-
Những Kỷ Nguyên Ðầu Của Ðạo Phật
-
Tác Giả: Daisaku Ikeda
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
--o0o--
-
-
1- Sự Thành Lập Kinh Ðiển Phật Giáo
-
KẾT TẬP LẦN THỨ NHỨT
-
Trong tác phẩm trước, tôi đã bàn thảo về những sự cố xảy ra
trong đời Ðức Thích Ca Mâu Ni. Giờ đây, tôi xin đề cập đến sự
phát triển của Ðạo Phật trong giai đoạn tiếp theo. Ngay sau
khi Ðức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, kinh điển cho chúng ta
biết rằng những đệ tử của Ngài đã nhóm họp lại để xác định lại
những lời dạy của Ngài. Chúng ta không thể biết một cách chính
xác thời điểm Ðức Thích Ca nhập diệt, nhưng chúng ta có thể
phỏng chừng là vào khoảng thế kỷ thứ năm, thứ sáu trước Tây
lịch. Vì chúng ta làm việc với những sự cố đã xảy ra hơn hai
ngàn năm về trước, chúng ta không có hy vọng biết rõ những sự
cố nầy một cách chi tiết. Một nguồn tài liệu duy nhất là khảo
cứu những mãnh tài liệu rời rạc trong các Kinh sách Phật giáo,
đúc kết lại một cách ức đoán, cố gắng tạo dựng lại đoạn đường
thành lập Kinh điển Phật Giáo.
-
Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhứt, như danh xưng của những vị đệ tử Ðức
Phật trong kỳ kết tập nầy gọi, xảy ra cùng trong năm Ðức Phật
nhập diệt, ở mộtnơi tên là Saptaparna-guha hay động Bảy Lá
trong vùng núi gần Vương Xá (Rajagaha), kinh đô của nước Ma
Kiệt Ðà (Magadha). Kỳ Kết Tập nầy có khoảng năm trăm Tỳ Kheo
tham dự vây quanh các Ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahakashyapa), A Nan
(Ananda), Ưu Ba Li (Upali), và một số các vị khác trong Mười
Ðại Ðệ Tử của Ðức Phật vẫn còn tại thế. Chúng ta cũng được
biết là A Xà Thế (Ajatashatru), vua của nước Ma Kiệt Ðà trợ
giúp cho kỳ Kết tập nầy. Chỗ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày nay,
và những hình ảnh về địa điểm nầy cho chúng ta thấy là một
ngọn đồi thoải đẹp với một hang động ở một bên, và khoảng mười
bực đá để đi lên. Người ta có thể thấy một khoảng rộng bên
trong, nơi những vị tham dự kỳ Kết Tập tụ tập và họ có thể
tránh được mưa.
-
Một số học giả Phật Giáo Tây Phương đặt câu hỏi có phải chăng
là kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất có xảy ra thật sự? Tuy nhiên, những
Kinh điển của Phật Giáo Theravada (Nguyên Thủy) và Ðại Thừa
đều đề cập đến giới luật được thành lập với sự tập hợp của năm
trăm vị, hoặc năm trăm vị đã sang định lại giới luật, chứng tỏ
kỳ Kết Tập nầy, là có thật. Tuy nhiên, chúng ta có thể phủ
nhận giá trị của những tài liệu trong Kinh điển. Trong trường
hợp nầy, chúng ta không có gì để nói, vì Kinh điển là nguồn
tài liệu duy nhất. Hầu hết các học giả Phật Giáo, ít nhất là
tại Nhật Bản, đều cho rằng Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất là một sự
kiện lịch sử có thật.
-
Với sự ra đi của một vị lãnh đạo phi thường như vậy, điều tự
nhiên là những đệ tử của Ðức Thích Ca Mâu Ni muốn tập hợp với
nhau lập tức, sắp xếp lại những lời dạy của Ngài để Giáo Pháp
có thể lưu truyền lại đời sau không sai lạc.
-
Kinh điển ghi lại một đoạn liên quan đến những tình huống đã
thúc đẩy Ngài Ma Ha Ca Diếp tập hợp Tăng chúng cho kỳ Kết Tập.
