Mùa Xuân & Trúc Lâm Đại Sĩ
Nhất Quán
--o0o--
 
Người Việt Nam đại đa số, nếu là Phật Tử thì khi nói đến núi Yên Tử không ai là không biết đó là Trung Tâm Phật Giáo nổi tiếng từ đời Nhà Trần. Núi Yên Tử, có rất nhiều vị thiền sư nổi tiếng, nhưng có lẽ vị Thiền Sư được nhiều người nhắc đến nhiều nhất đó là: Trúc Lâm Ðại Sĩ.
            A- Tiểu Sử
          a- Người Con Có Hiếu
            Trúc Lâm Ðại Sĩ chính là Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng, triết gia, và thi sĩ, tên là Khâm con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Hậu, sinh năm ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Lúc mới sanh thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng cho nên Thái Tông và Thánh Tông tức là ông nội và cha đều cho là lạ, vì thế nên gọi là Kim Phật. Tuy nhiên tác giả sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư là một nhà Nho không ưa Phật Giáo nên nói rằng: Ở hai cung mọi người đều gọi Thái Tử là Kim Tiên Ðồng Tử. Mặt dầu đây là những chi tiết không đáng kể, nhưng nếu thẩm định giá trị, thì cũng làm cho giảm đi ít nhiều về phương diện trung thực của sử liệu. Ngài tuy ở địa vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền Tôn từ thuở nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử, Ngài cố từ để nhường cho em, mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc Mẩu cho Ngài tức là Khâm Từ Thái Hậu sau nầy. Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc mà tâm Ngài vẫn thích đi tu.
Năm 21 tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng Ðế. Tuy ở địa vị cửu trùng, mà Ngài vẫn giữ thanh tịnh để tu tập. Thường ngày đến Chùa Từ Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa, Ngài thấy trong rốn mọc lên môt bông sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có đức Phật vàng. Có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói:
- Biết ông Phật nầy chăng? là đức Phật Biến Chiếu.
Tỉnh giấc Ngài đem viêc đó tâu lên lên Vua cha. Vua Thánh Tôn khen là viêc kỳ đặc. Ngày thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế làm lạ hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Thanh Tông khóc bảo:
- Nay ta đã già, chỉ trong cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của Tổ Tiên. Nghe vua cha dạy như thế, Ngài cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài không những rất thông minh hiếu học, đọc hết hết các sách vở, suốt thông nội điển và ngoại điển, mà Ngài cũng là một người con có hiếu. Những khi nhàn rỗi, Ngài mời các thiền khách bàn giải về tâm tông, tham học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, và kính lễ Thượng Sĩ làm Thầy.
b- Anh Hùng Dân Tộc
            - Chiến Thắng Quân Nguyên Mông
            Thời gian trị vì của Vua Trần Nhân Tôn là lúc đất nước Ðại Việt đang đứng trước thử thách ghê gớm, đó là hiểm họa xâm lược lần thứ hai và lần thứ ba của giặc Nguyên Mông. Trong hai lần kháng chiến nầy, Trần Nhân Tông đã trở thành sợi dây liên lạc kết chặt lòng dân, lãnh đạo quân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc chiến dấu tới thắng lợi huy hoàng.
            a- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Hai
            Sau lần thất bại thứ nhất, đế quốc Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến(1259-1264) và cuộc chiến tranh với Triều Ðình Nhà Tống(1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279 nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đã nằm dưới ách thống trị của Nhà Nguyên. Sau khi không khuất phục được Ðại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, vua Nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt và A Lý Hải Nha chỉ huy đã lên đường bắt đầu xâm lược Ðại Việt lần thứ hai. Lần nầy, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, vua Nguyên Mông còn sai Nạp Tốc Lạc Ðinh đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang và ra lệnh cho Toa Ðô đem đạo quân còn đóng ở Bắc Champa đánh vào mặt nam của Ðại Việt. Sau vài trận đánh chận giặc ở Lạng Sơn và Tuyên Quang trong ngày 26 tháng 12 năm 1284 quân ta lại rút lui về thế thủ. Ngày 6 tháng Giêng năm 1285 tướng Nhà Nguyên là Ô Mã Nhi đánh vào Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Ngày 12 tháng giêng năm 1285 giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Ðông Ngàn bắt được nhiều quân lính của Nhà Trần, thấy người nào cũng thích hai chữ Sát Thát, có nghĩa là Giết Giặc Thát Ðát vào cánh tay, Ô mã Nhi tức lắm vì thế mà quân Nguyên giết hại rất nhiều người. Thế mạnh của địch đã bắt đầu tiến tới bờ bắc sông Hồng, áp sát kinh thành Thăng Long. Vua tôi Nhà Trần đứng trước sự lựa chọn căng thẳng:
            - Phản công quyết chiến bảo vệ kinh đô.
            - Tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng và xây dựng cơ sở để chờ thời cơ diệt giặc?
            Ðiều cốt yếu là lúc nầy làm sao nắm được địch tình, rút ra được kết luận về thế giữa ta và địch thì mới có thể lựa chọn đúng sách lược. Giữa lúc nguy biến chưa tìm ra cách nào làm được điều nầy, thì Chi Hậu Cục Thư Ðỗ Khắc Chung tâu với Vua:
            - Thần tuy tài hèn sức mọn nhưng xin với bệ hạ cho đi vào đất giặc để mà biết giặc.
