-
LÝ THƯỜNG KIỆT
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
--o0o--
-
-
-
-
Nực cười châu chấu đá xe
-
Tưởng chừng chấu ngã, chẳng dè xe nghiêng
-
Phong Dao
-
-
Sau
chín năm, kể từ khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Một
vĩ nhân của nước Ðại Việt(tên nước Việt Nam bấy giờ) ra đời.
Vĩ nhân đó là Ngô Tuấn. Sau này Ngô Tuấn được vua Lý Thái Tông
tin dùng, nhà vua coi như người em và được mang họ vua, đổi
tên khác là Lý Thường Kiệt.
-
Lý
Thường Kiệt người làng Bác Biên, xã Phúc xá, huyện Gia Lâm.
Sau Ông dời về phường Thái Hòa, bấy giờ là vườn Bách thảo,
quận Ba Ðình, thành phố Hà Nội. Ông sinh năm Kỷ mùi(1019), mất
năm Ất Dậu(1105), hưởng thọ 86 tuổi.
-
Thân phụ là một võ tướng bị mất khi đang thanh sát
vùng biên giới Hoa Việt, năm ấy Lý Thường Kiệt 13 tuổi, nhưng
được mẹ và người chú hết sức dạy dỗ từ văn chương tới võ nghệ.
Năm 23 tuổi ông được tuyển vào cung làm hoạn quan(eunuch) với
chức Hoàng môn chi hậu; rồi thăng dần đến chức Thái Úy(chức
Thống chế ngày xưa hay Tổng tư lệnh ngày nay)
-
Suốt
63 năm tận trung báo quốc, ông đã làm được cho dân, cho nước
nhữmg công trình tuyệt vời từ chính trị, văn học, quân sự và
Phật sự...
-
Trong chính trường, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, có
những phương sách đối ngoại, đối nội rất giỏi, là chỗ dựa tin
cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dười thời Hoàng Ðế Lý
Nhân Tông (1072-1127).
-
Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, là tác
giả của Nam Quốc Sơn Hà, áng hùng thư có giá trị thiêng liêng
như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất từ thời tự chủ.
-
Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại tướng, là linh hồn
của những chiến công bình Chiêm, phạt Tống, những chiến công
lớn nhất lịch sử nước nhà trong thế kỷ thứ XI.
-
Danh
sĩ Ðặng Minh Khiêm, đời Hồng Ðức làm một bài thơ vịnh Lý
Thường Kiệt ghi trong Thoát Hiên Vịnh Sử Thi như sau:
-
- Ðệ
huynh chỉ xích thị minh quang,
-
Tài
lược kiêm ưu hữu mão dương.
-
Bắc
phạt, Nam chinh, huân nghiệp trước,
-
Thù
phi môn ngoại tiểu điêu đương.
-
Giáo
sư Trần Xuân Hãn Dịch:
-
-
Anh em chầu chực chốn đền đài,
-
Tài
lược gồm hai lại đẹp trai
-
Ðánh
Bắc, bình Nam huân nghiệp rạng,
-
Hoạn
thần nhưng khác lũ hầu sai.
-
Và;
trong đạo Phật, ông là một Phật tử có nhiều công đức. Ông xây
chùa Thiên Xứng ở Thanh Hóa. Thiền Sư Pháp bảo, người sống
cùng thời đã ca ngợi:
-
-
Tông giáo qui sùng
-
Cảnh
phúc thị thực.
-
(Thuận theo và tôn sùng Phật Giáo
-
Giữ
gìn phúc đức quả là đây)
-
Trong lịch triều hiến chương loại chí, học giả Phan Huy Chú(là
con của Phan Huy Ích, sinh năm 1782-1840. Hai lần đi sứ sang
Tàu đời vua Minh Mạng) đã viết về Lý Thường Kiệt như sau:
-
-
Ông là người giàu mưu lược và có biệt tài làm tướng, từng làm
quan trải thờ đến ba đời Hoàng Ðế( gồm Lý Thái Tông 1028-1054,
Lý Thánh Tông 1054-1072 và Lý Nhân Tông 1072-1127, phá Tống,
bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật
xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy.