Khi Ngài Ma Ha Ca Diếp, đi cùng với một nhóm đông đảo các vị
Tỳ Kheo, trên đường từ Pava về Câu Thi La (Kushinagara). Trước
đó, Ðức Thích Ca Mâu Ni đã đi trước Ðại Ðức về Câu Thi La, nay
đã viên tịch. Trên đường đi, Ngài Ma Ha Ca Diếp và chúng Tăng
gặp một vị Bà La Môn cầm trên tay một bông hoa mandara. Ngài
Ca Diếp hỏi thăm vị Bà La Môn nầy về tin tức của Ðức Thích Ca
Mâu Ni, và được cho biết là Ðức Thích Ca Mâu Ni không còn trên
thế gian nữa. Nghe thế, một số Tăng sĩ đau lòng than khóc, còn
một số khác thì xót xa trong im lặng. Tuy nhiên, mọi người
ngạc nhiên khi nghe một vị Tăng lớn tuổi buột miệng nói một
lời chua xót:
-
- Nầy các bạn, hãy đừng ưu phiền và chua xót nữa, vì giờ đây,
cuối cùng chúng ta đã được tự do khỏi vị Thầy Lớn Lao ấy. Giờ
đây không còn ai ngăn cấm: Ông được làm việc nầy, hoặc Ông
không nên làm việc nầy, làm cho đời sống chúng ta khốn khổ và
thúc ép chúng ta. Giờ đây chúng ta có thể làm bất cứ điều gì
chúng ta muốn và không còn cần phải làm điều gì trái lại ý
muốn của chúng ta!
-
Ngài Ma Ha Ca Diếp được coi như một vị Khổ Hạnh Ðệ Nhứt, dĩ
nhiên nghe những lời nầy cảm thấy rất không vui lòng. Ngay sau
khi hoàn tất lễ trà tỳ của Ðức Thích Ca Mâu Ni và lấy xong xá
lợi, Ngài nói với chúng Tăng những lời như sau:
-
- Thưa chư huynh đệ, chúng ta cần phải làm cho giáo pháp và
giới luật được sắp đặt dưới một hình thức thích đáng, để không
thể xảy ra việc những giáo lý sai lầm được lưu hành trong khi
giáo lý chân chánh bị suy tàn, những giới luật sai lầm được
phát dương trong khi những giới luật chân chánh bị loại bỏ,
những người giảng thuyết những lời dạy sai lầm trở nên lớn
mạnh, trong khi những người giảng thuyết những lời dạy chân
chánh trở nên yếu nhược, những người giảng thuyết những giới
luật sai lầm nắm được sức mạnh trong khi những người giảng
thuyết những giới luật chân chánh không còn sức mạnh.
-
Chúng ta được cho biết rằng Ngài Ma Ha Ca Diếp chọn ra năm
trăm vị Tỳ Kheo vào công việc sắp xếp lại những giáo lý và lời
dạy của Ðức Thích Ca Mâu Ni làm thành Kinh diển Phật Giáo.
-
Sự giải thích nầy có vẻ đủ hợp lý. Và giai thoại được đề cập ở
trên nêu ra một tác nhân quan trọng trong việc kết tập Kinh
điển . Tôi muốn nói đến bản chất của con tim. Những vị đệ tử
của Ðức Thích Ca Mâu Ni, thường tỏ ra vô cùng kính trọng Ngài,
đã siêng năng và nghiêm nhặt thực hành theo Giáo Pháp. Nhưng
trong một vài trường hợp, họ vẫn còn lưu lại trong tâm một sự
chấp ngã nền tảng và có một tầm nhìn hẹp hòi. Khi đối diện với
sự ra đi của Ðức Thích Ca Mâu Ni, bản chất thật sự của họ liền
lộ ra một cách vô tình. Tôi nghĩ đó là điều mà câu chuyện về
vị Tăng lớn tuổi với lời thốt ra từ sự khủng hoảng muốn nói
lên.
-
Ðối với đệ tử, Ðức Thích Ca Mâu Ni là một vị thầy về đạo sống,
một bậc đã ban cho họ lòng từ bi và thương yêu sâu thẳm của
một người cha, đồng thời cũng là một người lãnh đạo của một
giáo đoàn. Ðại đa số đệ Tử của Ngài đối với Ngài vừa sợ vừa
kính, nhưng cũng có những người không thể sống theo giới luật
nghiêm khắc, những giới luật làm cho đời sống của họ khác hẳn
với đời sống thế tục, và họ vẫn còn ám ảnh bởi những quyến rũ
và những ảo tưởng về thế gian. Ðiều tự nhiên là những người
nầy cảm thấy họ được giải phóng khỏi gánh nặng đè lên tinh
thần của họ. Lời nói cường điệu của vị Tăng gìa được đáp ứng
như một lời nhắc nhở Ngài Ma Ha Ca Diếp rằng một bầu không khí
phóng túng và xao lãng dường như đang lan tràn trong Tăng
đoàn.