            Vua Trần Nhân Tông mừng và nói:
            - Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế. Rồi sai Ðổ Khắc Chung đưa thơ giảng hòa.
            Chiều ngày 12-2-1285 Ðỗ Khắc Chung vượt sông Hồng bằng con thuyền nhỏ, lấy cớ đưa thơ cầu hòa của vua Trần rồi lọt vào hành dinh Ô Mã Nhi. Gặp mặt Ðổ Khắc Chung, Ô Mã Nhi nói:
            - Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ Sát Thát, khinh nhờn thiên binh lỗi ấy to lắm.
            Khắc Chung đáp:         
            - Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung với nước nên họ tự thích chữ như vậy chớ không ai bảo họ cả. Quốc vương tôi không biết, tôi là cận thần tại sao tôi không có!
            Nói xong Khắc Chung đưa cánh tay cho Ô Mã Nhi xem.
            Ô Mã Nhi nói:
            - Ðại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo để hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?
            Khắc Chung nói:
            - Hiền tướng không theo sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiểu thì mới có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người!
            Ông đối đáp với chủ tướng giặc, thông minh khiến hắn vị nể, lưu lại một đêm. Thời gian nầy Ðỗ Khắc Chung tìm cách khéo léo quan sát địch tình. Sáng sớm hôm sau giờ mão ngày 13-2-1285 ông đã bí mật trở về kinh thành Thăng Long. Nhờ đấy Vua tôi nhà Trần quyết định rất đúng đắn:
            - Thế giặc đang rất mạnh, cần rút lui gấp, lập vườn không nhà trống ở kinh thành.
            Ðây là lần thứ hai, vua tôi nhà Trần lại bỏ trống Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên. Và để tránh vào thế bị kẹp vào giữa các gọng kềm của giặc, đại quân và triều đình chờ cho cánh quân của Toa Ðô tiến đến Trường Yên tức là Ninh Bình cũ thì đại quân rút vào Thanh Hóa. Trong khi một bộ phận lớn của quân chủ lực rút, thì khắp nơi quân địa phương và dân binh các lộ phối hợp với các cánh quân nhỏ của triều đình để lại, đã không ngưng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch vườn không nhà trống được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến lại giáng lên đầu những tai họa mới như Sử Nhà Nguyên đã ghi chép:
- Bệnh dịch hoành hành...Nước lụt dâng to ngập ướt doanh trại.
Thời cơ phản công của quân ta đã đến. Tháng 5-1285, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc, kế hoạch diệt địch như sau:
            - Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lãnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng.
            - Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn đem quân vòng qua vùng Hải Ðông, tiến lên Vạn Kiếp chặn đường tháo chạy của địch.
            Cuộc diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: Cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải tỏa thành Thăng Long. Thoát Hoan hoảng hốt rút khỏi Thăng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Ðến đây bọn giặc lọt vào trận mai phục của Trần Hưng Ðạo, bị thương vong rất nhiều. Ðám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng khi đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chận đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng, rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên Ðại Tướng Lý Hằng đi đọan hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết. Trong khi cánh quân của Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạc Ðinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan bỏ chạy Toa Ðô và Ô Mã Nhi kéo ra Bắc theo sông Hồng định về Thăng Long, nhưng đến Tây Kết bị quân ta chặn đánh Toa Ðô bị chém còn Ô Mã Nhi thì chạy trốn, hai vua đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn tàn quân. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai bị hoàn toàn thất bại.
            Ngày 6 tháng 6 năm 1285 hai vua trở về kinh sư, Thượng Tướng Trần Quang Khải có làm bài thơ:
            Ðoạt sáo Chương Dương độ
            Cầm hổ hàm Tử quan
            Thái bình tu trí lực
            Vạn cổ thử giang san
            Nghĩa là:
            - Bến Chương Dương cướp giáo
            Cửa Hàm Tử bắt thù
            Thái bình nên gắng sức
            Non nước cũ muôn thu.
Trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai thành công dựa trên nhiều yếu tố, tuy nhiên một trong những yếu tố quan trọng nhất là phải nói đến lòng can đảm của Ðỗ Khắc Chung, một tình báo nổi tiếng đời nhà Trần.
b- Chiến Thắng Quân Nguyên Mông Lần Thứ Ba
Ngay sau thất bại nầy, tháng 3 năm 1286 vua Nguyên là Hốt Tất Liệt đã ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới, nhưng phải chờ đến cuối năm 1287, các đạo quân Nguyên Mông mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy tiến vào mặt Lạng Sơn. Một đạo khác do Ái Lỗ cầm đầu từ Vân Nam đánh và Tuyên Quang. Song song với việc tiến hành kế hoạch xâm lược, Hốt Tất Liệt còn ra lệnh quân của ba tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, và Giang Tây xâm lược Ðại Việt mượn cớ đưa Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương. Lần nầy không còn cánh quân phía Nam, nhưng vua Nguyên lại phái thêm một cánh thủy quân, sai Ô Mã Nhi chỉ huy hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ vào Ðại Việt theo đường biển. Lúc bấy giờ vua hỏi Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn:
- Thế giặc năm nay thế nào?
