Hướng Ði & Nơi Ðến
Trí Hiển ghi
--o0o--
 
Có Phật Tử hỏi rằng:
- Bạch Thầy, theo trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật có dạy: Người nào niệm Phật từ một niệm đến mười niệm mà không tạp loạn, thì đến lúc lâm chung được Ðức Phật A Di Ðà tiếp rước về Tây Phương Cực Lạc.
Bạch Thầy trong kinh dạy như thế thì con hiểu và rất vui mừng, con cũng cố gắng hành trì mỗi đêm. Tuy nhiên con cũng có cái thắc mắc. Theo như Thầy biết, xứ nầy văn minh quá và rất đầy đủ các tiện nghi và nhu cầu, nhưng cuộc sống con người mong manh quá, sớm còn tối mất, khó biết trước được. Chẳng hạn như đang lái xe mà gặp một tai nạn chết bất đắc kỳ tử, lúc ấy không có chánh niệm như lúc tụng kinh niệm Phật thì làm sao biết mình sanh về đâu, ai tiếp rước mình, xin thầy hoan hỷ chỉ dạy cho con?
Thưa đại chúng câu hỏi nầy rất hay, tuy nhiên chúng tôi xin kể một câu chuyện cho quý vị nghe. Câu chuyện như thế nầy:
Lúc chưa rời khỏi Việt Nam, có lần chúng tôi đến thăm một Phật Tử tại Long Khánh. Mấy Thầy trò ngồi uống nước trước sân, lúc đó có một chàng thanh niên đi đường. Trên đường đi vừa mệt, vừa khát nước, anh ghé vào chỗ bán nước chè bên vệ đường, cách chỗ chúng tôi đang ngồi uống nước độ khoảng mười lăm thước. Anh ta mua nước uống và hỏi thăm cụ ông đường đi đến ngã ba Ông Ðồn:
- Thưa bác, từ đây đến ngã ba Ông Ðồn, đi bộ phải mất khoảng bao lâu?
Cụ ông bán nước làm thinh. Chàng trai lập lại câu hỏi lần thứ hai, rồi lần thứ ba vẫn không nghe câu đáp. Bực bội quá anh tiếp tục lên đường.
Ðược vài mươi bước, anh nghe tiếng cụ ông gọi với theo:
- Nầy anh kia, khoảng bảy tám tiếng đồng hồ đấy!
Anh chàng thanh niên quay lại cau có nói:
- Sao khi nãy cụ không bảo dùm cho, đợi tôi đi một đoạn rồi mới nói cho mất công, hao hơi tổn sức?
Cụ Ông chỉ đường mỉm cười thủng thẳng đáp:
- Làm sao mà tôi có thể đáp ngay được, khi chưa tận mắt thấy khả năng của chú em đi? Phải biết rõ sự đi mau chậm của chú rồi tôi mới dám trả lời chứ!
Chàng trai nghe xong, cung kính bái chào rồi lên đường.
Thưa đại chúng, qua câu chuyện nầy, thông thường chúng ta hay đánh giá, và tự tin mình qua những ước mơ hy vọng, tính toán mà ta sẽ thực hiện ở mai kia mốt nọ... Trong khi người chung quanh đánh giá ta bằng những gì ta đã làm hay thiết thực hơn là đang làm. Như anh thanh niên hỏi đường, khi chưa thấy anh ta đị thì cụ ông khôngtrả lời được, mãi đến khi anh ta bắt đầu đi và đã đi, thì cụ ông bán nước chè mới trã lời câu hỏi.
Như hỏi: Lúc đang lái xe, lở xảy ra tai nạn, trong lúc tâm không chánh niệm thì biết sanh về đâu? Câu hỏi nầy không thể trả lời khi chưa biết khả năng hành trì của người đó như thế nào. Người đó hành trì nầy miệt mài, hay giải đãi.