-
Sự ra đi của một bậc lãnh đạo tối cao có nghĩa là Giáo Ðoàn
đối diện với một sự hiểm nguy trầm trọng, bởi vì trong xã hội
Ấn Ðộ thời bấy giờ, vẫn còn có nhiều môn phái Bà La Môn dẫn
đạo. Ðạo Phật chỉ là một tôn giáo rất mới mẻ với tương đối ít
đồ chúng. Sự qua đời của người lập giáo dĩ nhiên làm mất đi sự
lãnh đạo và nguồn cảm hứng chủ yếu của tổ chức đã đẩy nhiều vị
đệ tử vào chỗ thất vọng sâu xa. Không nghi ngờ gì họ cảm thấy
một sự rỗng không bất ngờ trong tâm, một cảm giác hoang mang
và mất mát không thể hiểu được.
-
Sự ra đi của Ðức Thích Ca Mâu Ni cũng có thể gây ra nhiều phản
ứng khác nhau giữa những cá nhân cũng như những đoàn nhóm bên
ngoài giáo hội. Có những người tiên đoán rằng đó là dấu hiệu
cho sự tàn lụn dần của tôn giáo nầy, bởi vì một cá nhân dù
xuất chúng có thể thành lập một giáo hội mới, nếu không tìm ra
được người kế thừa thích hợp để tiếp nối sự nghiệp, giáo hội
sẽ gặp rắc rối do sự chia rẽ nội bộ và những vấn đề liên hệ,
rồi sẽ rơi vào sự suy tàn. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng
nhiều tông phái Bà La Môn hy vọng và tin tưởng điều nầy sẽ xảy
ra.
-
Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên vì mọi người đều nghĩ rằng
trong Giáo Hội Phật Giáo thời bấy giờ không có một nhân vật
nào có một tầm vóc thật sự xuất chúng. Kinh điển thuật lại
những lời trao đổi giữa Ngài A Nan với một người bạn cũ là một
người Bà La Môn. Nầy A Nan, người Bà La Môn nói:
-
- Giờ đây Ðức Phật đã qua đời, có người nào có ngang tầm vóc
với Ngài để thay thế Ngài chăng?
-
A Nan trả lời:
-
- Này bạn, làm sao có thể có một con người lớn lao như vậy
nữa? Ðức Phật với nỗ lực cá nhân để đạt đến giác ngộ Chân Lý
và thực hành theo Chân Lý đó. Tất cả mọi việc mà chúng tôi đệ
tử của Ngài, có thể làm theo những lời dạy của Ngài và noi
theo gương Ngài.
-
Nói một cách khác, Nương vào Giáo Pháp, không nương vào người,
như một lời dạy trong Phật Giáo. Giai thoại trước thì liên
quan đến việc Ngài Ma Ha Ca Diếp gợi ý sự cần thiết có một hệ
thống Kinh điển Phật Giáo được quy định để đoàn kết và duy trì
giáo đoàn, giai thoại nầy đề cập đến việc Ngài A Nan nêu rõ sự
cần thiết của một hệ thống Kinh điển như là một cơ sở thẩm
quyền cho đức tin.
-
Trong Kinh Niết Bàn, chúng ta được đọc thấy, ngay trước khi
nhập Niết Bàn, Ðức Thích Ca Mâu Ni nói với các vị đệ tử quanh
Ngài:
-
- Mặc dù Ta nhập diệt, các ông chớ có vì lý do đó mà nghĩ rằng
các ông bị bỏ lại không người hướng dẫn. Giáo Pháp và Giới
Luật mà Ta giảng dạy các ông sẽ là thầy của các ông. Vì vậy,
nếu các ông có điều gì nghi ngờ, giờ là lúc mà các ông có thể
hỏi. Các ông hãy đừng để cho mình phải hối hận sau nầy, nói
rằng: Tại sao tôi đã không hỏi Ngài khi Ngài còn tại thế!
-
Một lúc sau, Ngài nói:
-
- Sự suy tàn nằm sẳn trong mọi sự vật do tập hợp mà thành. Hãy
cố gắng giải thoát bằng sự tinh tấn.
-
Những lời nói bất hủ nầy là lời tuyên bố cuối cùng trước khi
Ngài nhập Niết Bàn.