Quốc Tuấn trả lời:
- Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc đao binh. Cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp, thì có kẻ đầu hàng, có kẻ chạy trốn. Nhờ uy linh của tổ tiên và thần võ của bệ hạ, nên đã quét được bụi Hồ. Nay nếu nó trở lại thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì phải sợ đi xa. Vả lại, chúng còn nơm nớp sợ cái thất bại của Lý Hằng và Lý Quán không còn có chí chiến đấu. Theo thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn.
Tháng 12 năm 1287, khi đoàn thuyền tiến vào vùng biển An Bang(Quảng Ninh) Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân chận đánh, nhưng không cản được giặc. Ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa Bạch Ðằng không chú ý vào đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1 năm 1288, đoàn thuyền lương thực của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Ðồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Văn Hổ chống không nổi, đổ cả lương thực xuống biển trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu(Hải Nam)
            Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với 30 vạn Thủy quân của Ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng ở lại đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững chắc, mãi đến tháng 1 năm 1288 mới chia quân tiến về Thăng Long. Lần thứ ba quân dân và triều đình nhà Trần lại bỏ ngỏ Thăng Long, quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2-2-1288. Ngay sau đó Thoát Hoan vội sai Ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển để đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền lương đã không còn nữa! Không có lương thực đạo quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long lâm vào tình trạng nguy ngập. Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân lui về Vạn Kiếp. Trên đường rút quân về Vạn Kiếp, giặc bị quân dân ta chận đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên nói với Thoát Hoan:
- Ở Giao Chỉ không thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu, làm hổ thẹn cho triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn.
Trước tình hình đó Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: Cánh quân bộ rút qua biên giới Lạng Sơn, còn cánh quân thủy thì theo sông Bạch Ðằng rút ra biển. Kế hoạch rút quân của địch không ngoài sự dự liệu của Trần Hưng Ðạo. Ông đã bố trí chặn giặc ở biên giới và quyết định một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Ðằng. Từ đầu tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, đẽo nhọn đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Ðằng, chờ ngày tiêu diệt địch. Sáng ngày 9-4-1288 đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi tiến vào đoạn sông chiến lược Bạch Ðằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục, thì từ các ngánh sông các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào bãi cọc. Giặc áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yễm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hất xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xẩy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo giòng nước, vướng cọc làm tan vỡ rất nhiều. Cho đến khoảng 5-7 giờ tối toàn bộ chủ sự của giặc bị tiêu diệt. Ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng sông Bạch Ðằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Ðan Ba, chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây chúng cũng bị quân ta chận đánh, tướng giặc là A Bát Xích bị trúng tên chết. Mãi đến ngày 19-4-1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh. Chiến Thắng Bạch Ðằng oanh liệt đã vùi chôn vĩnh viễn mộng xâm lăng của Hốt Tất Liệt.
            Thế là trong vòng 30 năm quân dân dưới triều đại nhà Trần đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất của thời đại, để bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước, góp phần bảo vệ nền độc lập cho các nước Ðông Nam Á. Sức mạnh để làm nên chiến thắng là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Ðạo đã nói:
- Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức.
Chính nhờ khối đoàn kết đó mà cuộc chiến tranh nhân dân: Cả nước đánh giặc, trăm họ là binh mới có thể thực hiện được. Sau cùng, nguyên nhân sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn định kinh tế, xã hội thời Trần, được tạo ra từ đường lối lấy dân làm gốc. Nói đến những chiến công chống xâm lược đời Trần chúng ta không thể không nhớ đến câu nói tuyệt vời của Trần Hưng Ðạo: Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.
            Qua hai cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào những lúc đầu của cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương, Trần Nhân Tông đã từng viết lên đuôi chiến thuyền hai câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta:
            - Cối kê cựu sự quân tu ký,
            Hoan diễn do tồn thập vạn quân.
            Nghĩa là:
            - Cối kê chuyện cũ ngươi nên nhớ.
            Hoan diễn đang còn chục vạn quân.
            Sau khi đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba, ngày 17 tháng 4 năm 1288, vua Trần Nhân Tông đem các tù binh bị bắt trong cuộc chiến như: Tích Lệ Ngọc Cơ, Nguyên Soái Ô Mã Nhi, Tham Chính Sầm Ðoàn, Phàn Tiếp, Nguyên Soái Ðiền..v..v.. làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng, mộ của Thái Tông Hoàng Ðế. Tưởng cũng nên biết, trong lúc quân Nguyên chiếm đóng thành Thăng Long lần thứ ba nầy, vì hận bại trận lần trước, nên quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi, thì quân dân nhà Trần kịp thời giải cứu Thăng Long, vì thế mà quân Nguyên chưa phạm tới quan tài của Thái Tông. Sử gia thời bấy giờ cho rằng nhờ thần linh giúp đỡ nên mới may mắn như vậy. Khi cử hành lễ bái yết, trong lúc cảm xúc nhà vua viết bên Chiêu Lăng tại Long Hưng(Thái Bình) hai câu thơ:
            - Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
            Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
            Nghĩa là:
            - Xã tắc hai lần lao ngựa đá,
             Non sông nghìn thưở vững âu vàng.