Có thể dùng thái độ chỉ đường của cụ ông bán nước chè bên vệ đường trên đây để trả lời câu hỏi nầy. Nhìn chung lối chỉ đường của ông cụ bán nước chè cũng tương tự như việc tu tập và xét người trong nhà thiền. Bất kể những danh vọng, chức tước sự nghiệp lẫy lừng của người cầu đạo to hay nhỏ ra sao, khi bắt đầu học đạo, họ đều phải trải qua giai đoạn hành điệu, tức là đương sự bắt buộc phải làm những việc xem có vẻ như thấp kém nhất để dẹp trừ cái bản ngã cố hữu như người đời thường tự hào: Tôi là kỷ sư, bác sĩ, triệu phú... Cách chinh phục bản ngã là làm những việc rất là tầm thường như rửa chén, quét nhà, chạy việc lặt vặt chẳng hạn. Trong thời gian đó, mọi cử động, mọi phản ứng nhỏ nhặt của họ đều không thoát khỏi cặp mắt của ông Thầy. Nhìn những hành động, hay khả năng của người học trò trong hiện tại, Thầy mới có thể tiên đoán được khả năng của học trò trong tương lai. Ðó là chưa kể đến việc khi muốn trao sự nghiệp hoằng pháp cho trò, ông Thầy còn phải trui rèn hành hạ và thử thách đệ tử nhiều phen, đủ điều. Thật sự, thì thật là tội nghiệp cho người đệ tử nào đó được Thầy chọn là truyền nhân, nhưng phần Thầy cũng không sướng ích gì. Cho nên người xưa có câu:
- Ðệ Tử tìm Thầy thì dễ. Thầy tìm đệ tử thì khó
Ðó là nói về đệ tử xuất gia, đối vơi đệ tử tại gia mặc dầu sự hướng dẫn không nghiêm túc như giới đệ tử xuất gia, nhưng nếu là một con người quyết tâm thực hành giáo pháp để tìm cầu một sự lợi lạc cho bản thân, thì phải biết thu thúc thân tâm, phải thực hành triệt để như vậy để cho thiện nghiệp nó huân tập. Nói một cách khác, phải thực tập nghiêm túc để cho thiện nghiệp thâm nhập trong tiềm thức, một khi đã thâm nhập trong tiềm thức thì lúc nào cũng là chánh niệm. Ðạt đến giai đoạn có thể đặt trong trạng thái lúc nào cũng chánh niệm thì cho dù cái chết có biết trước hay bất đắc kỳ tử cũng như thế không có gì thay đổi. Ðiều nầy trong Trung Bộ Kinh được Ðức Phật nhắc nhở:
- Lúc Ngài còn tại thế, lần đó Ngài ngự tại Chùa Kỳ Viên gần thành Xá Vệ. Vào lúc nửa đêm, có một vị trời và đoàn tùy tùng vào khoảng một ngàn vị đến gặp Ðức Phật. Mặc dầu ánh sáng của chư thiên tràn ngập Chùa Kỳ Viên, nhưng những người thường không thấy được họ. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị trời khóc mà bạch với Ðức Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn, cõi trời thật là ồn ào. Các vị tiên nữ luôn luôn huyên náo ầm ĩ. Họ nhảy tung tăng đùa giởn cả ngày chẳng khác nào loài ngã quỷ. Thật là khổ sở và phiền não, xin Ngài chỉ cho con làm sao để tránh xa cái cảnh ồn ào, khi phải sống một nơi như vậy.
Như chúng ta đã biết, Người nào đầy đủ phước đức thiện duyên thì được sanh về các cảnh giới của chư Phật. Ít phước hơn thì sanh về Cõi Trời. Cảnh giới cõi Trời được xem như là một nơi đầy đủ về mọi phương diện, vui vẻ và rất là thích thú. Bởi vì cảnh giới nầy các vị trời chỉ ăn chơi đàn hát, chẳng biết đau khổ là gì. Kế đến là A Tu La, và cõi Người. Những chúng sanh nào kém phước hơn thì tùy theo đó mà sanh vào các cảnh giới như: Ðịa Ngục, Ngã Quỷ, Súc sanh... Vậy mà vị Trời đó lại so sánh sự an vui ở cõi Trời với cảnh giới của loài Ngạ Quỷ, nơi cảnh giới đó chúng sanh sống trong đau khổ, lầm than.
Khi nghe vị Trời như vậy, Ðức Phật liền dùng huệ nhãn xem xét tiền kiếp của vị trời. Ngài biết rằng vừa mới đây, vị trời nầy là một thanh niên trẻ tuổi, một người thực hành giáo pháp của Phật. Thanh niên trẻ tuổi nầy có nhiều đức tin nơi những lời dạy dỗ của đức Phật nên chàng ta đã xuất gia và trở thành một thầy Tỳ Kheo khả kính. Sau thời gian ở trong Tịnh Xá được Ðức Phật dạy dỗ, vị Thầy Tỳ Kheo trẻ tuổi đã học xong giới luật và kinh điển, hiểu rõ các tu tập, vị Thầy trẻ nầy liền xin phép Ðức Phật vào rừng sống một mình để thực hành giáo pháp. Với nhiệt tâm muốn trở thành một Phật tương lai, nên vị Tỳ Kheo trẻ kia tận lực tu tập. Thầy nổ lực thực hành suốt ngày đêm, Thầy bỏ cả ngủ và không tha thiết gì đến việc ăn uống. Vì thế mà sức khoẻ của vị sư trẻ suy yếu, nhưng vị Tỳ Kheo trẻ kia vẫn bền chí thực hành không thay đổi. Bịnh ngày một trầm trọng, đến nỗi một ngày nọ, trong lúc hành thiền vị Tỳ Kheo trẻ kia ngã ra chết. Ngay tức khắc, vị Tỳ Kheo trẻ kia được sanh vào cõi trời.