-
Từ đoạn Kinh trên, lời dạy: Nương vào Pháp, không nương vào
người, được triển khai. Chúng ta không nghi ngờ là Ðức Thích
Ca Mâu Ni nói những lời trên với mục đích cảnh cáo những vị
thầy tự phong sau khi Ngài qua đời làm sai lạc giáo pháp theo
những lý thuyết và giải thích cá nhân. Có một số học giả Phật
Giáo tin rằng việc kết tập Kinh điển thành lập hệ thống đã
được thực hiện từ lúc Ðức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, tuy
rằng quan điểm công chúng hơn là Ngài dạy chỉ yêu cầu đệ tử
ghi nhớ cặn kẽ những lời dạy và hành vi của Ngài. Có thể đó là
lý do trong những năm cuối cùng, Ðức Phật để Ngài A Nan, người
có tiếng về trí nhớ, làm thị giả cho mình. Hầu như tất cả các
Kinh điển ở Trung Hoa đều mở đầu với câu:
-
- Tôi nghe thế nầy.
-
Trong hầu hết các trường
hợp, chữ Tôi chỉ cho Ngài A Nan, người đã đọc lại
từ trí nhớ những lời đã được nghe từ Ðức Phật.
-
Giáo phái Kỳ Na(Jaina), một tôn giáo mới khác cũng ra đời cùng
thời hay sớm hơn một chút với Phật Giáo, bị phân hoá ra làm
hai nhánh sau khi vị sáng lập qua đời, lý do được nói đến là
không có một hệ thống Kinh điển hẳn hòi để dựa vào trong những
trường hợp có sự tranh cải về giáo lý. Có một số học giả cho
rằng vì tấm gương đó mà Ðức Thích Ca Mâu Ni giao cho Ngài Xá
Lợi Phất(Shariputra), một vị đệ tử lớn của Phật, trách nhiệm
hệ thống hoá giáo lý của Ngài.
-
Chúng ta không nghi ngờ rằng Ðức Thích Ca Mâu Ni, đặc biệt
trong những năm cuối cuộc đời Ngài, nghĩ ngợi nhiều về phương
cách tốt nhất để bảo đảm Chánh Pháp được lưu truyền, một lời
dạy được lưu truyền từ xưa. Người ta có thể thấy được là nhà
lãnh đạo tôn giáo có khả năng hơn người và thấy xa tất phải
nghĩ đến tương lai của giáo hội sau khi mình qua đời một cách
nghiêm túc và liên tục. Ðiều chứng tỏ rằng Ðức Thích Ca Mâu Ni
đã làm như vậy được thấy trong sự kiện rằng ngay sau khi Ngài
rời khỏi thế gian, đệ tử của Ngài đã tập hợp trong một cuộc
hội nghị để sắp xếp lại những lời dạy của Ngài. Hành động nầy,
cùng với sự nổ lực lớn lao mà tín đồ Phật Giáo bỏ ra trong hơn
ngàn năm tiếp theo trong việc bảo tồn và mở rộng tạng Kinh
điển, chắc chắn là phản ảnh lời nhắc nhở của Ðức Phật khi Ngài
còn tại thế cho sự lưu truyền của Chánh Pháp.
-
Tuyên Ðọc Lời Dạy Của Ðức Phật
-
Như đã được đề cập từ trước, các Kinh điển có chứa nhiều điều
liên quan đến Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhứt, một tập thể gồm năm
trăm vị Tăng và Ni, như được diễn tả. Từ những sự kiện đó,
chúng ta biết rằng Ngài Ma Ha Ca Diếp, vị lớn tuổi nhất trong
các đại đệ tử, giữ nhiệm vụ như tổng thư lý của cuộc kết tập,
trong khi các Ngài A Nan và Ưu Ba Li được đề cử đọc lại những
lời của Ðức Phật mà hai Ngài ghi nhớ. Ngài A Nan, đã có một
thời gian dài làm thị giả cho Phật, luôn luôn ở bên cạnh Phật,
giữ nhiệm vụ ghi nhớ những điều Ðức Phật đã dạy, ở nơi nào và
cho người nào, còn Ngài Ưu Ba Li, một trong Mười Ðại Ðệ Tử và
được coi là người giới luật hàng đầu, hoàn toàn thấu hiểu giới
luật Phật đề ra cho Tăng Ðoàn. Như vậy, Ngài A Nan đọc lại
trước đại chúng những lời dạy về Giáo Pháp, về sau được quy
định thành Kinh, và Ngài Ưu Ba Li tuyên đọc những điều lệ và
phép tắc, gom lại thành Luật.
