-
Mỗi Năm Mỗi Thắp Ðèn Trời
-
Nam Phương
-
--o0o--
-
-
Cứ mỗi năm khi mà tất cả các Chùa bắt đầu nhộn nhịp chuẩn bị
những món tứ sự để cúng dường đến chư Tăng sau ba tháng an cư
Kiết hạ được hoàn mãn, chì cũng chính là lúc những người con
Phật lại được nghe nhắc nhở nhiều về công ơn của các bậc sinh
thành, vì đã đến mùa Vu Lan Báo Hiếu.
-
Thật ra ngày lễ Vu Lan do Ðại Thừa Phật Giáo dựa vào câu
chuyện Ngài Mục Kiền Liên có mẹ là bà Thanh Ðề, khi còn sống
đã gây nhiều ác nghiệp nên sau khi thân hoại mạng chung phải
đọa địa ngục. Ngài Mục Kiền Liên vì muốn báo hiếu cho mẹ, đã
lập đàn tràng Trai Tăng cúng dường hồi hướng phước báu để cứu
mẹ ra khỏi cảnh khổ của địa ngục A Tỳ.
-
Thật sự không phải đợi đến Vu Lan chúng ta mới nhớ nghĩ đến
cha mẹ, mà cho dù cha mẹ còn hiện tiền hay đã quá vãng, lúc
nào cũng hiển hiện trong tâm hồn của những người con. Vì vậy
mà hầu hết các gia đình người Việt Nam chúng ta, tuy ông bà
cha mẹ qua đời đã lâu, nhưng hằng năm vẫn không quên những
ngày kỵ giỗ. Nhưng dẫu sao hình thức lễ lượt có tính cách tôn
giáo mỗi năm như vậy cũng để lại trong lòng chúng ta những
tình cảm thân thiết khó quên. Do đó, mà có rất nhiều người
không phải là Phật tử thuần thành, không thường xuyên đến
chùa, nhưng vào dịp lễ báo hiếu cha mẹ họ cũng về chùa để được
cài lên ngực áo một bông hoa hồng màu hồng hay màu trắng để
được chia xẻ với mọi người những giọt nước mắt hạnh phúc khi
còn cha mẹ, hay những giọt lệ đau thương khi cha mẹ không còn.
Lễ Vu Lan hằng năm ở chùa nào cũng vậy, không làm sao cầm giữ
được những xúc cảm, ngậm ngùi mà cả đến các cụ già cũng tự
nhiên để cho những giọt nước mắt rơi xuống thật thơ ngây.
-
Hình thức cũng chỉ là để nhắc nhở vậy thôi, vì chúng ta vốn đã
theo truyền thống lâu đời của đạo Phật, Khổng, Lão hay còn gọi
là Tam Giáo, vẫn luôn luôn đề cao chữ hiếu, vẫn xem cha mẹ như
những vị trời, những vị Thần thiêng liêng mà chúng ta có bổn
phận phải tôn thờ, kính ngưỡng. Ðối với Ðức Khổng Tử, một
người con chí hiếu, biết thờ kính cha mẹ thì cho dù chưa được
đi học ông cũng cho là đã học rồi. Thực tế có rất nhiều tấm
gương hiếu hạnh đã không được ghi vào trong sách vở, chứ không
chỉ có những ông hiền trong Nhị thập Tứ Hiếu mà thôi.
-
Qua thời gian, đời sống có nhiều thay đổi, nên việc thể hiện
tinh thần hiếu đạo cũng có khác. Với xã hội ngày trước, vấn đề
kinh tế vật chất chiếm gần hết đời sống con người, ai ai cũng
chỉ quần quật với miếng cơm, manh áo, nên chuyện báo hiếu cha
mẹ cũng chỉ đơn thuần nghĩ đến vật chất mà thôi, làm sao cho
cha mẹ được đầy đủ, không thiếu thốn, khổ cực là được rồi.
Nhưng hiện tại, với cuộc sống ở trong nước vẫn còn nghèo khổ
thì không nói, riêng ở hải ngoại này đời sống kinh tế không
còn là mối lo ngại lớn nhất nữa thì chúng ta phải làm gì đây
để có thể báo đền công ơn trời biển đó? Ở mỗi thời, ở mỗi hoàn
cảnh xã hội, việc nuôi dạy con cái có khác nhau, xong nỗi khổ
cực của cha mẹ thì lúc nào cũng vậy.
