-
Khả Năng Ðóng Góp Của Cư Sĩ
-
Việt Nam Ở Hải Ngoại
-
Nguyên Thiện
-
--o0o--
-
-
Trong khuôn khổ thời gian ấn định, chúng tôi không có tham
vọng trình bày chi tiết với những luận giải, hay chứng minh
với những thống kê dữ kiện, mà chỉ xin nêu lên những quán xét
về hoàn cảnh thực tế để mong đi đến một vài kế hoạch hành động
cụ thể hầu đáp ứng phần nào nhu cầu cấp bách của những người
cầu học đạo Phật tại hải ngoại nói chung và tại Hoa Kỳ nói
riêng, nhất là những người trẻ tuổi gốc Việt và những người
bạn Hoa Kỳ. Bài tham luận này chia làm hai phần chính: Ðạo
Phật ngày nay tại Âu Mỹ, Tổ Chức Cần Có Và Khả Năng Ðóng Góp
Của Cư Sĩ Phật Tử Việt Tại Hải Ngoại trong việc hoằng pháp.
-
I-
ÐạO PHẬT NGÀY NAY Tại ÂU Mỹ
-
Ðạo Phật ngày càng bành trướng ở Tây Phương, nhất
là trong ba thập niên qua. Số người học và thực hành theo giáo
pháp của Phật tại Anh Quốc và các quốc gia Âu Châu khác cũng
như tại Hoa Kỳ tăng gia nhanh chóng. Hằng trăm ngàn, nếu không
muốn nói gần cả triệu người hăng say tìm học giáo lý Phật Ðà
trong hằng ngàn trung tâm học Phật, thiền đường vừa mới được
thiết lập từ Anh Quốc, các nước Âu Châu, Úc Châu cho đến Mỹ
Châu... Theo các cơ quan truyền thông Tây Phương ước lượng Ðạo
Phật là một tôn giáo đang phát triển nhanh nhất tại các nước
Âu Mỹ. Và cũng theo các cơ quan truyền thông này, nhu cầu tìm
học đạo Phật và sự phát triển của những cơ sở thực hành nếp
sống theo giáo lý của Phật vẫn tăng triển đều đặn. Người Tây
Phương đã tìm được ở đạo Phật những giải đáp thỏa đáng cho nếp
sống tâm linh trong khung cảnh xã hội mà nền khoa học và những
định chế dân chủ đã được phát triển đến mức tối đa. Nhưng cũng
chính hệ thống xã hội rất tiến bộ về vật chất này đã tạo ra
nhiều vấn nạn cho niềm tin và hạnh phúc đích thực mà những tôn
giáo khác đã truyền bá tại các nước này từ trước không đủ khả
năng giải đáp thỏa đáng. Người ta có thể khách quan khảo vấn
rằng:
-
-
Giáo lý và nếp sống theo đạo Phật đã có những gì mới khác có
giá trị và hữu ích hơn các tôn giáo khác khiến đã hấp dẫn được
người Âu Mỹ?(1)
-
01- Không bắt buộc tin theo giáo điều mà mời gọi
tìm chân lý theo khả năng của chính mình:
-
Ðạo Phật không đòi hỏi hành giả phải hoàn toàn tin
vào giáo điều, mà ngược lại khuyến khích họ thực nghiệm những
điều Phật dạy. Nếu họ thấy lợi lạc thực sự thì hãy theo, chứ
không cưỡng ép phải tin theo một cách mù quáng. Chính Phật đã
dạy cho những người Kalama rằng:
-
-
Ðừng thỏa mãn với những gì được trao truyền lại do lời đồn
đại, hoặc theo tập quán hoặc do truyền thuyết, hoặc những gì
viết lại trong kinh điển mà phải phân tích, luận giải, kiểm
chứng với những kinh nghiệm và kết quả thực sự có lợi đích
thực cho chính bản thân mình, cho người rồi hãy tin theo và
đem ra thực hành. Những điều dạy nào không mang lại sự thật,
có cơ nguy làm hại mình, làm khổ người, bị những hiền nhân
phản kháng, thì phải dẹp bỏ, không tin theo.