-
Tuy nhiên chúng ta cũng chắc chắn rằng không những nhờ vào khả
năng của trí nhớ mà hai Ngài A Nan và Ưu Ba Li có đủ tư cách
giữ những nhiệm vụ được phó thác. Nhưng lý do chính là các
Ngài, trong một ý nghĩa nào đó, là những hiện thân sống động
của Phật Pháp. Người nào có tâm chân thành để tiếp thu và ghi
nhớ từng chữ, từng lời dạy của Ðức Phật sẽ thấy không thể nào
rời bỏ được những lời dạy đó dù người ấy có muốn. Cũng dậy,
mặc dù vị thầy có thể ra đi, người ấy có thể nghe được tiếng
của thầy mình âm vang trong cơ thể. Danh từ Shòmon (Sa Môn),
có nghĩa là những người nghe được âm thanh(Thanh văn) được
dùng để chỉ những người nghe được lời dạy của Ðức Thích Ca Mâu
Ni. Những người như vậy, khi không còn có thể nghe âm thanh
thực sự của Ðức Phật, chắc chắn cũng sẽ tiếp tục nhớ mãi những
lời Ðức Phật đã dạy, như là những lời dạy nầy được khắc vào
trong sự hiện hữu của họ và tiếp tục bước theo đời sống đạo
trong ánh sáng của những lời dạy đó.
-
Chúng ta không cần phải nói, trong thời bấy giờ không có những
phương tiện cơ giới để ghi nhớ cũng không có những phương pháp
tốc ký. Chúng ta cũng không chắc là thời bấy giờ đã có chữ
viết cho các ngôn ngữ Ấn Ðộ. Những mẫu chữ viết Ấn Ðộ(ngoại
trừ những chữ khắc cổ Harappa) có từ thế kỷ thứ ba trước Tây
lịch. Trong những thế kỷ trước đó, văn học được truyền qua lối
khẩu truyền, cũng là trưòng hợp của môn đồ nhà Phật trong giai
đoạn đầu, và người thời đó chắc chắn là cómột trí nhớ khủng
khiếp đối với chúng ta ngày nay]. Những đệ tử của Ðức Thích Ca
Mâu Ni, nếu muốn lưu truyền những lời dạy của Ngài, chỉ còn
một cách là làm cho những giáo pháp nầy trở thành toàn bộ nhân
cách của họ.
-
Ðiều quan trọng cũng cần nêu ra đây là những giáo pháp nầy
trong một ý nghĩa nào đó không phải là một hệ thống kiến thức
hay một hệ thống cơ sở lý luận . Xa hơn, những giáo lý nầy là
một thể hiện của trí tuệ về những vấn đề như là con người phải
sống như thế nào, đâu là những nguyên nhân khổ đau của con
người. Khi người học trò thọ nhận giáo pháp của Phật, họ đem
ra thực hành trong đời sống của mỗi người, và với cách nầy,
mỗi người tự xác minh về chân lý và giá trị của những lời dạy
của Ðức Thích Ca Mâu Ni.
-
Những giáo pháp của Ðức Thích Ca Mâu Ni, chúng ta nên nhớ, cần
được sở đắc một cách chủ quan, xuyên qua sự thực hành. Một
người không bao giờ có thể hiểu được chúng bằng cách ngồi trên
bàn viết và đọc một cuốn sách. Chỉ xuyên qua sự trao đổi giữa
người nầy và người khác, giữa một nguồn sống nầy và một nguồn
sống khác, mà chân lý được đạt đến. Ðiểm nầy cần ghi nhớ khi
đến với Kinh điển Phật Giáo, những Kinh điển nầy là biểu hiện
của giáo pháp và trí tuệ.
-
Chúng ta có thể giả thuyết rằng Ngài Ưu Ba Li trong những sự
cư xử và hành động hàng ngày được coi như mẫu mực cho những
giới luật đặt cho Tăng Ðoàn. Không phải Ngài đã ghi nhớ từng
quy định mà Ðức Phật đã dạy, nhưng xa hơn, mọi hành động của
Ngài một cách vô thức đã trở thành một thể hiện sống động của
giới luật (vinaya) và của tinh thần tiềm ẩn bên trong. Nếu
Ngài không quán triệt được toàn bộ nó, có thể Ngài đã không
làmột người độc nhất trong các vị đệ tử của Phật được coi là
giới luật đệ nhất.
