-
Con Ðường Trung Ðạo
-
Nam Phương
-
--o0o--
-
-
Một nhận thức thật tuyệt vời, một chứng ngộ có một không hai
trong lịch sử nhân loại. Một sự vượt thắng trên 62 học thuyết
ngoại đạo hiện có tại Ấn Ðộ thời bấy giờ. Ðó là sự thành công
vĩ đại của Thái Tử Tất Ðạt Ta khi quyết định về một lối sống
để dẫn tới sự giác ngộ hoàn toàn chân lý, mang lại lợi ích cho
cả chư thiên và nhân loại. Lối sống ấy chính là con đường
Trung Ðạo.
-
Sau một thời gian dài sống trong cung vàng điện ngọc, vật chất
xa hoa, với một đời sống vô cùng hoàn hảo mà tất cả con người
sinh ra trên thế gian đều khát khao mơ ước. Vậy mà từ trong
tâm thức của Thái Tử Tất Ðạt Ta, người con trai của vua Tịnh
Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ lại cảm
thấy nhàm chán mọi thứ đang có chung quanh. Ðể rồi trong một
đêm dài tĩnh lặng, Thái Tử đã quyết định quay lưng, bỏ lại tất
cả đằng sau để ra đi với một tâm hồn thật nhẹ nhàng, thư thái.
Dưới bầu trời đêm trăng sao lấp lánh, giữa không khí trong
lành và sảng khoái với đời sống tự do không vướng bận. Thế
nhưng thật sự đó chỉ là cái cảm giác nhẹ nhàng, thư thái một
cách ngắn ngủi khi trút bỏ được gánh nặng vật chết thế gian mà
thôi.
-
Giờ đây trước mặc Ngài, đêm đen vẫn còn dày đặc, sông nước
mênh mông, núi rừng trùng điệp. Biết đi đâu, về đâu khi đang
đối diện với một thực tại quá rõ ràng. Rồi sáng mai đây khi
bình minh trở lại, nhìn chung quanh không có một cận thần,
không cha mẹ, người thân, thậm chí trong tay cũng không có lấy
một nắm lương khô. Trong hoàn cảnh như vậy với một người bình
thường chắc đã thối chí, ngã lòng. Nhưng quả thật Ngài là một
con người phi thường, một con người không giống như mọi người
bởi vì Ngài có một ý chí, một hoài bão và một sự tinh tấn vô
song. Chính nhờ vậy mà khi một ngày thật sự quá mới đối với
Ngài bắt đầu, thì cũng là lúc Ngài bắt đầu lần bước đi tìm
thầy học đạo.
-
Chúng ta biết rằng Ấn Ðộ là một xã hội có nhiều giai cấp, một
đất nước đông dân với nhiều khó khăn thiếu thốn, lại thêm khí
hậu nghiệt ngã, mùa nóng thì cực nóng, mùa lạnh thì cực lạnh.
Có những mùa nóng đến độ người ta phải quấn thêm vải vào người
để ngăn ngừa sức nóng có thể làm cháy phỏng da.
-
Tuy vậy, nhưng chính nơi đây lại là nơi phát sinh rất nhiều
học thuyết. Bởi lẽ đời sống con người bao giờ cũng có hai
phần, tinh thần và vật chất, mà đời sống tinh thần và đời sống
vật chất luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Ở nơi đâu có đời
sống khổ đau, thiếu thốn thì nơi ấy càng có nhiều triết gia
với những triết thuyết ra đời. Ngược lại với đời sống khoa học
phát triển, vật chất dư thừa thì hầu như đời sống tinh thần
thường bị lãng quên. Ðiều đáng nói ở đây là điểm khác lạ nơi
con người Thái Tử Sỉ Ðạt Ta, dù sống trong cảnh đời vương giả,
nhung lụa xa hoa, nhưng Ngài lại khước từ để nghiêng hẳn về
đời sống tâm linh.
-
Ðầu tiên là Ngài tìm đến thọ giáo với vị đạo sĩ Alàràma Kàlàma
nổi tiếng. Rồi đến vị đạo sư trứ danh khác tên Udddka
Ràmaputta. Nhưng rồi không bao lâu tất cả điều mà các vị thầy
cho rằng họ đà chứng đạt đến mức cao nhất trong các tầng thiền
đó là cảnh giới vô sở hữu xứ thiên hoặc cõi vô sắc, cảnh giới
Phi tưởng phi phi tưởng thì chính Thái Tử cũng đạt đến như
họ. Vì vậy mặc dù rất kính trọng những vị đạo sĩ nổi danh,
Thái Tử cũng đành từ giã các vị ấy để ra đi bởi vì những điều
họ chỉ dạy chưa thỏa mãn tận cùng sự hiểu biết của Thái Tử,
cũng không dẫn đến chân lý tuyệt diệu, rốt ráo để có thể nương
tựa đời sống tâm linh.