-
Lý
Thường Kiệt biết rằng, Nhà Tống đang dòm ngó Ðại Việt, chỉ chờ
cơ hội thuận tiện là đem quân sang đánh để sát nhập nước ta
làm châu quận của nước Tàu(Ðại Việt vẫn chưa quên một ngàn năm
bị Tàu đô hộ trước đó); vì vậy Lý Thường Kiệt muốn đánh Tống
bất ngờ để được lợi thế(Tiên hạ thủ vi cường).
-
Nhưng trước khi đánh Tống(1075) Lý Thường Kiệt phải tấn công
Chiêm Thành. Việc chinh phạt nước Chiêm lần này có ba mục
đích:
-
1-
Không còn bận tâm ở phía Nam để dốc toàn lực phá Tống ở phía
Bắc.
-
2-
Giải quyết vấn đề nhân mãn do mật độ ở Trung châu bắt đầu lên
cao.
-
3-
Tái chiếm ba châu( Ðịa Lý, Ma Linh và Bố Chính, là tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị ngày nay) để đặt ảnh hưởng chính trị của Ðại
Việt, thực hiện chủ quyền của dân tộc ta trên các địa hạt mà
nước Chiêm đã nhượng cho Ðại Việt từ năm Kỷ Dậu(1069) dưới
thời Lý Thánh Tông, nhưng người Chiêm vẫn còn quấy nhiễu để
đòi lại ba châu này.
-
Nhà
Tống đến đời Tống Thần Tông(1068-1078), có Vương An Thạch làm
Tể tướng. Vương là một chánh trị gia có tài, có đầu óc cách
mạng tân tiến. Vương đặt ra nhiều phép cải cách như: hưng nông
điền, thuỷ lợi, quân thâu, bảo giáp, miễn dịch, bảo mã phương
điền... Nếu những kế hoạch này thành công thì nước Tàu sẽ rất
hùng mạnh và là mối lo cho Ðại Việt. Nhưng những cả cách táo
bạo đó đã đụng chạm đến lớp chủ điền, lớp quan lại cùng phe
bảo thủ và họ đang ngấm ngầm bất mãn, bất cộng tác, có cơ nguy
làm lung lay chế độ. Biết như vậy Vương An Thạch muốn toàn dân
nhất trí, toàn dân đoàn kết, hướng dẫn dư luận vào một mục
tiêu đánh Ðại Việt. Vương sai Tri Châu Tiêu Chú ở Phiên
Ngu(Ung Châu) thi hành kế hoạch. Tiêu Chú đến Quế Châu giao
dịch với các Tù trưởng, từ Ðạo Ðạc Ma đến Châu Ðiền Ðống để
nghiên cứu tình hình Ðại Việt. Nhưng lúc này Ðại Việt đã chiến
thắng Chiêm Thành, bờ cõi mở rộng về phương Nam, dân sinh quốc
kế rất thịnh đạt nên Tiêu Chú lo sợ chưa dám phát binh. Vương
An Thạch bèn cử Thẩm Khởi thay thế Tiêu Chú.
-
Thẩm
Khởi thu xếp mọi việc theo ý Vương An Thạch, chuẩn bị quân
lính, vũ khí và tiếp liệu để Nam chinh. Nhưng sau không biết
vì lẽ gì mà Thẩm Khởi thất sủng. Tống triều cử Lưu Gi thay
thế.
-
Lưu
Gi cho người đi thanh tra các khe ngòi, các đồn lũy, sửa soạn
binh khí, làm thuyền bè và cấm không cho người ở châu quận gần
đấy đi lại buôn bán với người Ðại Việt.
-
Bên
Lý triều thấy thái độ bất thân thiện của Lưu Gi, bèn viết thư
sang hỏi Tống triều, thì được biết Lưu Gi giữ thư lại không đệ
về kinh. Nhân cớ đó Lý triều sai Lý Thường Kiệt làm Tổng Tư
Lệnh và Tôn Ðản làm phụ tá, đem 10 vạn quân, chia làm 2 đạo,
thủy bộ cùng tiến đánh Trung Quốc, lấy cớ rằng nhà Tống do
Thừa tướng Vương An Thạch đặt ra phép cải cách mới làm khổ
trăm họ. Vậy quân Ðại Việt sang đánh để cứu vớt nhân dân Trung
Quốc...