Bốn câu thơ trên đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên Mông năm 1285 và 1288 trong đó Nhân Tông là vị chủ soái. Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành được trong sự nghiệp cứu nước, Trần Nhân Tông đã chú ý tới vai trò của người dân lao động mà thời đó gọi là gia nô, gia đồng. Ngài cho rằng họ mới là những người trung thành với đất nước khi có giặc ngoại xâm.
c- Vị Thiền Sư
Sau 14 năm làm vua, năm Quý Tỵ 1293, theo truyền thống của nhà Trần, Nhân Tôn nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái Thượng Hoàng. Ở ngôi Thái Thượng Hoàng ngài chỉ dạy cho con được sáu năm thì ngài sắp đặt việc xuất gia. Tháng 10 năm Kỷ Hợi 1299 Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử, Ðông Triều, Quảng Ninh.
Hơn mười năm tu tập, ngày 19 tháng 10 năm 1308, ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử gọi Bảo Sát đến gặp Ngài gấp. Ngày 21 Bảo Sát đến am Ngọa Vân.
Ðến ngày mồng 1 tháng 11 năm 1308, niên hiệu Long Hưng thứ 16 đêm đó trời trong sao sáng, Ngài hỏi Bảo Sát:
- Hiện Giờ là giờ gì?
Bảo Sát bạch:
- Giờ Tý.
Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem và nói:
- Ðến giờ ta đi.
Bảo Sát hỏi:
- Tôn đức đi đến chỗ nào?
Ngài nói bài kệ:
- Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Chư Phật thường hiển tiền
Hà khứ lai chi liễu dã.
Nghĩa là:
- Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Nào có đến đi ấy vậy.
Bảo Sát hỏi:
- Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
- Chớ có nói mớ.
Nói xong, Ngài nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch. Ngài lưu lại cho đời những tác phẫm:
- Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
- Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập
- Tăng Già Toái Sự
- Thạch Thất Mỵ Ngữ do Pháp Loa soạn lại lời của Ngài.
Như vậy Trúc Lâm Ðại Sĩ, Ngài lên ngôi lúc 20 tuổi, trị vì 21 năm, nhường ngôi cho con, và xuất gia năm 41 tuổi, băng hà ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, tro cốt đưa về táng ở Ðức Lăng, thọ 51 tuổi. Suốt 21 năm, Ngài là bậc nhân chủ lãnh đạo quốc gia, ngồi trên ngai vàng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Lúc nhỏ Ngài được vua cha và thầy là Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy đạo lý Thiền thấm nhuần sâu xa, nên khi Ngài Xuất gia không cần  tầm học, chỉ thực hiện điều đã học được.
Trúc Lâm Ðại Sĩ, cũng là Thiền Tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Xét trên bình diện Triết Học, Trần Nhân Tôn có một vị trí quan trọng. Ngài là một triết gia lớn của Phật Học Việt Nam và cũng là người có công đã phát triển nền triết học Phật Giáo Việt Nam thời Trần đến chỗ rực rỡ và thể hiện đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư tưởng triết học Trần Nhân Tôn là tinh thần thực tiễn.
Về phương diện thi sĩ ngài là một người có tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với cảnh vật thiên nhiên:
- Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
            Bạch lộ song song phi hạ điền.
            Nghĩa Là:
            - Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
            Bóng chiều man mác có dường không
            Theo lời kèn mục trâu về hết
            Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Thơ của Trần Nhân Tôn, ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo thơ Trần Nhân Tông để lại một tiếng ngân trong đến sâu thẳm.
Cho đến ngày nay, mặc dù Trúc Lâm Ðại Sĩ Ngài đã trở vể với hư vô, nhưng Ngọa Vân Am vẫn còn đó, núi Yên Tử vẫn còn đây. Theo vị trí hiện nay thì Núi Yên Tử nằm tại giáp giới Hải Dương, Bắc Giang và Quảng Yên là ngọn núi cao nhất miền Hải Ðông. Trên đỉnh thường có mây bao phủ, nên ngày trước có tên là Bạch Vân Sơn. Tương truyền, xưa kia từ thời Tần Thủy Hoàng có một đạo sĩ tên là Yên Kỳ Sinh từng làm nghề bán thuốc rong ở vùng ven biển, tới núi nầy tu hành sau hóa thành đá, do vậy mà từ ấy núi có tên là Yên Tử.
Nếu chúng ta là khách hành hương thì đoạn đường phải đi từ chân núi lên tới ngôi Chùa cao nhất ở khu Yên Tử dài gần 30 cây số. Trên chặng đường ấy, sẽ đi qua 20 công trình lớn nhỏ khác nhau. Ðường lên núi biết mấy nhọc nhằn, cho nên không biết tự bao giờ, dân gian đã có câu ca dao:
            - Nào ai quyết chí tu hành
            Có lên Yên Tử mới đành lòng tu.
            Ở chân núi Chùa được dựng lên bên bờ suối. Bên suối tắm có Chùa Cấm Thực(nhịn ăn), bên suối Lân có Chùa Lân... Mỗi ngôi Chùa đều như gắn liền một câu chuyện hình thành từ buổi Vua Trần Nhân Tôn xuất gia.