-
Chúng ta vẫn thường nghe câu:
-
- Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ
-
Nguyên văn chữ hán là:
-
- Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân.
-
Thật đúng như vậy và cũng chẳng có bút mực nào để tả cho hết
tình cảm thiêng liêng đó. Một thứ tình yêu mà văn hào Victo
Hugo đã ví như một cái bánh mầu nhiệm càng chia càng tăng.
-
Chúng ta ai cũng biết đất nước mình là đất nước nghèo nàn, quê
hương mình là quê hương chiến tranh, bom đạn, mà cái đau
thương lớn nhất, dễ sợ nhất của chiến tranh là sự chết chóc.
Gia đình nào cũng vậy, không nhiều thì ít cũng có người hy
sinh và cái di hậu còn lại là những trẻ em mồ côi, có khi mất
cha hay mất mẹ hoặc không còn một ai. Danh từ cô nhi quả phụ
chỉ có trong thời kỳ chiến tranh để nói lên cái thảm cảnh của
một gia đình không trọn vẹn.
-
Ngày trước dưới chế độ Cộng Hòa, lúc chiến tranh lan rộng khắp
nơi. Ðã lần lượt cướp đi những người cha thân yêu trong các
gia đình, đã để lại một số lượng cô nhi không phải là nhỏ, đến
nổi Chính phủ phải thành lập một trường học gọi là trường Quốc
Gia Nghĩa Tử, nhằm mục đích giúp đở cũng như xoa dịu phần nào
nỗi khổ đau của những người con có cha đã hy sinh cho cuộc
chiến. Nhiều quả phụ hãy còn rất trẻ với những đứa con mà trên
môi không bao giờ còn được gọi hai tiếng Cha ơi!.
-
Chiến tranh bao giờ cũng vậy, chẳng khác gì những con thú dữ
lúc nào cũng rình rập, chực chờ để trút xuống tai họa, khiến
cho đời sống căng thẳng nặng nề. Bình thường kiếm được miếng
ăn đã là khó, nay còn phải tản cư, chạy giặc, nỗi khổ bội
phần. Có nhiều nơi chiến tranh tràn đến bất ngờ có khi đang
giữa mùa thu hoạch, cũng phải bỏ dở để chạy đến chỗ an toàn,
rồi ban đêm lần mò về chốn cũ gặt hái tiếp mới có thể sống
được ở những vùng tạm cư. Nhiều bà mẹ ốm gầy, xanh xao đến độ
không đủ sữa để nuôi con, phải chắt lấy nước cơm hòa với muối
cho đứa bé nhỏ của mình được cầm hơi. Một đoạn thơ của Hoàng
Cầm nói cho chúng ta biết phần nào những khổ đau trong chiến
tranh, nghèo đói:
-
- Ðêm ba mươi gió thổi
-
Tôi lại nhớ con tôi
-
Mẹ đói con cũng đói
-
Khóc thét lặng từng hồi
-
Mẹ tôi nước mắt nhiều hơn sữa
-
Ngực lép con nhai vú rã rời.
-
Những ai sinh ra và lớn lên trong những lúc loạn ly như vậy
mới càng thấy thương cha mẹ nhiều hơn. Cái nghèo, cái khổ là
nghiệp dĩ của quê hương mình, lại thêm chiến tranh giày xéo,
nên càng cô quạnh, đìu hiu như mấy câu hát:
-
- Ruộng khô có những ông già rách vai,
-
Cuốc đất bên đàn trẻ gày,
-
Có người bừa thay trâu cày... .
-
Nữa đêm thanh vắng không một bóng trai,
-
Có tiếng o nghèo thở dài,
-
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi.
-
Hôm nay thì chiến tranh không còn nữa, mà nghèo thì vẫn chưa
thôi, nên còn rất nhiều những gia đình cha mẹ phải quần quật
suốt ngày mới nuôi nỗi đàn con trong túng thiếu:
-
- Vay nợ lắm khi tràn nước mắt
-
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.