-
02- Khoan dung:
-
Nếu mình muốn dành quyền tìm chân lý cho chính
mình thì dĩ nhiên mình cũng phải đồng ý để cho người khác cũng
có quyền như mình, và nếu họ có những giải đoán khác mình,
mình cũng phải tôn trọng ý kiến của họ. Ðạo Phật là một tôn
giáo duy nhất chưa hề có những cuộc thảm sát vì khác niềm tin,
những cuộc thánh chiến, thiêu đốt kinh sách hay hỏa thiêu tín
đồ tôn giáo khác... Chủ trương khoan dung của đạo Phật rất cần
thiết cho thế giới ngày nay mà những khác biệt chủ thuyết, tôn
giáo, hệ thống chính trị, quyền lợi kinh tế.. v..v... ngày
càng trầm trọng.
-
03- Truyền thống cởi mở và bình đẳng tự khảo
nghiệm:
-
Tiến trình đi tìm chân lý tự giải thoát của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni là một gương sáng dũng mãnh đầy khích lệ,
và là một nguồn hứng khởi vô biên cho nhân loại. Những khuyến
tấn đầy nhân tính và bình đẳng của Ngài là những thúc dục
thiết tha và thực tiễn:
-
-
Phật là chúng sanh đã giác ngộ, chúng sanh là Phật sẽ giác
ngộ.
-
Ðây
là một khuyến khích vô cùng tích cực và bình đẳng mà chưa có
một vị giáo chủ nào từ trước đến nay và có lẽ mãi mãi về sau
dám xác quyết. Không những thế Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni, vị
Phật thị hiện làm người để chỉ bày chân lý vốn đã có sẳn muôn
đời do chư Phật trong mười phương khai truyền, lại đích thân
dùng tất cả những phương tiện thiện xảo để giáo hóa cho tất cả
mọi lớp người từ cùng đinh ngu dốt đến bậc đại trí tuyệt chủng
thông minh đều có thể hiểu và thực chứng những điều Ngài dạy,
để mang lại an lạc giải thoát cho chính mình và cho người. Hệ
thống tu Bồ Tát đạo là một nguồn hứng khởi cao thượng vô biên,
đầy tình người, chuyên chở nhiều xã hội tính của con người.
-
04- Thực tiễn, thực chứng:
-
Ðạo Phật là một tôn giáo khuyến khích hành giả tự
khảo nghiệm để thực chứng những lời Phật dạy tùy theo căn cơ
và khả năng tu trì của chính mình ngay trong cuộc đời này, chứ
không bắt buộc phải tin theo một hệ thống tín điều viễn vông
nào, hay không phải chờ đợi được phán xét hay tưởng thưởng bởi
một đấng bề trên siêu hình đầy quyền năng nào trong tương lai
sau khi chết. Ðạo Phật là một triết lý sống, một tiến trình
tìm học và thực hành một cách nghiêm chỉnh, có phương pháp,
hợp lý, hợp căn cơ của mọi trình độ. Ðạo lý căn bản về Tứ Diệu
Ðế(3), Duyên Khởi(4), Sáu Ba La Mật(5), và Tám Chánh Ðạo(6) là
nền tảng cho tất cả mọi tông phái Phật giáo, từ Tiểu Thừa cho
đến Ðại Thừa, từ Hiển Giáo cho đến Mật Giáo, từ Thiền Tông cho
đến Tịnh Ðộ Tông... Học, hiểu, và thực hành năm giới cấm(7),
hay mười giới thiện(8)... lạy Phật, đọc tụng tên chư Phật, chư
Bồ Tát, đọc tụng thần chú, ngồi thiền, quán chiếu thân tâm...
không phải là những tín điều mù quáng, mà là một nếp sống thực
có khả năng chuyên chở và khai mở nhiều năng lực mầu nhiệm
giúp hành giả ngày càng phát triển sự hiểu biết, lòng thương
người, biết tôn trọng sự sống và hạnh phúc của mọi loài, dễ
khoan dung và thông cảm nỗi khổ đau của mọi người, mọi loài.
Chính những khả năng này là chìa khóa đem lại sự an lạc cho
tâm hồn hành giả, làm giảm bớt những căng thẳng thần kinh,
giảm bớt khổ đau vì nhiều tham muốn, thù hận, thiếu hiểu biết,
thiếu kiên nhẫn tạo nên một phần do thói quen của nếp sống bản
thân, gia đình, phần khác do nền giáo dục, phong tục, tập
quán, và hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội trao truyền.