-
Một
danh tướng Nhật Bản, dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi
nghiên cứu về chiến lược đánh Tống đã khen ngợi là:
-
- Sự
tấn công bất ngờ của Lý Thường Kiệt đã tạo thành lịch sử chiến
tranh(Ly Thuong Kiet’s surprise attack made war history ).
-
Ông
viết tiếp:
-
-
Trước nguy cơ ngoại bang xâm lấn không thể tránh được, Lý
Thường Kiệt tấn công địch trước. Ðây là một chiến lược căn bản
nhằm phá vỡ ý chí xâm lược của địch quân. (When the danger of
foreign invasion could not be voided. Ly Thuong Kiet advocated
attacking the enemy first. This was an original strategy aimed
at thwarting the enemy’s aaggressive will)
-
Năm
Ất Mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu và Liêm
Châu(thuộc tỉnh Quảng đông) giết hại hơn 8000 người. Ðạo quân
của Tôn Ðản sang đánh Ung châu (tức là thành Nam Ninh, Quảng
Tây). Quan Ðô Giám là Trương Thủ Tiết đem binh lại cứu, bị Lý
Thường Kiệt đón đánh ở Côn Lôn quan(gần Nam Ninh), chém tướng
Trương Thủ Tiết ở trận tiền.
-
Tôn
Ðản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Ðam
quyết chí tử thủ. Ðến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô
Ðam bắt gia đình tất cả 36 người chết trước, rồi tự đốt theo,
người trong thành theo gương quan tri châu, không ai chịu hàng
cả. Quân Tôn Ðản vào thành giết hại gần 58,000 người.
-
Tổng
số thiệt hại nhân mạng về phía Trung Hoa lên tới 10 vạn, quân
Việt đại thắng, rồi rút về nước, mang theo một số tù binh và
của cải.
-
Vua
Tống được tin nầy thì vô cùng tức giận, bèn sai Quách Quì là
Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, cùng với 9 danh tướng khởi
binh 10 vạn. Quân Tống cũng hội với quân Chiêm Thành và Chân
Lạp để cùng tấn công Ðại Việt.
-
Tháng chạp năm Bính Thìn(1076), quân Tống vào địa hạt nước ta.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Lý, Tống đã xảy ra ở sông Như Nguyệt
(làng Như Nguyệt, Bắc ninh, tức là sông Cầu, ngoại ô thành phố
Hà Nội bây giờ). Quân Tống bị thua, chết hơn 1000 người. Quách
Quì tiến quân về phía Tây đến đóng ở bờ sông Phú Lương(một
khúc ở phía Tây sông Như Nguyệt).
-
Lý
Thường Kiệt đem binh thuyền lên đón đánh không cho quân Tống
sang sông. Quân Tống bèn chặt gỗ làm máy bắn đá. Những viên đá
lớn như trái bưởi bay sang như mưa, khiến thuyền của quân Lý
thủng nát nhiều, quân sĩ chết mấy ngàn người.
-
Sau
trận này, khí thế quân Tống lên cao, trong khi tinh thần quân
ta bắt đầu xút giảm. Lý Thường Kiệt bèn vận dụng đòn tâm lý,
nửa đêm cho người tâm phúc vào đền Trương Hát, Trương Hống(đền
này ở phía Nam sông Như Nguyệt nay là huyện Yên Phong, tỉnh
Bắc Ninh), giả làm Thần Linh thét lên:
-
-
Nam quốc sơn hà Nam Ðế cư,
-
Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư
-
Như
hà nghịch lỗ tai xâm phạm,
-
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
-
Học
giả Nguyễn Ðồng Chi dịch:
-
-
Nước Nam Việt có vua Nam Việt,
-
Trên
sách trời chia biệt rành rành.
-
Cớ
sao giặc dám hoành hành?
-
Rồi
đây bây sẽ tan tành cho coi.