-
Riêng chúng ta được may mắn sống ở hải ngoại, có đời sống
tương đối thoải mái về vật chất, không phải chạy ăn từng bữa
như những người còn ở quê nhà. Nhưng thật sự ở đâu rồi cũng
vậy cũng đều phải trả cái giá của nó cả, Ðể nuôi dạy một đứa
con cho đến tuổi trưởng thành, cha mẹ ở đây cũng phải vất vả
rất nhiều, cũng phải làm ca hai, ca ba để đi làm từ nữa đêm về
sáng, phải lái xe cả tiếng đồng hồ trên xa lộ căng thẳng tinh
thần, đến chỗ làm cũng mệt nhoài với công việc. Ðời sống có cả
trăm ngàn thứ lo toan, đâu phải giản đơn chỉ là miếng cơm manh
áo như ở Việt Nam. Vì những đòi hỏi cao như vậy nên gia đình
nào cha mẹ cũng đều phải đi làm cả. Do đó mà người mẹ ở đây
cho dù có thương con đến mấy cũng chỉ ôm ấp đứa con của mình
đến tháng thứ ba là cùng, rồi cũng phải đem đứa bé đi gởi cho
người khác nuôi hộ. Có ai hiểu được nỗi lòng của người mẹ khi
phải xa con như vậy.
-
Theo nghiên cứu của khoa học thì sữa mẹ là thực phẩm tốt nhất
cho em bé từ sơ sinh cho đến một tuổi, cũng như sự ôm ấp, vỗ
về thương yêu của người mẹ là thần dược cho đứa trẻ trong
những lúc ốm đau. Nhưng tội nghiệp thay cho hầu hết trẻ em ở
đây, các em có thể có mọi thứ nhưng lại thiếu đi hai điều vô
cùng cần thiết cho những năm tháng đầu đời của kiếp làm
người.Vậy cho nên, dù phải đối phó với cái nghèo ở trong nước
hay phải truân chuyên với đời sống đầy đủ ở đây, thì đối với
những người con có ý thức, có hiểu biết cũng phải thấu nỗi khổ
cực của cha mẹ mình, để không bao giờ là kẻ vong ân bội nghĩa.
Ðời sống ở đâu cũng vậy, không được toàn hảo là điều Ðức Phật
vẫn thường nhắc nhở chúng ta. Bất toại nguyện, khổ đau là
trạng thái thường xuyên của cuộc đời.
-
Khi chiến tranh đi qua, cuộc chiến kết thúc vào năm 1975 và
cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn còn diễm phúc song thân đầy đủ.
Ðó là niềm hạnh phúc mà chúng tôi cảm nhận được, nên càng thấy
xót xa cho những ai nếu chẳng may mất đi người cha hay người
mẹ, và sẽ càng khổ đau hơn khi không còn cả cha lẫn mẹ.
-
Tình thương của người cha đối với các con cũng bao la, nồng
nàn không khác gì người mẹ nhưng vì bản tánh nghiêm khắc, ít
khi biểu lộ tình cảm, lại phải lo toan công việc xã hội nhiều
hơn, nên không có thời gian gần gũi con cái. Nhưng đó là ở xã
hội trước, khi người phụ nữ còn ở trong nhà để làm công việc
nội trợ, nhưng bây giờ cả cha và mẹ đều đi làm, nên người cha
cũng phải chia sẻ công việc với người mẹ rất nhiều. Tuy nhiên
là người mẹ thì dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn là người gần
gũi và gánh chịu những khổ cực với con cái nhiều nhất. Vì vậy
mà từ xa xưa, không phải dưới chế độ mẫu hệ, nếu có người con
nào làm nên việc lớn, được mọi người biết thì người ta thường
nói đến người mẹ nhiều hơn. Chẳng hạn như ở Ấn Ðộ thời Ðức
Phật còn tại thế có vua A Xà Thế trong Trường Bộ Kinh khi nói
về Ông thường ghi là:
-
- A Xà Thế con bà Vi Ðề Hy.
-
Hoặc như tên Ngài Xá Lợi Phất theo nguyên ngữ có nghĩa là:
-
- Con bà Sari (Sariputta-Xá Lợi Tử).
-
Ở Trung Hoa cũng vậy, mẹ Ngài Mạnh Tử thường được gọi là bà
Mạnh Mẫu. Bên phương Tây, tình mẹ cũng được đề cao vì người mẹ
nào cũng vậy chỉ biết hy sinh, chia sẻ những khổ cực với con
cái nhiều hơn. Nên đối với người cha có sự hiểu biết, vẫn
thường nhắc nhở các con về công khó nhọc của người mẹ. Một
đoạn văn trong cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của một tác giả người
Ý, ông Edmondo de Amicis đã viết thật cảm động:
-
...Trước mặt cô giáo sáng nay, con đã thiếu lễ độ với mẹ con.
