giản đơn mà sáng suốt.
-
Dudjom Rinpoche cũng viết về nó, cái tâm bản nhiên
ấy:
-
- Không lời nào có thể mô tả,
-
Không ví dụ nào để chỉ rõ
-
Sinh tử không làm nó xấu hơn
-
Niết Bàn không làm nó tốt hơn.
-
Nó
chưa từng sinh
-
Nó chưa từng diệt
-
Chưa từng giải thoát
-
Chưa từng mê lầm
-
Chưa từng có cũng chưa từng không
-
Nó không có một giới hạn nào
-
Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả
-
Còn Nyoshul Rinpoche thì nói:
-
- Sâu xa vắng lặng, thoát mọi rắc rối
-
Sáng suốt không do kết hợp mà thành
-
Vượt ngoài tâm phân biệt đặt tên
-
Ðấy là tâm sâu xa của những đấng chiến thắng
-
Trong đó không một vật gì phải vứt ra
-
Cũng không một vật gì cần thêm vào
-
Ðầy thuần là cái vô nhiễm
-
Ðang nhìn vào chính nó một cách tự nhiên.
-
Thật là thú vị thay khi được nghe lời dạy của các
bậc thầy nói mỗi người một kiểu nhưng thật giống nhau, về cái
tự tánh của tâm.
-
02-
Bài học thứ hai là ý nghĩa hai bài kệ của ngài Thần Tú và ngài
Huệ Năng:
-
Bài
kệ của ngài Thần Tú
-
-
Thân thị Bồ Ðề thọ
-
Tâm
như minh cảnh đài
-
Thời
thời thường phất thức
-
Vật
sử nhá trần ai
-
Nghĩa
là:
-
Thân
là cội Bồ Ðề
-
Tâm như đài gương sáng
-
Luôn luôn phải lau chùi
-
Chớ
để dính bụi bụi
-
Bài
kệ của ngài Huê Năng
-
- Bồ
đề bổn vô thọ
-
Minh
cảnh diệt phi dài
-
Bản
lai vô nhất vật
-
Hà xứ
nhá trần ai
-
Nghĩa
là:
-
- Bồ
đề vốn không cây
-
Gương sáng chẳng phải đài
-
Xưa
nay không một
vật
-
Bụi bặm bám vào đâu?
-
Cả hai bài kệ đều cho ta những bài học quí.
-
Trước hết là bài của ngài Thần Tú. Mặc dù bài này
Ngũ Tổ cho là chưa đạt nhưng đối với hàng Phật tử chúng ta đây
cũng là phương pháp theo dõi tâm để đừng ô nhiễm bởi tham sân
si. Thật vậy, tâm ta cũng như vạn pháp, là vô thường: Phút
trước Phật, phút sau ma, tâm viên ý mã không biết đâu mà
lường. Nếu chúng ta không luôn tỉnh thức, không tự nhắc nhở
siêng năng lau chùi tâm thì e rằng sẽ bị bụi phóng xạ của tam
độc dính vào ngay, như thiền sư Sogyal Rinpoche, một vị thầy
vĩ đại của thế kỷ 20 đã nói:
-
- Quả
thật tâm ta đã được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử
và cho sinh tử, được huấn luyện để nổi ghen tuông, được huấn
luyện để bám víu, chấp thủ, được huấn luyện để lo âu phiền
muộn, thất vọng, thèm khát, được huấn luyện để phản ứng một
cách tức giận đối với bất cứ gì khiêu khích chúng ta. Thật
vậy, chúng ta đã được huấn luyện thuần thục tớì mức độ mà
những cảm xúc tiêu cực ấy nổi lên một cách tự nhiên không cần
cố gắng. Bởi vậy, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện tâm và năng
lực của thói quen như ngài Thần tú đã dạy: Thời thời thường
phất thức vậy.
-
Bài kệ của Lục Tổ phù hợp cho hàng căn cơ cao hơn,
những người đã nắm trọn tư tưởngTánh Không của tinh thần Kim
Cang, Bát Nhã. Tâm ngài đã rộng mở và thâm nhập tinh thần ấy,
rồi nhờ có bài kệ của ngài Thần Tú, ngài Huệ Năng mới có cơ
hội nói lên cái thấy của mình, cái thấy của một con người đã
giác ngộ, đã vượt qua tất cả ngã chấp và pháp chấp vậy. Bài
học của chung ta ở đây là tư duy vô ngã, mở rộng cái thấy chân
thật về cái ta và cái của ta, thật sự là không tồn tại. Nói
cách khác, vạn vật do duyên sinh, duyên tụ thì thành, mà duyên
rã thì mất, có vậy thôi! Tư duy này giúp chúng ta không hoảng
sợ chao đảo, giữ tâm bình an trước những vô thường của cuộc
đời không biết sẽ đến với ta vào lúc nào. Sau Lục Tổ mười thế
kỷ, Thiền sư Bankei(1622-1693) cũng nói:
-
- Tâm
là một cơ cấu năng động, việc của nó là phản chiếu, ghi lại,
hồi tưởng những ấn tượng về thế giới bên ngoài; nó như một
loại gương sống động luôn luôn vận hành, không bao giờ ở yên
từ giây phút này sang giây phút kế tiếp. Trong cái tâm như
gương sáng này những ý tưởng đến rồi đi, sanh diệt rồi lại tái
sinh tùy hoàn cảnh; tự bản chất chúng không tốt cũng không xấu
(Tâm bất sinh tr 36)
-
Hay:
-
-
...vì tâm Phật đang chiếu sáng kỳ diệu trong tất cả mọi người,
nên bạn có thể học hỏi đủ thứ, ngay cả trong những hành vi lầm
lạc...(tr 68).