-
Ngài cảm thấy thất vọng khi phải nương nhờ nơi kẻ khác, những
giáo điều, những học thuyết vẫn không tìm ra được sự giác ngộ
đích thực. Thuở ấy tại Ấn Ðộ có rất nhiều tôn giáo với nhiều
đức tin khác nhau mà họ cho rằng đó là chân lý như đạo thờ
Thần lửa, đạo lõa thể ... Những học thuyết lý luận, thường
kiến, đoạn kiến ... hoặc tin tưởng sự ghép mình vào đời sống
khắt khe, khổ hạnh có thể đem lại sự giải thoát. Thái Tử cũng
có suy nghĩ như họ sau khi đã nương tựa nơi người khác mà
không mang lại điều mong muốn. Vì vậy lần nầy Ngài một mình đi
vào rừng sâu để tự mình sống cuộc đời kham nhẫn, ép xác với hy
vọng sẽ chứng đạt đạo quả.
-
Một thời gian khá dài trong rừng khổ hạnh Ngài đã chịu đựng
tất cả, không những nhịn đói, nhịn khát mà còn nhịn cả thở.
Ngài cố gắng chế ngự thân cho tâm linh được sáng suốt, thanh
tịnh để có thể tìm ra sự chứng ngộ. Trong bài Kinh Mahà
Saccaka Sutta nói rất rõ về sức chịu đựng phi thường của Thái
Tử. Khi Ngài nhịn thở thì hơi bị dồn nén đưa lên đầu nhức buốt
như dùng mũi khoan nhọn khoan vào đầu. Lúc nhịn ăn, nhịn uống
thì cơ thể mòn mỏi, xác xơ như trái mướp đắng phơi khô. Muốn
rờ vào xương sống thì chạm phải da bụng. Rồi mặc dù xác thân
mệt mỏi, gầy còm nhưng tâm trí Ngài vẫn luôn luôn sáng suốt,
kiên trì, chịu đựng cho đến một ngày dòng máu trong cơ thể
Ngài dường như bắt đầu khô cạn, làn da xanh dương đậm, xám
đen. Người ta nghĩ rằng Thái Tử Sĩ Ðạt Ta đã chết hay đang
chết dần. Bao sinh lực, sự tráng kiện, đẹp đẽ của một thời
thái tử đã tiêu mòn hết bởi vì một khi Ngài chọn lựa đường tu
khổ hạnh thì không ai khổ hạnh được như Ngài. Lúc nầy đây với
một thể xác tiều tụy, hơi thở thoi thớp Ngài còn phải tự chiến
đấu để tâm thức tồn tại. Rồi khi đi đến tận cùng của sự sống
Ngài bắt gặp cái chết hiển hiện trước mặt; Ngài dừng lại và
chứng nghiệm ra rằng con đường này chẳng dẫn được đến đâu khi
càng ức chế cơ thể bao nhiêu chỉ làm cho xác thân tàn tạ, đớn
đau mà tâm thức càng mệt mỏi, rã rời. Ngài quyết định từ bỏ
con đường khổ hạnh sau 6 năm dài theo đuổi. Ngài nhận thấy rõ
một điều chắc chắn tất cả mọi cực đoan, thái quá về cả tinh
thần lẫn vật chất đều không tránh khỏi khổ đau vì con người
chỉ loanh quanh, lẩn quẩn với tâm thức bị trói buộc, với những
phiền nãọ bất an.
-
Ðến đây, chúng ta càng thấy khâm phục hơn con
người của Thái Tử với một ý chí sắt đá, một sự tinh tấn vượt
bực. Ngài đã trải qua thời gian học hỏi với các vị đạo sĩ lừng
danh, đã chịu đựng sống đời khổ hạnh, ép xác đến mức cực đoan,
tuyệt đối, đã dấn thân, đã chiến đấu với bao gian nan thử
thách, để tự mình chứng thực mọi điều vẫn không tìm ra được
ánh sáng của chân lý. Nhưng Ngài lại tìm thấy con đường dẫn
đến chân lý. Một con đường sống không cực đoan, không quá độ
nên cho dù cánh cửa hoàng cung vẫn luôn luôn mở ngỏ, một đời
sống xa hoa, nhung lụa vẫn đang chờ đón Ngài, nhưng Ngài vẫn
không quay về với đời sống lợi dưỡng đó, và cũng không tiếp
tục sống cuộc đời khổ hạnh. Quả thật một lối sống không quá
lợi dưỡng cũng không quá gò ép xác thânlà một lối sống vô cùng
toàn hảo để dẫn tới sự thành đạt.