Việc như thế con không bao giờ được phạm lại nữa, En ri-cô của
Bố ạ! Bố nhớ tới mẹ con cách đây mấy năm đã phải thức suốt
đêm, cúi mình trên chiếc nôi của con, trông chừng hơi thở hổn
hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng
có thể mất con đi... Hãy nghĩ đến đều nầy En-ri-cô con ạ!
Trong đời con có thể sẽ trải qua những ngày thật buồn thảm,
nhưng ngày buồn thảm nhất tất cả sẽ là ngày con mất mẹ con...
-
Khắp cả nhân loại từ Ðông sang Tây, từ ngàn xưa vạn cổ tình
thương của mẹ bao giờ cũng là tình thương bất diệt, vô tận, vô
biên. Nói sao cho hết lời bởi danh từ cũng chỉ là những danh
từ hữu hạn vậy thôi, ngôn ngữ cũng có phần giới hạn của nó.
-
Là những người con Phật chúng ta cũng hiểu phụng dưỡng cha mẹ
bằng phương tiện vật chất, làm cho cha mẹ được vui lòng, an ổn
là điều chắc chắn phải làm, nhưng chưa đủ. Vì Ðức Phật dạy còn
nổi trôi theo dòng sanh tử luân hồi, trong tam đồ lục đạo thì
mỗi chúng sinh đều rất cần đến những quả phước như là những
hành trang trong cuộc đời mà chúng ta có bổn phận phải tạo
nhiều thiện nghiệp mới có thể kết thành những quả phước không
phải chỉ cho chính mình mà còn để hồi hướng đến cha mẹ và
những người thân thương của chúng ta. Nếu còn hiện tiền thì
được an vui, hạnh phúc, nếu đã quá vãng thì bao nhiêu nghiệp
chướng đều được tiêu trừ. Trong chúng ta những ai may mắn có
cha mẹ và những người thân là những người thấm nhuần giáo lý
Phật Ðà, biết sống đời sống hiền thiện thì là quả phúc vẹn
toàn.
-
Trong Kinh điển kể lại rằng:
-
- Hai vị đại đệ tử của Ðức Phật là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài
Mục Kiền Liên, cả hai Ngài khi chưa xuất gia theo Phật đều
thuộc dòng dõi qúy tộc Bà La Môn. Nhưng cho dù đã đắc Thánh
quả các Ngài cũng không thể cảm hoá được mẹ mình để quy y Tam
Bảo. Riêng Ngài Xá Lợi Phất cho đến khi Ngài gần nhập diệt mới
độ được mẹ mình làm cho bà giác ngộ và quy ngưỡng đạo Phật.
Còn theo Kinh điển Ðại Thừa thì mẹ Ngài Mục Kiền Liên cho đến
khi mãn tuổi thọ, vẫn không biết kính tin Tam Bảo mà còn gây
nhiều nghiệp ác, vì vậy Ngài Mục Kiền Liên phải nhờ đến oai
lực chư Tăng mới cứu độ được mẹ Ngài ra khỏi khổ cảnh, để vãng
sanh về cảnh giới an lạc. Cho nên một khi đã hiểu đạo Phật, đã
tin vào nhân quả luân hồi thì chúng ta phải luôn luôn tâm niệm
rằng ngày nào còn được sống trên thế gian, thì ngày ấy chỉ tạo
những thiện nghiệp mà thôi.
-
Chúng tôi vẫn biết rằng diễm phúc còn cha và còn mẹ hôm nay
rồi cũng sẽ theo định luật vô thường mà thay đổi, sẽ chẳng thể
nào còn được mãi hoài như vậy. Một ngày nào đó cành hoa hồng
trên ngực áo của chúng tôi cũng sẽ phai màu, bởi cuối cùng rồi
tất cả cũng đều bị nhuộm tráng qua thời gian nghiệt ngã mà
thôi. Nhưng với chúng tâi cho dù tình thương nghiêm khắc của
cha hay tình cảm dịu dàng của mẹ, tất cả cũng đều cay đắng như
nhau nếu một mai khi phải vĩnh viễn mất đi một trong hai người
thân yêu ấy. Còn biết làm gì đây ngoài việc nguyện cầu ơn trên
chư Phật, chư Thiên, thường gia hộ cho cha mẹ được dồi dào sức
khoẻ, được an vui để cho chúng con mỗi ngày còn được nhìn thấy
mẹ cha, được nhìn thấy những vị Trời vẫn còn hiển hiện vẹn
toàn như câu ca dao:
-
- Mỗi năm mỗi thắp đèn trời
-
Cầu cho Cha mẹ sống đời với con.
|