-
05- Khả năng hàn gắn và chuyển hoá:
-
C. G. Jung từng viết:
-
-
Toàn thể thế giới mong muốn hòa bình và toàn thể thế giới
chuẩn bị chiến tranh. Nhân loại đang bất lực trong tiến trình
chống lại nhân loại. Và thượng đế, như tự bao giờ, vẫn chỉ bày
cho chúng ta con đường định mệnh(9). Ðây là tình trạng không
lối thoát(tiến thoái lưỡng nan) của nhân loại ngày nay. Chúng
ta đang phải đối đầu với quá nhiều vấn đề nan giải, từ hệ
thống chính trị, xã hội, kinh tế, tâm lý, môi sinh, và dĩ
nhiên là thường trực dưới sự đe dọa bị hủy diệt của chiến
tranh nguyên tử. Quả đất chúng ta đang sống đích thực là một
quả bom nổ chậm, mà từng giây phút chúng ta cảm thấy như đang
tiến dần về vô vọng của những thế lực đen tối mà chúng ta
không đủ khả năng hiểu biết và nhất là không có khả năng kiềm
chế. Chúng ta đã dễ dãi qui hướng những sai trái thảm họa này
cho nhóm người này, cho quốc gia nọ... Thỉnh thoảng một vài
nhà chính trị, nhà xã hội tuyên xướng như họ đã tìm ra lối
thoát, nhưng kỳ thực chỉ là những giải pháp phiến diện nếu
không nói là ảo vọng(chủ thuyết tư bản, cộng sản, dân chủ,
chuyên chính...)
-
Những giải pháp này chỉ giải quyết tạm bợ và nhất thời trên bề
mặt một số vấn đề của nhân loại chứ chưa thực sự luận giải
nguyên nhân đích thực của những sai trái thảm họa. Nếu chúng
ta thực tâm quán xét một cách thâm sâu thì nguyên nhân của tất
cả thảm họa sai trái bắt nguồn từ tâm trí của chính mỗi cá
nhân chúng ta. Chính cái tâm tham lam, sân hận, ngu dốt, nhiều
đố kỵ và kiêu căng của mỗi cá nhân đã được khuếch đại và vận
dụng tập thể tạo nên những khổ nạn cho toàn nhân loại. Chỉ
nhận định suông về những ma lực đen tối trong mỗi cá nhân chưa
đủ khả năng giải quyết những thảm họa mà chúng ta đang phải
đối phó, mà chúng ta cần phải tinh tấn đào luyện sự hiểu biết
cần thiết và can đảm mang chúng ta ra ánh sáng để kiến giải.
Sự tỉnh thức và hiểu biết giúp chúng ta chuyển hóa những ma
lực đen tối này thành nguồn sáng trí tuệ để phát triển lòng từ
bi. Ðạo lý Phật giáo có thể tích cực giúp chúng ta phương
hướng, tài liệu và tài nguyên để thực hiện tiến trình kiến
giải này. Vì vậy hơn bao giờ hết, nhân loại thật sự cần tìm
học và thực hành những giáo lý của Phật dạy.
-
Trên đây là tóm yếu những đặc tính tiêu biểu và
khả năng đóng góp của Phật giáo vào tiến trình kiến giải những
vấn nạn của nhân loại ngày nay. Ðó cũng là những lý do tại sao
những người Âu Mỹ chuộng khoa học, thích dân chủ và phóng
khoáng đang và sẽ càng ngày càng ưa chuộng tìm học và thực
hành đạo lý Phật Ðà. Hơn thế nữa, những tiến bộ khoa học trong
mọi lãnh vực trong bốn thập niên vừa qua đã nâng cao trình độ
hiểu biết của loài người, đã giúp nhân loại không những luận
giải các vấn đề của quả đất chúng ta đang sống, mà còn cống
hiến những hiểu biết mới lạ về toàn thể sự cấu thành, chuyển
hóa của cả vũ trụ. Những hiểu biết mới này đã chiếu rọi những
tia sáng cực mạnh làm tan biến những huyền luận sau sự thật
của nhiều hệ thống tôn giáo theo tín điều trước đây.