Thình lình như tỉnh từ giấc mộng, vị Tỳ Kheo trẻ kia trong một bộ quần áo đẹp đẻ đang đứng trước cổng một dinh thự lộng lẫy, bên trong tòa lâu đài, có rất nhiều tiên nữ dung nhan diễm lệ đang đón chờ. Các nàng tiên vui vẻ khi thấy vị chủ mình xuất hiện ở cổng. Họ reo mừng và trổi nhạc đón tiếp. Trong khi đó vị Tỳ Kheo trẻ kia không biết mình chết và đã sanh vào cõi Trời. Thầy nghỉ rằng tất cả các tiên nữa kia là chư thiện tín viếng thăm, Thầy Tỳ Kheo trẻ kia chấp tay chào trong một cử chỉ rất khiêm cung.
Thấy cử chỉ của vị chủ nhân mới, các cô tiên tiên nữ liền hiểu ra mọi lẽ, nên trong đó có một cô nói lớn:
- Bấy giờ đây Ngài đang ở cõi trời để hưởng thụ mọi thú vui phước báu chứ không phải lúc Ngài ở cõi trần nữa, xin Ngài theo chúng em vào trong để hưởng thụ dục lạc.
Vị Thầy Tỳ Kheo trẻ kia như không để tâm gì đến những lời nói của các cô tiên nử, vì Thầy đang chánh niệm trong việc thu thúc sáu căn. Thầy chỉ biết có âm thanh đến rồi đi mà không cần hiểu thứ âm thanh gì. Một cô tiên nữ bèn vào tòa lâu đài mang ra một tấm gương lớn. Vị Thầy trẻ tuổi kia mới hoảng kinh khi thấy mình không còn là vị Tỳ Kheo nữa. Lúc đó vị Thầy Tỳ Kheo trẻ kia tự nhủ:
- Ta đã bị mắc bẫy, lúc ta rời xa gia đình xuất gia tu tập là mong đạt được sự an lạc cao thượng. Bây giờ tai sao ta lại ở chốn nầy.
Vị Tỳ Kheo trẻ tuổi kia sợ hãi đến nỗi không dám bước chân vào cổng lâu đài, vì Thầy biết rằng tâm mình không đủ mạnh để thắng các lạc thú ở trong cõi trời. Các lạc thú trong cõi trời có sức hấp dẫn gấp trăm ngàn lần cõi người. Bỗng nhiên Tỳ Kheo trẻ kia mới nghĩ ra rằng:
- Nhờ phước báo của sự tu trì, mặc dầu Thầy chưa đủ phước để trở thành một vị A La Hán, Bồ Tát, Phật, nhưng Thầy đủ phước để sanh vào cõi Trời. Là một vị trời ta có đủ năng lực để thăm cõi người, nơi đức Phật đang giảng dạy.
Ý nghỉ nầy khiến cho Thầy Tỳ Kheo trẻ kia vui mừng và nghỉ tiếp:
            - Ta có thể sinh lên cõi trời một cách dễ dàng, nhưng cơ hội để gặp được đức Phật rất hiếm hoi.
            Ý nghĩ vừa thoáng qua, vị Trời tức là vị Thầy Tỳ Kheo trẻ kia, và cả ngàn tiên nữ đã có mặt tại nơi đức Phật ngự. Vị Trời đến gần Phật cầu xin Ngài giúp đỡ. Nhân đây Ðức Phật dạy như sau:
            - Nầy vị Trời, hãy đi thẳng con đường mà ngươi đã bước. Con đường nầy sẽ dẫn đến chỗ an toàn thoát khỏi mọi sợ hãi. Ðó là mục tiêu của ngươi.