-
Cũng tương tự như trường hợp của Ngài A Nan. Thấm nhuần trong
toàn bộ giáo pháp của Ðức Phật, những giáo pháp nầy tuôn trào
từ từng bộ phận trong cơ thể Ngài. Nếu không thế, có lẽ không
thể nào Ngài đọc thuộc lòng một khối lượng khổng lồ Kinh điển
như chúng ta thấy, một sự việc đáng kinh ngạc trong lịch sử
Ðạo Phật. Như chúng ta sẽ thấy sau nầy, Tam Tạng hay là hệ
thống Kinh điển Ðạo Phật gồm có ba phần: Kinh (Sutra) hay
những lời dạy của Ðức Phật, Luật (vinayas) hay những quy luật,
và Luận (sastra) hay những chú giải. Trong đó, Kinh do Ngài A
Nan tuyên đọc lại, có hơn sáu ngàn quyển.
-
Kinh điển nói lại hoàn cảnh của cuộc kết tập như sau. Ngài Ma
Ha Ca Diếp giới thiệu hai vị sẽ là người tuyên đọc cho cuộc
kết tập:
-
- Các vị Tỳ Kheo, xin hãy lắng nghe. Tôi tin rằng đã đúng lúc
chúng ta thỉnh trưởng lão A Nan về giáo pháp của niềm tin.
-
Ngài A Nan trả lời:
-
- Chư vị Tỳ Kheo, xin hãy lắng nghe. Tôi tin rằng đã đúng lúc
tôi trả lời những câu hỏi của trưởng lão Ma ha Ca Diếp về giáo
pháp của niềm tin.
-
Rồi trưởng lão Ma Ha Ca Diếp hỏi:
-
- Thưa đạo hữu A Nan, Ðức Phật đã thuyết bài giảng đầu tiên ở
nơi nào?
-
Ngài A Nan một lần nữa trả lời:
-
- Thưa đạo hữu Ma Ha Ca Diếp, chính tôi được nghe như thế, Ðức
Phật một lần ở tại Vườn Nai trong thành Ba La Nại (Benares)...
-
Khi Ngài A Nan tiếp tục nói lại về việc ở Vườn Nai, ngày nay
là Sarnas ở gần Benares, chúng ta được nghe kể lại rằng các vị
trưởng lão đều khóc và buồn bã nằm mọp xuống đất. Ðó đúng là
một cảnh tượng làm chúng ta bàng hoàng và cảm động. Niềm đau
buồn của họ thật là sâu thẳm đối với cái chết của Ðức Thích Ca
Mâu Ni, đến nỗi khi Ngài A Nan nói lại những lời của Kinh,
khuôn mặt cao nhã của Ðức Phật lại hiện ra trong tâm trí họ
như khi Ngài còn đang tại thế, lòng họ tràn dâng niềm cảm xúc.
-
Bản Kinh ghi lại rằng sau khi Ngài A Nan đọc xong bản Kinh,
các vị tham gia kết tập duyệt lại để quyết chắc là không còn
có một lầm lẫn nào, sau đó mọi người cùng hòa âm đọc, bằng
cách đó, mỗi vị khất sĩ sẽ ghi khắc bản Kinh trong tâm mình.
-
Cách đọc nhóm nầy rất quan trọng, bởi vì với cách đó, mỗi
người trong nhóm sẽ nhớ được những lời Kinh, và họ có thể
truyền lại cho người khác. Theo các nhà học giả, những bài kệ
khác nhau, và những phần văn vầncủa các Kinh đã được những vị
trong ban kết tập làm ra để dễ ghi nhớ những lời của Ðức Phật.
Lại nữa, vì thời bấy giờ chưa có giấy, những bản Kinh không
thể được ghi chép, nên sau mỗi lần dọc cần có sự kiểm tra kỹ
lưỡng của hội chúng. Khi được mọi người đều đồng ý, thì đoạn
kế tiếp mới bắt đầu. Với phương cách làm việc như vậy, đại hội
kết tập nầy có khi còn được gọi là: Ðọc Chung (Trùng Tuyên)
Lần Thứ Nhất, hay Kết Tập Thứ Nhất.
-
Ở đây, chúng ta cần ghi nhận rằng Ðạo Phật nhấn mạnh vào sự
cần thiết của sự đọc hay tụng Kinh điển bằng cả ba tác động
của: Thân, miệng và ý. Nói một cách khác, như đã được nêu ra ở
trước, điều quan trọng là không nên tìm đến Kinh điển như là
một hệ thống trí thức, như người Tây phương đã làm, nhưng là
khám phá ra làm thế nào một người có thể làm cho giáo pháp của
Ðức Phật trở thành một phần tử của con người mình và đem vào
thực hành.