-
Thật vậy nếu chúng ta tìm hiểu tiến trình phát
triển đạo Phật tại Hoa Kỳ trong bốn thập niên qua, chúng ta sẽ
nhận thấy rõ ràng những yếu tính sau đây:
-
01- Dân chủ:
-
Tại Á Châu, đạo Phật là một hệ thống tổ chức có
tính cách tôn ti từ dưới lên trên mà quyền hành tập trung vào
một thiểu số trưởng lão tăng già. Từ việc quản trị điều hành
tu viện, đến chương trình huấn luyện việc tu học cũng như trao
truyền những kinh nghiệm thực chứng tâm linh đều tập trung vào
một số nhỏ các vị trưởng lão tăng già. Sự chỉ bảo và phán xét
của quí vị này là chung quyết tối thượng, không một tăng sinh
nào dám chất vấn mà chỉ biết tuân hành, chứ đừng nói đến hành
giả đại chúng chỉ là những vai thụ động giới hạn trong việc hỗ
trợ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tu học của tăng chúng.
Tại Bắc Mỹ, nhất là tại Hoa Kỳ, với tinh thần dân chủ và tập
quán phóng khoáng coi trọng tự do cá nhân và bình đẳng giữa
các giai cấp, tuổi tác... hệ thống tổ chức trên đây không còn
thích hợp mà đã phải biến cải. Phật tử Âu Tây được huấn luyện
để suy nghĩ và kiến giải đạo lý Phật Ðà cho lợi lạc của chính
mình đã không thích ứng được với mô thức tổ chức nêu trên. Tại
Hoa Kỳ, sự tham gia bình đẳng và sinh hoạt dân chủ giữa tất cả
thành viên của tăng thân( tăng ni đoàn, tăng ni sinh, hành
giả nam nữ), trong tinh thần hợp tác và lưỡng lợi hai chiều
trong các quyết định về sở hữu cơ sở, quản trị, điều hành,
sinh hoạt của tổ chức là đặc tính nổi bật của một hệ thống
tăng thân Phật giáo mới tại đây.
-
02- Bình đẳng Nam Nữ:
-
Phong trào khai phóng Nữ giới tại Hoa Kỳ là một
thực lực quan trọng. Không như tại Á Châu, từ ngôn ngữ trong
kinh điển và các lễ nghi, cho đến tổ chức, quản trị và diều
hành các tu viện, đều mang nặng Nam tính. Ðiều này cũng dễ
hiểu vì từ khi đạo Phật được khai sáng bởi Ðức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni hơn hai ngàn năm trăm năm trước cho đến nay, phần đông
chư Tăng đã góp phần lớn vào tiến trình xây dựng hệ thống giáo
điển cũng như hoằng truyền giáo pháp của Ðấng Thế Tôn. Nhưng
đạo lý Phật Ðà không phân biệt Nam Nữ, đơn thuần là một hệ
thống tu học và khảo nghiệm chân tâm để đạt tới giác ngộ giải
thoát. Do đó, sự kiện người nữ không được đối xử bình đẳng
trong tiến trình hành đạo là điều không ổn và không hợp lý.
Thực vậy đạo lý bình đẳng và duyên khởi vốn là một cái nhìn
cốt tủy khoa học và khách quan về thế giới thực tại mà đạo
Phật đã cống hiến cho nhân loại. Do đó, phong trào bình đẳng
nam nữ tại các quốc gia Tây phương là một thử thách lớn giúp
thiết lập một hệ thống hành đạo quân bình và hợp lý hơn cho
đạo Phật ngày nay vậy.