            Qua dốc Voi Xô thì đến núi Hạ Kiệu, ghi dấu nơi Vua Trần Anh Tôn lên núi thăm Vua Cha phải xuống kiệu từ đây. Ðường lên Chùa xếp đá làm thành bậc. Hai bên đường trồng thông, nay có cây chu vi đến 4m60. Ngôi tháp nổi trội nhất trong khu Yên Tử là Tháp Tổ bằng đá 6 tầng. Chính giữa là Huệ Quang Kim Tháp tức là tháp đức Giác Hoàng trong có tượng đá. Trước mặt tháp có cây hương đá. Bốn mặt tường quanh tháp được xây bằng loại gạch thời Trần. Trên đỉnh tường lợp ngói mũi hài kép, cũng là sản phẩm thời Trần, phía ngoài tường gạch, quây quần rừng tháp 45 ngọn. Mỗi ngôi tháp ấy là nơi cất giữ hài cốt của một vị sư tu hành ở đây. Con đường từ cửa tò vò sau tháp Huệ Quang lên Chùa Hoa Yên lát loại gạch vuông lớn, in hình hoa cúc ngan nay còn được 84 viên. Chùa Hoa Yên và các Chùa chung quanh tạo nên thế kiến trúc chính của khu Yên Tử. Thời Trần, Chùa có tên gọi là Vân Yên, khoảng niên hiệu Hồng Ðức, Vua Lê Thánh Tôn ngự du thăm Chùa, thấy hoa cỏ xanh tươi, nhà Vua mới đổi tên là Hoa Yên. Hai bên Chùa Hoa Yên có Viện Phù Ðồ, Lầu Trống, Lầu Chuông, Nhà Dưỡng Tăng, và Nhà Khách. Xa hơn bên phải Chùa Hoa Yên có Chùa Thiền Ðịnh nơi Vua Trần ngày xưa đọc kinh niệm Phật, còn bên trái là Chùa Một Mái, nơi Vua Trần đọc sách. Sau lưng Chùa Hoa Yên có Chùa Phổ Ðà. Ngược lên đỉnh núi có Chùa Bảo Sái, rồi lên cao có Chùa Vân Tiên. Phong cảnh Chùa Vân Tiên ngày ấy hẳn là đẹp lắm, vì thế mà trong bài thơ Vân Tiên Am Vua Trần Anh Tông đã từng cao hứng viết:
            - Ðình đình bảo các cao phan vân
            Kim tiên cung khuyết vô phàm trần
            Tạm Dịch:
            - Nhà cao tợ lọng đụng mây xanh
Cung điện thần tiên không nhiễm trần.
Như thế chúng ta thấy, Núi Yên Tử thì ngàn đời vẫn không thay đổi, nhưng phải đợi tới thế kỷ thứ XIII sau khi chiến thắng giặc Nguyên Mông xâm lược, Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử, chọn nơi nầy tụng kinh niệm Phật, khởi xướng Thiền Phái Trúc Lâm. Từ đó Yên Tử mới trở thành Trung Tâm Phật Giáo nổi tiếng cả nước. Và núi Yên Tử cũng là đỉnh non vùng Ðông Bắc Việt Nam không những đã là Trung Tâm của Thiền Phái Trúc Lâm mà còn mãi mãi là một kỳ quan hùng vĩ, một pháo đài vững chãi giữ vững biên cương.
            B- Mùa Xuân Trên Ðỉnh Núi
Nói đến xuân chúng ta thường nghĩ đến sự ấm áp tươi vui, nghĩ đến sự ấm no hạnh phúc, nói đến sự nhẹ nhàng thanh thản. Trong đạo Phật các Thiền Sư cũng thường dùng chữ Xuân để nhắc nhở chúng ta. Nhờ lời khuyên dạy của các Ngài, chúng ta càng tu càng phấn khởi hơn, càng vui thích hơn. Ở đây chúng tôi muốn nói đến sự đạt đạo của Trúc Lâm Ðại Sĩ trong bài thơ Xuân:
            - Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa tung
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
Dịch:
- Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trãi giường thiền ngắm cánh hồng.
                                    Xuân Vãn
Qua khẩu khí của bài thơ, và nhìn vào cuộc đời sống động của Trúc Lâm Ðại Sĩ, chúng ta thấy:
01- Khi còn nhỏ Ngài là một người con hiếu thảo thông minh, chăm học. Ðặc biệt là nghiên cứu về đạo từ bi. Chính Ngài cũng đã thọ giáo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, và Ngài cũng đã từng biết rõ đời là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã:
- Mình ngồi thành thị
Nết dùng lâm sơn
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
                                    Cư Trần Lạc Ðạo
Nhưng cái biết đó chỉ mơ hồ cho nên Ngài cũng có những niềm vui rộn rã khi những độ xuân về, và cũng ưu sầu khi mỗi lúc Xuân qua:
- Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
02- Khi làm vua thì quên mình giữ nước, hết dạ chăn dân. Cả hai lần giữ vững biên cương, nhà nhà an lạc. Trong thời gian vừa làm vua cầm quân xông pha ngoài trận tuyến thì thực hiện mộng của một quân vương, một anh hùng cứu nước, và giữ nước. Nhưng khi trở về hậu phương thì làm một phật tử thuần thành không bao giờ xao lãng việc tu tập:
- Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chơi nước biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết hồng đào, hay liễu tục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng,
Lo hoán cốt, ước phi thăng đan thần mới phục. Nhắm trường sinh, về thượng giới thuốc thỏ còn đam,
Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu,
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nửa hoàng kim
                                                                  Cư Trần Lạc Ðạo
Thế rồi thời gian và đạo vị nuôi dưỡng Ngài trưởng thành một con người toàn bích, dung hợp giữa đạo và đời, nhìn thấu suốt thời gian và không gian để trở thành một Trúc Lâm Ðại Sĩ, tổ thứ nhất của dòng Thiền Phái Trúc Lâm của Việt Nam:
- Chúa xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trãi giường thiền ngắm cánh hồng.