-
Ông
Ðặng Bá cảnh dịch:
-
-
Vua Nam ngự trị đất phương Nam,
-
Trời
đã phân chia rõ địa bàn.
-
Nếu
kẻ âm mưu mong lấn chiếm,
-
Cuối
cùng rồi tướng bại quân tan.
-
Bài
hùng thi này truyền rất nhanh. Dân chúng và quân lính đều tin
tưởng là sẽ được Thần linh phù hộ, vì đền Trương Hát, Trương
Hống nổi tiếng linh thiêng từ xưa. Trương Hát và em là Trương
Hống vốn là danh tướng của Việt vương Triệu Quang
Phục(549-571). Triệu Quang Phục có công đánh đuổi nhà Lương
xâm chiếm nước ta. Sau hơn 20 năm trị vì, Triệu Quang Phục lại
bị Lý Phật Tử đánh bại, phải nhảy xuống sông tự vận và anh em
Trương Hát, Trương Hống cũng bị Phật Tử sát hại.
-
Hơn
bốn thế kỷ sau, đời Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn(950-965), đi
đánh giặc ở Tây Long. Tương truyền anh em Trương Hát Trương
Hống hiển thánh, giúp vua Ngô phá được giặc. Nam Tấn Vương
truy phong cho hai anh em là Ðại Vương Giang Ðô Hộ Quốc Thần
Vương và Tiểu Vương Giang Ðô Hộ Quốc Thần Vương. Từ đó ngôi
đền này được dân địa phương sùng kính.
-
Bốn
câu thơ này làm phấn khởi tinh thần quân Ðại Việt, phần vì
quân Lý tin có Thần linh giúp, phần Lý Thường Kiệt đã dựa vào
thuyết Thiên mệnh của chính phái Tống Nho do Chu Hy của nhà
Tống chủ xướng. Thuyết này đang được quảng bá ở Trung Hoa và ở
Ðại Việt bấy giờ. Với thuyết Thiên mệnh thì mọi sự, mọi việc
đều do Trời sắp xếp, đều do số mệnh đã định sẵn. Cá nhân hay
tập thể được sinh ra chỉ để thi hành. Ở Trung quốc, thuyết này
được nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh chọn làm ý thức hệ. Ở Việt
Nam, các nhà vua cùng thời cũng dựa vào học thuyết đó trong
việc trị quốc. Những nhà Nho uyên bác như Nguyễn Du, Nguyễn
Gia Thiều... đều tin tưởng ở mệnh Trời:
-
-
Ngẫm hay muôn sự tại Trời( Kiều- Nguyễn Du)
-
-
Quyền tạo hoá, Trời tranh tất cả( Cung Oán-Nguyễn Gia Thiều)
-
Vì
vậy, quân Tống xâm lăng Ðại Việt thì chắc sẽ bị đánh bại là
bởi Thiên Thư là sách của Trời, là ý của Trời đã xác định biên
giới rành rành, nên ý của con người không thể thay đổi được
Thiên mệnh.
-
Nhờ
Lý Thường Kiệt đưa thuyết Thiên mệnh đúng hoàn cảnh và đúng
lúc nên bài hùng thi này có hai tác dụng tương phản là giảm ý
chí xâm lăng của địch(địch vận) và tăng tinh thần quyết chiến
của ta(tuyên vận). Ðó là một trong những lý do chính yếu mà
đoàn quân của Quách Quì bị khựng lại ở bờ sông Phú Lương.
-
Ở
mặt trận phía Nam, quân Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị đánh
tan một cách dễ dàng, vì chủ lực của quân Chiêm đã bị phá tan
trước khi phạt Tống. Hai toán quân đó phải rút lui không giúp
được quân Tống.
-
Thế
của quân Ðại Việt và quân Tống không phân thắng bại. Lý triều
e đánh lâu không lợi. Nếu kéo dài cuộc chiến chỉ thêm hao tổn
nhân lực và tài lực quốc gia mà cuộc hành quân lúc này của nhà
Tống chỉ do vấn đề thể diện.