-
Ðọc
Bankei ta có cảm tưởng đã bắt gặp Lục Tổ Huệ Năng trong vị
thiền sư Nhật Bản này.
-
03- Bài học thứ ba là vị trí tương đối giữa Ðịnh &
Tuệ.
-
Chúng
ta thường nghĩ rằng:
-
-
Phải giữ giới thì tâm mới định, tâm có định thì huệ mới phát
sinh. Qua phẩm Ðịnh Tuệ, ngài Huệ Năng đã rọi vào tâm trí ta
một ánh sáng mới: Ðó là Ðịnh Tuệ ví như ngọn đèn và ánh sáng,
có ngọn đèn tức là có ánh sáng, không ngọn đèn tức là tối. Vậy
đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn; tên tuy hai
mà thật sự chỉ có một thể, Ðịnh Tuệ cũng như thế, nói đơn giản
trong Ðịnh đã có Tuệ và ngược lại trong Tuệ đã có Ðịnh.
-
04- Bài học thứ tư là về Nhất Hạnh Tam Muội
-
Ngài
dạy về hạnh này rất rõ ràng:
-
-
Nhất hạnh tam muội là thường hành trực tâm trong tất cả mọi
lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ở tất cả mọi nơi. Trực tâm là tâm
không chấp trước, không kẹt hai bên, không còn trong vòng thị
phi như Có-Không, Sai-Ðúng, Yêu-Ghét, Lấy-Bỏ.. v.. v...
-
Thiền
Sư Bankei thì gọi Nhất Hạnh Tam Muội là Thực Chứng Tâm Phật
sống động nên về điều này Bankei cũng dạy:
-
- Với
một người thực chứng tâm Phật một cách rốt ráo thì khi vị ấy
đi ngủ cũng đi ngủ với tâm Phật, khi thức dậy là dậy với tâm
Phật, khi ngồi là ngồi với tâm Phật, khi nói là nói với tâm
Phật, khi im lặng là im lặng với tâm Phật, khi ăn cơm là ăn
cơm với tâm Phật, khi nói là nói với tâm Phật, khi uống trà là
uống trà với tâm Phật, khi mặc áo là mặc áo với tâm Phật..
v..v...Vào mọi lúc, vị ấy an trú liên tục trong tâm Phật, vị
ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn cảnh, cứ để mọi sự trôi theo
cách tự nhiên của chúng, chỉ cốt là không làm việc ác, chỉ làm
việc lành... nhưng không tự hào về những việc lành của mình,
không bám víu vào đó mà ghét những người xấu, vì như vậy là đi
ngược tâm Phật. Tâm Phật không thiện không ác, mà vượt ra
ngoài cả thiện ác(TBS tr 164).
-
05- Bài học thứ năm là về ba điểm then chốt trong
giáo lý của Lục Tổ đó là: tướng, vô niệm và vô trụ.
-
a- Vô tướng: Là ngay nơi tướng, mà lìa tướng,
không bị dính mắc vào các tướng ấy. Ví dụ:
-
-
Nhìn một bông hoa, một bức hoạ, một bảo vật.. v.. v.. ta thấy
đẹp, quí, hay.. v..v.. nhưng không bị kẹt vào đó, không dính
mắc vào đó, không sinh tâm ham muốn chiếm hữu nó...
-
b- Vô niệm: là đối cảnh không nhiễm, không dao
động, không khởi lên một ý tưởng hay một niệm phân biệt nào,
Ví dụ:
-
-
Nhìn mùa xuân đi qua mùa hè đến, mùa thu đi qua, mùa đông đến
với tâm tỉnh giác, ghi nhận sự khác nhau giữa các mùa với tâm
không nghĩa là không khởi lên sự yêu mùa thu ghét mùa hè, hay
sợ mùa đông.. v.. v...
-
c- Vô trụ: Là không lưu giữ bất kỳ một pháp nào
trong tâm, không sa đà, say đắm, không chỉ say rượu mà còn say
đủ thứ khác nữa, đến nỗi không kiềm chế được niềm say đắm của
mình, dẫn đến những hành vi bất thiện. Ðây là tinh yếu của câu
nói: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm trong kinh Kim Cang. Về
điều nầy, Bankei cũng dặn dò:
-
-
Ráng sức tu hành, cố tọa thiền để được giác ngộ điều sai.
Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phật với cái Phật tánh
nơi mỗi con người, mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự phân
hai, thành ra có người giác ngộ và chân lý được giác ngộ. Khi
còn đeo đẳng một chút nào cái ước muốn đạt giác ngộ, thì lập
tức đã giã từ cái bất sinh, đi ngược lại tâm Phật. Cái gì
không vướng vào thế giới bên ngoài chính là tâm Phật(TBS
tr145)
-
06-
Bài học thứ sáu cũng là bài học tâm đắc nhất của chúng tôi rút
ra từ phẩm Tọa Thiền.
-
Tổ
dạy:
-
- Nếu
người tu hạnh bất động thì không thấy việc phải, quấy, tốt,
xấu, lỗi lầm của người tức là tự tánh bất động. Nầy Thiện tri
thức! Người mê thân tuy bất động, mở miệng liền nói chuyện
phải, quấy, hay, dở, tốt, xấu của người, như vậy là cùng đạo
đã trái nhau, chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng đạo. Nầy Thiện
tri thức! Sao gọi là Tọa Thiền? Ngoài đối với tất cả cảnh giới
thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là Tọa. Trong thấy tánh chẳng
động gọi là Thiền.
-
Ngài
lại dạy:
-
-
Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Ðịnh.
-
Áp
dụng bài học này vào cuộc sống, ta không chỉ ngồi thiền mỗi
ngày vài lần vì đó mới là thân yên chưa đủ, mà còn phải tâm
yên nữa. Nghĩa là đừng thấy lỗi người, chỉ nên thấy lỗi mình
thì mọi việc trong ngoài mới gọi là lìa tướng và chẳng động
được.
-
Xin
mời các bạn nghe câu chuyện thiền sư Bankei xử lý những tăng
sĩ bê bối:
-
- Lúc
ấy Sư đang nhập thất ở chùa Jiziji, vị Tăng trị sự ở chùa Long
Môn của Sư đến vấn an ngài và trình bày rằng: Tại chùa Long
Môn có một số Tăng sĩ trẻ bê bối, vô trách nhiệm, hành vi thô
tháo, xáo trộn qui củ thiền môn, chúng con nghĩ nên gởi họ đi
đến chùa khác họa may có thay đổi.
-
Sư
bảo:
-
- Một
thiền viện được lập ra cốt để qui tụ những bọn xấu xa như bọn
ấy, chinh phục chúng bằng sự tiếp xúc thân mật để làm chúng
trở thành người tốt. thế mà ông, hoàn toàn thiếu từ bi, các
ông muốn đẩy chúng đi nơi khác để chúng gây rối chỗ khác! Một
người như thế có xứng đáng làm trụ trì một thiền viện không?
Khi một người không có từ bi quảng đại mà làm trụ trì chùa
tôi, đó là bắt đầu thời kỳ suy tàn của giáo lý tôi dạy.
-
Sau
lần bị quở trách nghiêm khắc ấy, tất cả chức sắc trong chùa
không ai còn dám phàn nàn gì với Sư về hành vi của các tu sĩ
trẻ(TBS tr199).
-
Tất
cả các bài học đều nói về tự tánh tâm, trí tuệ vô ngã và lòng
từ bi. Ý nghĩa của Thiền, Ðịnh, Tuệ.. v.. v.. không lìa tự
tánh thanh tịnh của Tâm.
-
Tóm
lại, tà kiến thì có nhiều nhưng chân lý chỉ có một, chúmg tôi
cảm thấy hạnh phúc khi những bậc chân nhân, sứ giả của chân
lý, dù diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ nào, ở vào bất cứ thời đại
nào, cũng đều mang một nội dung giống nhau. Chính nhờ vậy mà
Lục Tổ Huệ Năng, ngài Thần Tú, thiền sư Bankei, Sogyal
Rinpoche.. v..v.. đều nói lên những điều giống nhau về cái Tâm
bản nhiên hay Tự Tánh, tuy họ sống cách nhau nhiều thế kỷ và ở
trong những đất nước khác nhau. Ðiều này thật rất quí đối với
chúng ta vì nó củng cố niềm tin của chúng ta về con đường mình
đang đi, phải không các bạn? Ðể kết thúc, xin chia xẻ với các
bạn lời dạy của các bậc Thầy Milaraepa, Sogyal Rinpoche và đức
Dalai Lama:
-
-
Thấy được tánh không thì mở lòng thương xót
-
Hãy
luôn nhận chân tính mộng huyễn của cuộc đời để giảm bớt luyến
ái và thù ghét.
-
Hãy
có tâm tốt đối với mọi loài.
-
Trong
cái thế giới hỗ tương lệ thuộc mật thiết này, những cá nhân và
quốc gia không còn có thể tự giải quyết vấn đề riêng của họ
được. Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế, ta phải phát huy một ý
thức về trách nhiệm hỗ tương... Trách nhiệm của tập thể và của
từng cá nhân là bảo vệ và nuôi dưỡng đại gia đình địa cầu,
nâng đỡ những thành viên yếu kém, bảo trì và săn sóc môi
trường sống của tất cả chúng ta.
-
Ðây
là thông điệp quan trọng nhất cho nhân loại trong thế kỷ mới.
|