-
Chúng ta có thể giả thiết rằng trong một nhóm người nghe những
lời dạy của Ðức Phật, như năm trăm vị khất sĩ trong kỳ đại hội
đầu tiên, có những mức độ khác nhau về tính cách mà mỗi cá
nhân khác nhau về những giáo pháp nầy. Có những vị có thể từ
trước giải thích một số giáo pháp của Ðức Phật một cách tùy
tiện theo ý riêng. Những vị khác, có thể, vì tính khí nội tâm,
hoàn toàn hiểu sai lạc ý trong những lời dạy của Ðức Thích Ca
Mâu Ni. Sự tụ tập của năm trăm vị sa môn, việc nghiên cứu thật
kỹ lưỡng từng điểm một trong giáo pháp của Ðức Thích Ca Mâu
Ni, và việc thiết lập một bản chung kết về những lời dạy của
Ðức Phật mà mọi thành viên trong đại hội đều đồng ý, và trong
vị lai sẽ là một tài sản chung cho toàn thể giáo hội, có một ý
nghĩa lớn lao trong lịch sử Ðạo Phật.
-
Sự hệ thống hóa đầu tiên về giáo lý nầy là với hy vọng thiết
lập được sự nhất trí về giáo pháp và quan điểm trong giáo hội
khi người sáng lập cũng là người lãnh đạo vừa qua đời. Trên
nền tảng những nguồn tài liệu hiện có, chúng ta có thể
phỏngđoán là mục đích lần kết tập đầu tiên là không cần tập
trung tất cả những giáo pháp khác nhau mà Ðức Thích Ca Mâu Ni
đã giảng dạy trong suốt đời Ngài, nhưng đặt ưu tiên vào những
giáo pháp quan trọng và thiết thực nhất cho sự tồn vong của
giáo hội. (Ðiểm nầy tôi xin sẽ trình bày thêm khi thảo luận về
sự thành lập Kinh điển Ðại Thừa Phật Giáo.)
-
Tôi đã đề cập ở trước về một giai thoại trong Kinh nói về một
người bạn Bà La Môn của Ngài A Nan hỏi Ngài rằng có một vị nào
xứng đáng để thay thế Ðức Phật hay không, và câu trả lời của
Ngài A Nan. Chúng ta thấy một giái thoại tương tự về Ngài A
Nan và vị Tể Tướng nước Ma Kiệt Ðà (Magadha). Thưa đại đức A
Nan, vị Tể tướng hỏi:
-
- Có vị nào đã được Phật đề cử thay thế Ngài lãnh đạo Tăng
chúng khi Ngài qua đời không?
-
- Không thưa Ngài, không có người nào.
-
- Vậy có người nào mà các vị trưởng lão công nhận và ủng hộ
coi như có thẩm quyền để chư Tăng nương tựa vào sau khi Phật
qua đời?
-
- Không, thưa Ngài, không có người nào.
-
- Vậy thưa đại đức A Nan, chư Tăng sẽ nương tựa vào đâu, và
làm thế nào dể họ giữ được sự hòa hài với giáo hội?
-
Ngài A Nan trả lời một cách quả quyết và đầy tin tưởng:
-
- Thưa Ngài, chúng tôi không phải là không có gì để nương tựa.
Thưa Ngài, chúng tôi có cái để nương tựa. Giáo pháp là cái để
chúng tôi nương tựa!
-
Từ đó, chúng ta thấy rằng hệ thống Kinh điển kết tập trong Kỳ
Kết Tập Lần Thứ Nhất được coi như nền tảng có thẩm quyền tuyệt
đối. Chư Tăng đề cập đến những giáo pháp nầy của Ðức Phật bằng
danh từ A HÀm (Agama), có nghĩa là những lời dạy thiêng liêng,
và trân quí những giáo pháp nầy, coi là chỗ nương tựa không
nghi vấn.
-
Những Kinh điển thiêng liêng đầu tiên nầy, được đề cập trong
văn học Phật Giáo như là hệ A Hàm, phần lớn chú trọng đến giới
luật. Một học giả đi quá cho rằng hệ A Hàm được kết tập để
dùng làm một cuốn luật cho tu viện Ðạo Phật.
-
Lý do tại sao những Kinh điển đầu tiên nầy cần mang tính chất
đó có thể được giải thích phần nào bằng những hoàn cảnh xung
quanh cuộc Kết Tập-cảm giác chung, như chúng ta thấy, là không
có một người nào thay thế được Ðức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài
qua đời để lãnh đạo một giáo hội mới, vì vậy cần phải nương
tựa vào những giáo pháp và giới luật được Ðức Phật truyền dạy.