-
Lý
triều liền cử sứ bộ sang điều đình, hoãn chiến. Thật đúng điều
mong ước của nhà Tống. Nay gặp cơ hội thuận tiện, bởi quân
Tống lúc này cũng bị tổn thất quá nửa vì chiến tranh và không
hợp thủy thổ nên mang bệnh mà chết. Tống Thần Tông liền chấp
thuận ngay lời thương nghị của Nhà Lý rồi cho rút binh, nhưng
khi rút về họ chiếm giữ mấy châu phía Bắc Ðại Việt là:
-
-
Châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng ngày nay)
-
-
Châu Tư Lang( tức Hạ Lang, Thượng Lang, tỉnh Cao Bằng).
-
-
Châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn)
-
Năm
Mậu Ngọ (1078), vua Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với Tống
triều. Sứ thần Ðại Việt là Ðào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã
thuần thục sang cống vua nhà Tống và đòi lại ba châu huyện
trên.
-
Tống
triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho
Tống những dân, quân các châu Khâm, Liêm, Ung do Lý quân bắt
ba năm trước, tất cả có 221 người. Trước khi cho về nước, Lý
triều cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ
Thiên Tử Binh. Ðàn ông trên 20 tuổi chữ Ðại Nam Triều, và vào
cánh tay trái của đàn bà, con gái hai chữ Quan Khách.
-
Hành
động sâm chữ vào trán, vào cánh tay tù nhân rồi cho về nước là
điều Lý triều muốn làm nhục nhà Tống.
-
Trong lịch sử ngoại giao Hoa Việt, từ thời kỳ tự chủ đến ngày
nay, chưa có triều đại nào giám coi thường người Trung Hoa như
Triều Lý. Xưa kia, năm 970 Ðinh Tiên Hoàng sai con là Ðinh
Liễn mang phẩm vật sang cống nhà Tống. Năm 981 vua Lê Ðại
Hành, sau khi đánh tan quân Tống ở Chi Lăng, nhà vua trao trả
hai viên tướng và một số tù binh rồi xin theo lệ triều cống.
Thời nhà Trần, sau ba lần đại phá quân Nguyên, vua Trần Nhân
Tông(1288) sai Ðỗ Thiện Thứ sang nhà Nguyên giảng hòa và theo
lệ triều cống như xưa. Năm sau Nhân Tông sai quân đưa bọn
tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Vua Lê Thái
Tổ, vua Quang Trung, sau những lần chiến thắng vẻ vang cũng
trao trả tù binh về nước mà chưa bao giờ xỉ nhục, thích chữ
lên trán quân Tàu.
-
Nhà
Tống nhận được bọn tù nhân và 5 con voi rồi rút quân khỏi 3
châu phía Bắc chỉ giữ lại mấy huyện ở biên giới. Ðất Quảng
Nguyên có mỏ vàng cũng phải bỏ lại. Dân Tàu tiếc của, hát mỉa
mai vua Tống:
-
-
Nhân tham Giao chỉ tượng
-
Khước thất Quảng Kim Nguyên.
-
Ông
Ðặng Bá Cảnh dịch:
-
-
Tham chi Giao Chỉ năm voi,
-
Quảng Nguyên sao để mất toi kho vàng.
-
Mùa
hạ năm Giáp Tý (1084), Lý triều lại phái Binh Bộ Thị Lang Lê
Văn Thịnh(vị thủ khoa đầu tiên của nước ta) sang yêu cầu Tống
triều phân chia lại danh giới và trả nốt mấy huyện mà nhà Tống
còn giữ lại. Lý triều đã áp dụng chính sách đòi dần để tình
thế hai nước vừa sung đột bớt găng. Nếu yêu sách quá nhiều
trong một buổi có thể nhà Tống sẽ không chịu vì như thế sẽ làm
mất thể diện. Lý triều tiến dần, quả nhiên việc thương thuyết
đem lại được như ý muốn. Chúng ta khâm phục việc ngoại giao
của nhà Lý bấy giờ, lúc cương, lúc nhu, Nhưng bao giờ cũng giữ
được cái thế kiêu hùng của kẻ chiến thắng.