-
Ngài rời khỏi khu rừng khổ hạnh, tìm đến một dòng
sông. Sau khi tắm rửa cho tinh thần, thể xác được phục hồi,
được thoải mái thì cũng vừa lúc ấy có một vị nữ thí chủ tên
Sujata đến dâng cho Ngài một bát cơm sữa đề hồ. Dùng bữa cơm
ấy xong (trong Kinh có nói đó là bữa cơm vô cùng phước báu
trước khi Ngài trở thành bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác) Ngài trải
cỏ xuống một gốc cây cổ thụ để làm toạ cụ và nguyện rằng:Dù
máu ta có thể cạn, dù xương ta có thể mòn, nếu không chứng đạt
đạo quả thì quyết không rời khỏi gốc cây nầy.
-
Thế rồi sau 49 ngày dêm tọa thiền, trầm tư mặc tưởng Ngài đã
chiến thắng Ma vương. Ma vương ở đây chính là những cám dỗ,
những vô minh, tham ái, Ngài đã chiến thắng, đã diệt tận mọi
phiền não ái dục với một trí tuệ siêu phàm, Ngài thấu triệt
tất cả vạn hữu thế gian để đạt đến quả vị Phật. Một quả vị mà
Ngài đã đổi lấy trăm phần cam go mới đến được. Như vậy mỗi
cuộc đời đều phải trả giá là lẽ hẳn nhiên không thể phủ nhận.
-
Giả sử rằng sau khi chịu đựng khổ hạnh đến mức tận cùng Ngài
quay về với đời sống vương giả thì giờ đây nhiều lắm Ngài có
được vài dòng lịch sử Ấn Ðộ nói về vị Ðại Hoàng đế Siddhattha
là cùng. Hoặc Ngài cứ tiếp tục đi theo con đường khổ hạnh thì
cũng chỉ làm mồi cho tử thần mà thôi. Chính nhận thức từ bỏ
mọi thái độ cực đoan thái quá đã dẫn tới thành công của Ngài
là một nhận thức vô cùng sáng suốt.
-
Ðức Phật Thích Ca chỉ là một người nhưng là một con người có
rất nhiều đức tính cao thượng mà chúng ta cần phải học hỏi nơi
Ngài, Lòng biết ơn cũng là một trong nhiều tính tốt của Ngài.
Vì vậy sau khi chứng đạt đạo quả Ngài nhận thấy giáo lý mà
Ngài vừa chứng ngộ có thể làm vơi được khổ đau, mang lại hạnh
phúc cho nhiều người, những ai muốn bước theo dấu chân của
Ngài đều sẽ đến được bờ an lạc. Bấy giờ Ngài nghĩ đến hai vị
thầy đầu tiên khi Ngài đến học đạo, thì được biết cả hai vị
đều đã qua đời. Lúc ấy Ngài lại quán sát và nhớ đến 5 anh em
Kiều Trần Như, những người bạn đồng tu trong rừng khổ hạnh, đã
lo lắng giúp đở, chia xẻ những khó khăn với Ngài trong suốt
thời gian đi tìm chân lý bằng con đường kham nhẫn, ép xác.
Ngài tìm đến với họ để chia xẻ cho họ những hạnh phúc vượt ra
ngoài hạnh phúc tầm thường của thế gian mà Ngài vừa có được,
trong khi họ vẫn còn miệt mài đi tìm kiếm vô định.
-
Bài pháp đầu tiên Ðức Phật giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như
nghe mà trong Kinh thường nói là vô cùng quan trọng, là cốt
tủy của đạo Phật được gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân: Tứ Diệu
Ðế. Quả thật vậy, thấy được sự khổ, biết được nguyên nhân sanh
khổ, để tìm đến con đường dẫn đến sự diệt khổ là cứu cánh để
có hạnh phúc, an lạc. Ðó là bài pháp tuyệt diệu, khai sáng trí
tuệ, hé mở cánh cửa của Niết Bàn cho 5 vị Kiều Trần Như mà sau
đó họ đã quy y theo Phật và trở thành 5 vị đệ tử đầu tiên
trong tăng đoàn để bắt đầu đi gieo trồng những hạt giống bồ đề
cho nhân loại.