-
Nhập Thế:
-
Một đặc điểm khác của đạo Phật đang phát triển ở
Tây phương và Bắc Mỹ là nhập thế. Ở Á Châu đạo Phật thường
biểu trưng bằng tu viện, chùa chiền, hang động, những người ẩn
tu trong núi cao, rừng thẳm... Những tăng sĩ, ông đạo, tu sĩ
ẩn tu, thường là những người xuất thế gian, xa lìa cuộc sống
bận rộn ngoài xã hội. Ðại đa số Phật tử là những người ở ngoài
đời, bận rộn với cuộc sống thường nhật, họ không ngồi thiền
hay hạ thủ công phu hằng ngày, họa hoằn chỉ có một số nhỏ
người già hay đã về hưu mới thực tập tụng kinh niệm Phật hằng
ngày. Khối đa số quần chúng Phật tử này chỉ biết cúng dường hỗ
trợ cho những ngôi chùa, tăng ni đoàn để họ có phương tiện
chăm lo việc tu hành. Ngược lại ở Âu Mỹ, hành giả Phật giáo
không thoả mãn với vai trò chỉ hỗ trợ cho người khác tu, mà họ
muốn chính họ phải được tu học để giải thoát cho chính họ. Họ
muốn tìm học và thực tập những phương pháp có khả năng mang
lại sự an định cho tâm hồn, phát triển trí năng, và nguồn an
lạc cho chính bản thân và gia đình ngay trong cuộc sống bận
rộn thường nhật. Những người theo đạo Phật ở Âu Mỹ là những
người tại gia, có gia đình, có công ăn việc làm, họ muốn thực
hành nếp sống theo lời Phật dạy ngay trong cộng đồng xã hội họ
đang sống, chứ không có ý niệm rút lui vào chùa viện, thoát ly
gia đình. Dưới mắt họ, tăng ni đoàn là những hướng đạo tâm
linh, những người bạn lý tưởng có khả năng giúp họ học, hiểu
và thực hành giáo pháp của Phật để giúp họ đạt được cứu cánh
hạnh phúc thực tế ngay bây giờ và trong cuộc đời này. Vì vậy
chùa viện, tăng ni đoàn không mang nặng tính chất thiêng liêng
trang nghiêm cao cả như Phật Tử Á Châu thường cung kính tôn
thờ, mà chỉ là những phương tiện cần có cho việc tu học như
tranh tượng, ghế ngồi thiền, chuông mõ, hương trầm, kinh sách,
băng video thuyết pháp..v.. v... không hơn kém. Họ thường biểu
lộ sự thân thương bằng cách ôm vào lòng rất tình người, hoặc
chấp tay nở nụ cười chào thân thiện, chứ không sụp lạy từ xa
đầy cung kính như người Phật tử Á Châu thường làm. Ngay cả lối
xưng hô cũng rất bình đẳng và dân chủ, điều này cũng dễ hiểu
vì ngôn ngữ Âu Tây không có khả năng phân biệt giai cấp, địa
vị, tuổi tác... như số lớn ngôn ngữ Á châu. Nói như vậy không
có nghĩa là họ thiếu cung kính lễ độ đối với tăng ni đoàn. Sự
kiện này đã làm nản lòng rất nhiều tăng ni được huấn luyện từ
các nước Á Châu, nhất là từ Trung Hoa, Nhật Bản, Ðại Hàn và
Việt Nam... và một số nghiêm tăng Tây Tạng. Nhưng kinh nghiệm
của hơn hai ngàn năm trăm năm truyền pháp cho chúng ta một cái
nhìn rộng rãi nhiều tin tưởng hơn, vì chính bản chất bao dung,
giải thoát của đạo Phật sẽ hội nhập và biến cải một cách mầu
nhiệm để cống hiến lợi lạc thiết thực cho bất cứ một quốc độ
nào có cơ may tìm đến với Phật pháp. Những tăng ni trẻ, những
cư sĩ học giả Phật Giáo được đào tạo tại Âu Mỹ sẽ có những
phương pháp và cung cách truyền pháp phóng khoáng, dân chủ
thích hợp với văn hóa phong tục và khung cảnh xã hội địa
phương. Ðiều quan trọng là đạo lý căn bản và nếp sống đạo hạnh
của Phật giáo phải được trao truyền một cách chính xác không
bị bóp méo hay biến thể vượt ngoài chánh pháp vì nhu cầu văn
hóa địa phương.
-
Cơ sở tôn giáo biệt lập với tổ chức chính quyền:
-
Một đặc điểm khác không kém phần quan trọng là tại
Hoa Kỳ, theo hiến pháp, cơ sở tôn giáo biệt lập với tổ chức
chính quyền. Do đó các cơ quan chính quyền không thể giúp đỡ
hay ban ưu quyền gì cho các hội đoàn tổ chức tôn giáo được.
Nhưng ngược lại, các hội đoàn được ưu đãi bằng cách được miễn
các sắc thuế, và tiền cúng dường, đóng góp của hành giả vào
các tổ chức, hội đoàn tôn giáo được khấu trừ thuế lợi tức liên
bang và tiểu bang. Tài sản của các cơ sở bất vụ lợi, hội thiện
thuộc về quyền sở hữu của cộng đồng khi ngưng hoạt động hay
giải tán. Ðây là điểm then chốt quan trọng cần phải lưu tâm
khi thành lập các tổ chức, tạo mãi các cơ sở, chùa viện.(Còn
tiếp)
|