03- Khi đi tu thì nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục. Hình ảnh sống động nhất là thời gian sau khi nhường ngôi cho con, Ngài chuyên cầu tu tập theo hạnh đầu đà lấy hiệu là Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà. Sau đó ngài lập Chùa, cất tịnh xá, để tiếp độ chúng tăng, học tăng tới tham học rất đông:
- Gìn tính sáng, tính mới hầu an
Ném niềm vọng, niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương,
Dừng hết tham sân mới lưu lòng mầu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương.
Di Ðà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc.
Xét thân tâm rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe
Cần giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay.
Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đem bạc.
Nhược chỉn vui về đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung,
Dầu hay mến thửa thân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
                                    Cư Trần Lạc Ðạo
Ngài cũng đi khắp các nơi để truyền bá thiền tông, đồng thời cũng khuyên dân chúng dẹp bỏ những miếu thờ thần không chính đáng, và dạy dân chúng tu hành thập thiện. Từ đó trong nhân gian thấm nhuần pháp vũ của ngài.
Trên mười năm kể từ khi xuất gia, mang hiệu là Trúc Lâm Ðầu Ðà, Ngài tích cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuất gia Ngài giáo dục chúng tăng đem pháp Thập Thiện giáo hóa toàn dân, khiến Phật Pháp mở rộng trong nhân gian. Ngài cũng đã từng có lần đi bộ từ Thăng Long đến Trà Bàn kinh đô của Chiêm Thành, và lưu trú tại đây hơn bảy tháng trời để tìm hiểu về nếp sống, văn hoá, phong tục tập quán của vương quốc nầy với mục đích duy nhất là tạo sự cảm thông để chung sống hoà bình của hai nước Chiêm Việt. Công tác hoằng truyền Phật Pháp, giáo hoá nhân dân, Ngài làm suốt đời không dừng nghỉ.
Có những lúc Ngài cũng vân du trong rừng hoang cỏ nội, ung dung rảo gót lên vùng núi vắng, phóng tầm mắt nhìn cảnh sắc, nhìn trở lại nhân gian trong mùa Xuân rực rỡ trên núi Bảo Ðài. Giữa cảnh trời mây non nước bao la, non xanh nước biếc, mây phong đỉnh núi, nước chảy xuôi dòng. Ngài cảm nhân nơi đây thiên nhiên vừa hiện thực, vừa kỳ ảo, vừa tĩnh lặng vừa biến động, vừa gần gủi vừa viển mơ. Ngài trầm tư ngắm cảnh, cảm thấy tâm hồn thơ thới, nhẹ nhàng. Ngài dạo quang cảnh núi từ khi sáng rợp đến lúc trăng lên, rồi tựa lan can nâng sáo trúc. Ngài thổi lên một bản nhạc du dương, có những lúc tâm hồn bay bổng vượt thoát thiên nhiên, có những lúc dìu dặt hòa đồng vào vạn vật. Nơi đây không còn nhân, ngã:
- Ðịa tịch đài thêm cổ.
            Thời lai xuân vị thâm,
Vân sơn tương viễn cận
            Hoa kình báo tình âm
            Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm nhủ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
Nghĩa là:
- Núi vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chưa nồng
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng
Tựa lan nâng ống sáo
Ðầy ngực ánh trăng lồng
Một bức tranh xuân tuyệt mỹ và thanh nhã. Với nét đan thanh, Ngài đã vẽ nên một khoảng không gian bao la, bát ngát, từ cao đến thấp, từ xa đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm đó đối chiếu cái to tát, hùng vĩ với cái vi tế, mỏng manh của vạn hữu. Nhưng dầu hùng vỉ hay mỏng manh, đều nằm trong nguyên lý Vạn Hữu Nhất Thể. Vạn hữu biến động, chân như vĩnh hằng. Với những hình ảnh tiêu biểu đầy ấn tượng, những mầu sắc tươi mát, thơ mộng gợi cảm:
- Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Dòng nước như dòng đời, chảy xuôi chớ không bao giờ chảy ngược. Người trẻ rồi già, cây non rồi cỗi. Người già cây cỗi rồi cũng chết, chết rồi lại tái sanh. Vạn hữu vận chuyển luân hồi không bao giờ mất. Người tỉnh giác tự nhủ lấy lòng những hình ảnh thơ mộng:
- Ngõ hoa
            - Mây, núi,
            - Nước chảy
            - Trăng lồng
Ðó chỉ là sự kết hợp kỳ diệu của hữu và vô, của sắc và không, là sự thể hiện nhiệm màu của chân không diệu hữu:
- Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng
Tựa lan nâng ống sáo
Ðầy ngực ánh trăng lồng.