-
Giáo pháp mà Ðức Phật để lại cho đời không chỉ có
vậy mà nhiều vô kể, nhưng lời nói đầu tiên có thể xem như một
bài pháp cũng không kém phần quan trọng, đó là khi tìm đến 5
anh em Kiều trần Như, Ngài đã dùng những lời nói chân thật để
thuyết phục 5 vị từ bỏ lối tu khổ hạnh, xa lìa đời sống cực
đoan, thái quá để quay về với con đường trung đạo. Chính đây
là điều tưởng như đơn giản nhưng đã làm xoay chuyển được tâm
thức của 5 vị Kiều Trần Như để từ đó bánh xe pháp bắt đầu được
chuyển vận.
-
Thật sự trong đời sống bình thường của mỗi con người, chúng ta
nhận thấy rằng không phải con đường trung đạo chỉ giúp Thái Tử
Sĩ Ðạt Ta đi đến chứng đạt đạo quả, mà chính chúng ta cũng
phải dùng con đường trung đạo để đi giữa cuộc đời vì đây là
con đường mang lại nhiều lợi ích. Trong Nho Giáo có nói đến
thuyết Trung Dung của Ðức Khổng Tử cũng là một quan niệm, một
thái độ sống không thái quá, không bất cập. Khi gặp thời, gặp
thế thì ra làm quan giúp dân, giúp nước. Lúc chưa gặp thời
hoặc lúc thời vận qua đi thì quay về sống cuộc đời an bần lạc
đạo. Ðó là quan niệm xuất. xử trong Nho Giáo. Những bậc Thánh
nhân vẫn thường sống và nhìn cuộc đời như vậy để an lạc tâm
hồn. Dù trong cảnh nào cũng giữ được sự quân bình, đó là
phương thức sống để có hạnh phúc. Trong đời sống khoa học hiện
tại những ai biết sử dụng con đường trung đạo để giữ thăng
bằng cho cả đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất
không để đi đến chỗ cực đoan, thái quá sẽ tránh được nhiều hệ
lụy thế gian.
-
Bài viết xong trong dịp Phật Ðản lần thứ 2626 và năm nay đặc
biệt rằm tháng tư âm lịch lại đúng vào ngày chủ nhật vì vậy
hầu hết các chùa đều đồng loạt cử hành Ðại Lễ Phật Ðản cùng
một ngày. Ðó là niềm hân hoan chung của tất cả những người con
Phật không phân biệt màu da, chủng tộc trên toàn thế giới. Tuy
nhiên cho dù Phật Ðản, Vu Lan hay bất kỳ ngày lễ vía nào trong
năm về Ngài cũng chỉ là để nhắc nhở, để tưởng niệm vậy thôi vì
thật sự trong tâm tư mỗi người Phật tử chúng ta vẫn luôn luôn
khắc ghi ân đức của Ngài, sự thị hiện của Ngài trong thế gian
cùng giáo pháp mà Ngài đã hy sinh, đã phải trả một cái giá quá
đắt mới có thể đạt đến và lưu truyền cho nhân loại đến ngày
hôm nay. Một phương lương dược để xoa dịu căn bệnh trầm kha
sanh tử luân hồi với những phương thức mang lại một đời sống
an vui hạnh phúc cho chúng sanh. Có không biết bao nhiêu những
lời nói cao đẹp để tôn kính, để tán dương Ngài như Thi Sĩ
Tagore đã viết:
-
- Ngài là bậc vĩ nhân cao quý nhất trên thế gian.
-
Một triết gia người Ðan Mạch-ông Fausholl cũng có những lời
tán dương Ðức Phật như sau:
-
- Càng hiểu biết Ngài tôi càng quý mến Ngài, càng quý mến Ngài
tôi càng hiểu biết Ngài.
-
Quả đúng như vậy vì có thật sự hiểu Ngài chúng ta mới càng
thấy tôn kính và quý mến Ngài và chỉ có hiểu Ngài chúng ta mới
có thể thực hành giáo pháp của Ngài một cách chân chánh được
như Ðức Phật vẫn thường nhắc nhở hàng đệ tử rằng:
-
- Những ai sống trong giáo pháp của Như Lai mà thực hành trọn
vẹn giáo pháp, gọi là ở bên cạnh Như Lai. Còn những ai dù sống
bên cạnh Như Lai, nắm lấy chéo y của Như Lai mà không thực
hành đúng giáo pháp thì cũng như xa Như Lai ngàn dặm.
|