            Như chúng ta biết, khi còn là một con người, trong hình thái của một Thầy Tỳ Kheo, vị trời nầy có đức tin trọn vẹn vào những lời dạy của đức Phật, và biết rằng hạnh phúc cao nhất là hạnh phúc giải thoát do sự thực hành giáo pháp đem lại, thế nên vị trời nầy đã từ bỏ những lạc thú tạm bợ của thế gian để trở thành vị tỳ kheo. Ông ta đã tận lực cố gắng để trở thành vị Phật tương lai. Thật vậy, ông ta đã nổ lực cố gắng đến nỗi phải bỏ mạng vào lúc tuổi còn trẻ trung. Bổng nhiên ông thấy mình sanh đến cảnh giới tràn đầy dục lạc, điều mà ông ta đã cố gắng tránh xa. Nhờ nhân duyên đó nên khi nghe Ðức Phật nhắc thì Thầy mới hiểu ra rằng:
            - Thật ra, chết thì chẳng có gì lạ. Ðó chỉ là sự thay đổi hình thái và tâm thức.
Ở điểm nầy làm cho chúng ta hiểu thêm rằng:
- Không có thức nào giữa hai thức sanh và tử. Không phải như ở cõi người, sự sinh ở cõi Trời xảy ra tức thời không đau đớn gì cả. Bởi thế, chúng ta không bị mất sự liên tục thiền, không mất đà khi từ một đời sống nầy chuyển sang đời sống khác, và do đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy vị trời mới than phiền sự ồn ào của cõi Trời. Khi chúng ta đang hành thiền và tâm đang tập trung vào đề mục một cách sâu xa, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu khi nghe tiếng động phát sanh, Thử tưởng tượng xem, chúng ta đang ngồi thiền và đang đạt đến tình trạng thật bình an tĩnh lặng, bỗng nhiên có những quấy rối nào đó. Ngay lúc đó định tâm của chúng ta bị phân tán. Ðây cũng là lý do tại sao vị trời kia so sánh cõi trời với chốn ngạ quỷ, tại vì vị Trời nầy là:
- Người Trời gốc “sư”,
Cho nên ông ta không cảm thấy an ổn khi nghe đàn sáo ca hát cả ngày. Nếu là hoàn cảnh của chúng ta có lẽ cũng vậy, khi gặp những chuyện phiền toái dù đó là do một người bạn thân gây ra đi nữa, chắc chắn chúng ta cũng có những sự buồn phiền. Dĩ nhiên nếu chúng ta có sự tiến bộ đến một mức cao hơn, chúng ta sẽ không còn bị quấy động bởi những đối tượng bên ngoài như tiếng động chẳng hạn.
            Nói rằng cõi Trời là nơi mà tiệc vui không tàn, đời sống hoan lạc, tuổi thọ lâu dài, cơ thể tuyệt hảo và bao quanh là các dục lạc tràn đầy. Ðiều đó chúng ta chưa thấy, nhưng nếu xét cho kỷ thì chúng ta thấy ở xã hội Hoa Kỳ là một nước tiên tiến, các phương diện vật chất đầy đủ, chúng ta có thể hưởng thụ đầy đủ các dục lạc như hiện nay không thiếu thứ gì. Người ta thường nói:
- Có tiền mua tiên cũng được.
Như vậy không cần phải chết và tái sanh để hiểu rõ cõi Trời. Cõi Trời nằm ngay trong thế gian nầy. Chính trong xã hội nầy chúng ta có thể thấy những người đang say sưa trong rượu chè cờ bạc, hút sách... và chết chìm trong xa hoa và dục lạc. Chúng ta tự hỏi xem những người như thế có bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm cái gì chân lý của cuộc sống, và họ có thật sự có hạnh phúc không? Từ những suy tư nầy chúng ta thấy cõi trời không phải là nơi có hạnh phúc vĩnh viễn!   
Là một con người biết hướng thượng, hướng thiện, chắc chắn chúng ta đã hiểu rõ rằng càng nhiều dục lạc bao nhiêu càng khiến cho chúng ta khó tập trung tâm ý bấy nhiêu. Ðiều nầy chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Vị Trời kia than phiền và so sánh cõi trời khổ cũng không hơn gì cảnh giới của địa ngục. Như vậy muốn đạt được những thành quả cho việc tập trung tâm ý, chúng ta cần phải có một sự lựa chọn, nghĩa là:
- Mỗi một giây phút sa đọa trụy lạc, là mỗi một phút chúng ta đắm chìm trong phiền não đau khổ.