Trước vẻ hoang vắng tịch liêu, ngọn núi Bảo Ðài đã cổ càng tăng thêm phần cổ kính. Vạn vật theo thời gian mà biến đổi đó là luật biện chứng của lý vô thường, một trong Ba Pháp của đạo Phật, nhưng trong nhãn quang của Trúc Lâm Ðại Sĩ thời gian vẫn vô thủy vô chung, bao nhiêu xuân đã đến rồi đi, với thời gian vô tận đó nhưng xuân không bao giờ già. Ngày lại ngày tiếp nối nhau, nhưng ngày không bao giờ cũ. Nghĩa là Xuân vẫn trẻ, tình vẫn nồng. Ngày vẫn mới, đời vẫn đẹp. Dưới cái nhìn tỉnh thức của kẻ liễu đạo, thiền sư cảm thấy tâm hồn mình thanh thoát an nhiên, tự tại, vạn sự vạn pháp, không còn gì đối đãi như dưới mắt phàm phu, thật là một bài thơ xuân trác tuyệt.
Qua ba giai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống gia đoạn nào ra giai đoạn đó, vì thế trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạo thì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực, nên lãnh vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dục lạc trong hoàng cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trận, nếu nói tội lỗi thì cũng rất nhiều. Nhưng khi dứt khoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổ tu hành. Với ý chí cương quyết đó chỉ trong vòng mười năm Ngài đã tiến đến chỗ sanh tử tự tại. Ðây là tấm gương sáng rỡ để nhắc nhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội lỗi, chỉ sợ xuất gia rồi mà thái độ mập mờ. Ngài là con người thấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọc bài kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Ðạo thì sẽ rõ:
- Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơm tắc xan hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Nghĩa là:
- Trong đời vui đạo hãy tùy duyên
Ðói đến thì ăn mệt nghỉ liền
Nhà mình báu sẳn thôi tìm kiếm,
Ðối cảnh không tâm chờ hỏi thiền.
Nếu là một người trắng tay mà đi tu thì còn có thể nghĩ rằng đi tu vì thời thế, hoặc tu vì miếng cơm manh áo, nhưng địa vị của một ông Vua, sống trong cung vàng điện ngọc, lợi danh, tình ái cám dỗ mà nhà vua quyết tâm dứt bỏ mới thật là hay. Ðiều nầy nói lên sức mạnh phi thường của con người thoát tục. Vì thế Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm bài kệ Xuất Trần như sau:
            - Tằng vi vật dục dịch lao khu
            Bài lạc trần hiêu thế ngoại du
            Tán thủ na biên siêu Phật Tổ
            Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu
            Dịch:
            - Ðã từng ham muốn phải long đong
            Ném quách mà ra khỏi bụi hồng
            Buông thỏng bờ kia lên Phật Tổ
            Một lần phủi giũ một lần xong.
Tâm lý người đời ưa chạy theo vật dục trần gian nên phải khổ sở gian truân. Nếu can đảm ném bỏ hết, vượt ra ngoài vòng trần lụy, quả là can đảm phi thường. Có thế mới buông thõng tay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Nhưng phải mạnh dạn dứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Tâm tình của một con người yểu yểu, xìu xìu, cắt không đứt, dứt không rời, bước tới một bước lùi hai bước, con người như vậy làm việc gì cũng thế, khó mà thành công.
Trúc Lâm Ðại Sĩ cũng là con người như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài đã một đi không bao giờ trở lại, vì thế mà Ngài đã trở thành một con người hiếu thảo, một anh hùng của dân tộc, một bậc thầy của chúng sanh. Vậy chúng ta phải cố gắng đi mãi trên con đường tươi đẹp đã chọn dù phải vấp té trầy chân hay gặp những hòn sỏi phiến đá ngăn trở. Nhưng dù có chướng ngại có khó khăn bao nhiêu cũng không ngăn cản được bước chân của những tâm hồn khoáng đạt của những con người nguyện quyết tiến đến chỗ an lạc miên viễn mới thôi. Người tu là người thấy tương lai mình xán lạn tươi vui, chớ không phải càng tu rồi càng tối tăm đâu khổ. Chính mỗi bước tiến trên con đường chân thiện mỹ, là mỗi bước chúng ta hướng về mục tiêu cao quý nhất, an lạc nhất của đời mình. Vì vậy khi nói đến xuân chúng ta cảm nhận một niềm vui tươi tràn đầy ở ngày mai.
- Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân
Nghĩa là:
- Số đời trong hơi thở
Biển bạc lòng người tham
Cung ma cai quản ngặt
Cõi Phật Xuân nào hơn.
Qua bài kệ tỉnh thức của Ðức Ðiều Ngự Giác Hoàng cho chúng ta thấy:
- Số đời một hơi thở
Biển bạc lòng người tham.
Khi bản thân của Ðức Ðiều Ngự, Ngài thấy cuộc đời ngắn ngủi trong hơi thở, thở ra không hít vào là đã qua đời khác. Thế mà lòng người thì mênh mông trong tham vọng. Ðược cái nầy muốn cái kia, được điều nầy muốn điều khác... muốn mãi không thôi cho đến ngày tắt thở cũng chưa dừng. Thế rồi người ta đuổi nhau mà tạo, giành ảnh hưởng, danh lợi rồi tự mình chuốc khổ.