-
Ðời
vua Lý Nhân Tông tức Thái Tử Càn Ðức lên ngôi mới 7 tuổi. Quan
Thái Sư là Lý Ðạo Thành làm phụ chính, nhưng bên trong mẹ là
Lan Thái Phi buông mành nghe việc triều chính.
-
Ý
Lan Thái Phi là một nhân vật đặc biệt của thời đại, bên cạnh
Lý Thường Kiệt và Lý Ðại Thành, hai vị văn võ có uy tín và
thao lược nhất bấy giờ. Nhưng Lý Ðạo Thành không chủ trương
xâm lăng nước ngoài, chỉ có Thái Phi và Lý Thường Kiệt có một
tầm nhìn xa cho tương lai của đất nước, nên cương quyết thi
hành chiến lược Bình Chiêm, Phạt Tống. Có thể nói nếu không có
Lan Thái Phi thì chưa chắc Lý Thường Kiệt đã tạo được những
chiến công oanh liệt cho tổ quốc. Vậy, thân thế của Lan Thái
Phi thế nào?
-
Bấy
giờ, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai, lấy làm
lo lắng nên hay đi cầu tự ở các đền chùa. Một hôm ngài ngự giá
về chùa làng Thổ Lỗi cho phép dân chúng tự do chiêm bái long
nhan. Dân chúng già trẻ, trai gái đi xem nhà vua đông như chảy
hội. Trong khi đạo ngự đi qua, một cô gái hái dâu, đang ngồi
tựa gốc cây lan như không chú ý tới nhà vua. Nhà vua ngạc
nhiên, liền đòi đến hầu thì thấy cô gái đó tuy quê mùa, nhưng
có nhan sắc đoan trang, cử chỉ đường hoàng, nói năng thanh
nhã, ngài liền vời về cung. Thiếu nữ ấy tên là Yến, tục danh
là cô Cám, thôn nữ làng Thô Lỗi (là phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh bấy giờ), về kinh nhà vua sai Sùng Tín Ðại Trưởng lão dạy
Yến cô nương học tập. Nhờ sự thông minh, chẳng bao lâu Yến cô
nương làu thông kinh sử và được phong là Lan phu nhân(lấy tên
cung Lan, nơi phu nhân luyện tập văn bài và có ý gợi lại kỷ
niệm xưa khi nhà vua gặp Yến cô nương lần đầu, khi nàng đang
ngồi tựa gốc lan).
-
Rồi
phu nhân sinh ra Hoàng tử, đặt tên là Càn Ðức từ đó được phong
làm Thái Phi.
-
Về
chính trị, Lan Thái Phi làm giám quốc rất đắc lực trong việc
trị dân. Năm 1069 Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt đem quân đi
đánh Chiêm Thành. Trận ấy Ðại Việt thua, phải rút quân về
nước. Khi đoàn quân chiến bại trở về tới châu Cư Liên thấy dân
chúng đều ca tụng bà Thái phi trị nước rất giỏi, dân no nước
mạnh và giữ kỷ cương như thời cực thịnh của vua cha. Thánh
Tông bảo với các tướng sĩ tùy tùng rằng:
-
-
Người đàn bà trị nước còn được như thế mà mình đi đánh Chiêm
Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!.
-
Ngài
cùng Lý Thường Kiệt đem quân trở lại đánh, bắt được vua Chiêm
là Chế Củ. Chế Củ phải xin dâng ba châu Ðịa Lý. Ma Linh và Bố
Chánh để chuộc tội.
-
Khi
về già, bà Thái Phi gây được nhiều công đức như xuất tiền kho
để chuộc con gái nhà nghèo bị cầm bán, rồi gả chồng vào những
nơi tử tế. Chẩn cấp cho dân chúng khi bị thiên tai. Cho người
xây được 70 ngôi chùa ở Kinh Bắc (Bắc Ninh).
-
Cũng
như Thái Phi Lan, suốt quãng đời còn lại, Lý Thường Kiệt,
chuyên tâm về đạo Phật.