- Mỗi một phút tụng kinh, hoặc ngồi thiền là chúng ta đã từ bỏ một phút truy tầm lạc thú của trần gian.
Những ai dám làm như vậy là người đó đã thấy rõ giá trị của sự xa tránh dục lạc, cũng như thấy rõ nổi đau khổ trong việc truy tầm lạc thú thế gian.
Như thế nếu chúng ta tham dự các khoá tu tập và thiền quán lâu hơn, thì chúng ta sẽ bỏ lại sau lưng nhà cửa tài sản, những người thương yêu và thì giờ nhàn rổi. Làm được như vậy có nghĩa là chúng ta đã hy sinh tất cả để đắm mình trong trạng thái an lạc hạnh phúc cao thượng của việc tu tập.
            Mặc dầu chúng ta thấy các cảnh giới của cõi trời đầy đủ về phương diện vật chất, nhưng các cảnh giới của cõi trời cũng có một giá trị phước báo của sự tu tập đáng kể. Chúng ta không muốn sanh về cõi trời chỉ vì chúng ta muốn chứng quả Phật và giải thoát thật sự. Như vậy phần còn lại chúng ta phải rèn luyện un đúc huân tập chủng tử thiện nghiệp cho thật vững chải trong việc thực hành giáo pháp của Ðức Phật thì kết quả của sự miệt mài nầy sẽ theo chúng ta tới bất cứ nơi nào mà chúng ta muốn đến, ngay cả cõi trời. Nếu chúng ta không có đức tin vững chãi vào giáo pháp thì chẳng bao lâu sau, những lạc thú của những nơi chúng ta mới đến sẽ trói buộc chúng ta. Ở khía cạnh nầy chúng ta cũng có thể hiểu rằng ngay trong cõi đời giả tạm nầy nếu chúng ta không có nghị lực vẫn bị trói buộc như thường.
            Nói tóm lại, việc chúng ta muốn biết chúng ta sanh về nơi nào, trong mọi hoàn cảnh nào, thực sự không khó khăn. Như một cây cổ thụ nghiêng về bên Tây, như vậy khi gió bão làm cho cây cổ thụ trốc gốc thì hướng mà cây cổ thụ ngã xuống chắc chắn phải là hướng Tây. Muốn có một hướng đi và muốn biết một nơi đến rõ ràng, thì chúng ta cố gắng tu tập cho thật vững chãi trong việc hành thiền. Trước khi muốn sống theo lối sống độc cư trong rừng, hay trong một tịnh thất nhỏ hẹp nào đó, chúng ta cần phải sống với Thầy hoặc trong cộng đồng tăng chúng một thời gian dài, hay ngắn tùy theo nhân duyên. Tập sống như vậy để làm tròn bổn phận của mình trong các công việc nhỏ, lớn đối với Thầy, và cần được sự chỉ dẫn của Thầy cách hành thiền và giữ gìn giới luật trọn vẹn. Ðối với cộng đồng tăng chúng mỗi năm đều có an cư kiết hạ, trong thời gian nầy là cơ hội tốt để tu tập, sửa chữa cho nhau các khuyết điểm đã phạm trong tinh thần từ bi, để mỗi người có thể thấy được lỗi lầm của mình, hầu bổ khuyết để trở thành một con người hoàn hảo trong tư cách và phẩm hạnh.
            Có thể nói thời gian sống gần Thầy và bạn đạo là một điều không thể thiếu trong cuộc sống phạm hạnh, để giữ giới luật cho đến khi giới luật hoàn toàn trong sạch và sự tu tập thúc liễm nầy trở thành một phần của đời sống mình. Ngoài ra chúng ta cũng phải biết trách nhiệm của cá nhân đối với mọi người khi chúng ta sống chung đụng trong cộng đồng tăng ni phật tử nói riêng và trong xã hội nói chung. Chúng ta phải biết làm thế nào để giao tiếp với người khác trong tinh thần hòa ái và hổ trợ. Làm được như vậy thì trong hoàn cảnh nào, trong cảnh ngộ nào thì chúng ta cũng biết được hướng đi và nơi đến của chúng ta.
            Ðể kết thúc bài pháp hôm nay, chúng tôi xin gởi đến đại chúng bài kệ:
            - Muốn biết hướng đi và nơi đến của kiếp người
            Có hai: Sống phóng túng, và khắc kỷ tu thân
Cuộc sống dục lạc sẽ giết người không gươm giáo
            Người nào biết sống khắc kỷ tu thân
Người ấy sẽ biết được hướng đi và nơi đến của mình.
-- o0o --