Hai câu đầu của bài kệ đánh thức mạnh mẽ để chúng ta biết rằng cuộc đời quá ngắn ngủi, không có gì quan trọng, là đáng kể. Nhưng lòng tham của chúng ta quá lớn so với kiếp người ngắn ngủi của chúng ta:
- Cung ma cai quản ngặt,
Cõi Phật Xuân nào hơn.
Ngài Trúc Lâm Ðại Sĩ chỉ cho chúng ta thấy hai con đường. Nếu chúng ta đuổi theo danh lợi tài sắc, rồi tạo bao nhiêu nghiệp xấu ác thì chúng ta sẽ đi tới cung ma. Cung ma cai quản ngặt không được bước ra khỏi cổng, còn bị hành ha tra khảo, đó là cảnh khổ đau đen tối. Còn nếu trong cuộc sống ngắn ngủi nầy, chúng ta biết tu, biết hướng về đạo, đem hết tâm mình tiến đến chỗ giác ngộ thanh tịnh, đó là chúng ta trở về cõi Phật, tức là trở về mùa Xuân đẹp đẻ không gì bì kịp.
Vì thế Ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà khuyên chúng ta phải nhờ hai con đường một bên là cung ma đen tối đau khổ bị cai quản ngặt, một bên là cõi Phật an vui tự tại lúc nào cũng là Xuân. Giữa hai con đường đó chúng ta phải chọn một để đi. Chúng ta đang đi trên con đường rộng thênh thang đẹp đẽ, tươi mát và an lạc, con đường Xuân tức là con đường về cõi Phật.
Qua hình ảnh của Trúc Lâm Ðại Sĩ, cho chúng ta một bài học hết sức cao quý: Sống ngay trong trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui. Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như đói thì ăn mệt thì nghỉ, đừng cố chấp, cứng nhắc mà tự khổ đau. Phật đã sẳn nơi ta khỏi phải nhọc nhằn sang đông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là cái đối cảnh tâm không động, chính nơi đây là Thiền rồi. Người học đạo nhận thấy Phật đã sẳn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện ra thì tâm đừng chạy theo cảnh. Ðây là lối tu thật đơn giản, thật cũ thế mà người đời khó tin, khó nhận.
C- Kết Luận
Bàn về vua Trần Nhân Tông, lúc còn là một ông vua, Nhân Tông đã trở thành sợi dây liên lạc kết chặt lòng dân, lãnh đạo quân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy hoàng. Có được như vậy là nhờ ở nhà vua có đủ các đức tính: Khoan, nhân, trí, dũng. Ở điểm nầy chúng ta thấy các vị vua dưới thời Trần gần như ai cũng có. Ðến khi xuất gia, cuộc đời của Trúc Lâm cũng là một cuộc đời tích cực. Nói về khía cạnh của xã hội, ngài đã có một ý định xây dựng nền hòa bình Chiêm Việt lâu dài. Còn nói về khía cạnh Giáo Hội thì ngoài những mùa kiết hạ an cư tại các am Tử Tiêu, Ngọa Vân, Thạch Thất, Tri Kiến hay các Chùa Vĩnh Nghiêm và Siêu Loại, ngài còn thường vân du hoằng hoá đây đó. Ngài đi đến đâu cũng được dân chúng ái mộ, khâm phục và lời khuyên của vua có tác dụng lớn. Thập Thiện chính là giáo lý nhập thế căn bản của Ðạo Phật, lấy giáo lý Thập Thiện làm cơ bản cho đạo đức xã hội, Trúc Lâm đã có ý muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng luân lý Ðạo Phật. Một ông vua con ngồi trên ngôi ủng hộ Phật Giáo, một ông vua cha làm tăng sĩ chu du trong quần chúng, sự kiện nầy thật đặc biệt chưa từng có trong lịch sử. Dù có ý thức hay không, Trúc Lâm cũng đã góp phần vào việc củng cố triều đại và chế độ bằng những công tác hành đạo tích cực trong nhân gian. Như thế có thể nói Phật Giáo Trúc Lâm là một nền Phật Giáo nhập thế, liên hệ mật thiết tới chính trị, phong hóa và xã hội.
Qua các văn kiện lịch sử cho chúng ta thấy khá đầy đủ chân tướng của các vị vua Thiền Sư Nhà Trần, như Trần Thái Tông, và Trần Nhân Tông. Ðại lược tất cả các sử gia, kể cả những sử gia có khuynh hướng coi trọng Nho Giáo nhưng đả kích Phật Giáo cũng đều công nhận các vị vua Thiền Sư của triều đại nhà Trần là hiền nhân quân tử, văn võ kiêm toàn, là người có đủ khoan, nhân, và độ lượng của bậc đế vương thật đáng khen.
 
Tài Liệu Tham Khảo
- Văn Hoá Việt Nam
- Thiền Sư Việt Nam
- Bước Ðầu Học Phật
- Am Mây Ngủ
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Khóa Hư Lục Trần Thái Tông
- Thiền Học Trần Thái Tông
- Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
-- o0o --