-
Năm
Ðinh Tỵ 1077, ông được bổ làm Tổng trấn Thanh Hoa (thời Thiệu
Trị đổi tên là Thanh Hóa vì kỵ tên húy Hoàng Thái Hậu). Một
hôm có Sùng Tín Ðại Trưởng Lão từ Thăng Long vào chơi, Lý
Thường Kiệt nhờ ngài tìm đất để dựng chùa, trưởng lão chọn
được khí đất tốt nằm phía Nam núi Ngưỡng Sơn, nay thuộc xã Hà
Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ðích thân Lý Thường Kiệt
trông coi việc xây cất. Sau bốn năm(1085-1089) thì hoàn thành,
Lý Thường Kiệt đặt tên là chùa Linh Xứng. Tới đầu thế kỷ XX,
chùa bị xụp đổ hoàn toàn. Chỉ còn tấm bia bằng đá, khắc bài
Ngưỡng Sơn Linh Xứng Tự Bi Minh(bài minh khắc trên bia để tại
chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn), do ngài Giác Tính Hải Chiếu Ðại
Sư(người sống cùng thòi với Lý Thường Kiệt) soạn bài văn bia
sau khi Lý Thường Kiệt mất. Bài văn bia mô tả việc xây cất
chùa:
-
Ðoạn
một, Thế là cùng nhau phát hết những bụi cỏ rậm, bạt hết những
tảng đá to; Thầy phong thủy thì xét hướng, thợ lành nghề thì
vẽ kiểu, quan thì góp tiền, sĩ dân khắp nơi cùng nhau kéo tới;
Bấy giờ, ai kém sức thì bào hoặc gọt, ai giỏi nghề thì hoặc
dựng hoặc xây. Chùa Phật rộng thênh thang nằm ở giữa, còn
phòng chay rộng rãi thì ở hai bên. Phía sau chùa có tháp Chiêu
An cao chót vót những chín tầng. Chùa mở cửa bốn bên và cửa
nào cũng có song tiện, phía trong lại có rèm the. Tiếng gió
rung chuông bạc, quyện với tiếng chim rừng. Nắng soi tháp báu,
sắc vàng điệp lung linh. Quanh lan can trồng đầy hoa cỏ và
đúng là cảnh thức tỉnh hồn mê, xua tan mọi nỗi niền tục lụy.
-
Ðoạn
thứ hai của văn bia là kể những công lao và chức tước của Lý
Thường Kiệt như việc đánh Chiêm phạt Tống cùng hết lòng phò tá
ba đời Hoàng đế và so sánh ông với Y Doãn, Hoắc Quang là những
đại công thần của nhà Thương, nhà Hán bên Tàu.
-
Ðoạn
thứ ba:
-
-
Thái Úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng về Tam
Thừa... Thái úy không ngừng nâng đỡ Phật giáo, nhân lúc rảnh
việc triều đình.
-
Sự
nghiệp phi thường và công đức của Lý Thường Kiệt được tóm tắt
trong phần cuối của bia văn mà Ðại sư Giác Tính Hải Chiếu
viết:
-
-
Việt hữu Lý công,
-
Cổ
nhân chuẩn thức
-
Theo
đúng thể thức người xưa.
-
Mục
quận ký ninh,
-
Chưởng sư tất khác.
-
Xuất
quân thì tất thắng.
-
Danh
dương hàm hạ
-
Thanh chấn hà vực.
-
Tông
giáo qui sùng,
-
Cảnh
phúc thị thực
-
Dịch
Nghĩa:
-
-
Nước Việt có tướng công họ Lý,
-
Theo
đúng thể thức người xưa.
-
Trị
dân thì dân được yên,
-
Xuất
quân thì tất thắng.
-
Tên
tuổi vang lừng khắp cõi,
-
Tiếng thơm nức bốn phương.
-
Thuận theo và tôn sùng Phật giáo,
-
Giữ
gìn phúc đức quả là đây.
-
-
Sách Tham Khảo
-
- Việt Nam Sử Lược
-
- Việt Sử Toàn Thư
-
- Lý Thường Kiệt
-
- Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam
-
- Danh Nhân Tự Ðiển
-
- Lý Thường Kiệt’s Surprise
Attack
|