Thêm vào đó, Kinh điển có thể phản ảnh tính khí của một số vị
Sa Môn tập hợp trong cuộc hội nghị, đặc biệt những vị như Ma
Ha Ca Diếp, và những trưởng lão khác cầm đầu đại hội kết tập.
-
Ngài Ma Ha Ca Diếp là một vị duy nhất trong mười đại đệ tử của
Phật được coi là đầu đà (dhuta-khổ hạnh) đệ nhất, có nghĩa là
Ngài rất nghiêm túc trong việc trì giữ những sự khổ hạnh do
Ðức Thích Ca Mâu Ni đề ra. Nhưng mặc dù Ngài trội vượt những
vị môn đồ khác về hành trì khổ hạnh, dường như Ngài không có
được tính cách quần chúng như hai Ngài Xá Lợi Phất(Shariputra)
và Mục Kiền Liên (Maudgalyanana) có được trong Tăng Ðoàn, và
tôi có cảm tưởng rằng Ngài có đôi chút thiếu sót trong sự thấu
hiểu những nguyên lý triết lý sâu xa hơn trogn giáo lý của Ðức
Thích Ca Mâu Ni. Khi các Ngài A Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
còn tại thế, có sự chấp thuận chungrằng hai Ngài có thể là
những người kế thừa Ðức Phật, nhưng sự việc xãy ra là cả hai
Ngài đều qua đời trước Phật. Ngài Ma Ha Ca Diếp chưa bao giờ
được coi như người có đủ khả năng thay thế Phật. Ngay cả Ngài
A Nan, như chúng ta đã thấy, cũng xác nhận rằng trong thực tế,
không có vị nào có đủ sự nổi bật để nhận lãnh trọng trách đó.
-
Nói thế không phải là phủ nhận việc Ngài Ma Ha Ca Diếp đã đóng
một vai trò quyết định và đáng tán thán trong việc triệu tập
và tiến hành cuộc đại hội lần thứ nhất. Thêm vào đó, sự việc
Ngài được chọn làm người chủ tọa cuộc đại hội nói lên sự đáng
ngờ vực trong những tiêu chuẩn chọn lựa người tham dự.
-
Một diển hình như Ngài Phú Lâu Na (Purn Punna), một đại đệ tử
khác của Phật, không có mặt trong kỳ Kết Tập nầy. Ngài được
coi là có khuynh hướng thực hành giáo pháp như Ngài đích thân
được nghe đạy từ Phật. Sự tuyên bố, mặc dù không trực tiếp bác
bỏ thẩm quyền của kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất, chứng tỏ rằng Ngài,
và có thể còn những vị khác như Ngài, đã có những dè dặt về
đường lối Ngài Ma Ha Ca Diếp và những thành viên trong đại hội
hệ thống hóa những lời dạy của Phật. Dĩ nhiên cũng còn có
nhiều đệ tử khác của Phật không thể đến tham dự đại hội Kết
Tập Lần Thứ Nhất, nhưng thực hành giáo pháp một cách độc lập ở
nhiều địa phương. Sau nầy chúng ta sẽ thảo luận về những Kinh
điển Ðại Thừa được thành hình trong những thế kỷ tiếp theo.
Những Kinh điển nầy đã được kết tập đại thành do những nhóm
nhỏ hơn không chọn lựa sự giới hạn của hệ thống Kinh điển được
đa số trong giáo đoàn thành lập kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất.
-
Ôn lại những sự việc xảy ra trong giai đoạn nầy, chúng ta có
thể thấy được điều bất hạnh trầm trọng cho giáo hội khi cả hai
Ngài Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên từ trần trước Phật. Chúng ta
được nghe thuật lại rằng chính Ðức Thích Ca Mâu Ni đã nói:
-
- Bởi vì cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều qua đời, cuộc tựu
tập nầy dường như trống vắng đối với Ta.
-
Nếu hai vị Sa Môn xuất chúng nầy có mặt trong kỳ Kết Tập Lần
Thứ Nhứt, chắc chắn hệ thống Kinh điển đầu tiên của Ðạo Phật
đã có những sự khác biệt. Có thể là một việc làm vô công rỗi
nghề khi đem phân tích, chúng ta cũng nên nhớ lại rằng, trong
những ngày cuối cùng của Ðức Phật, hai vị đại đệ tử nói trên
đều được cho phép thay Ngài giảng dạy Giáo Pháp, hai Ngài đều
rất thông thạo cả về lý thuyết lẫn sự thực hành của tôn giáo
mới thành lập nầy. Quả thật hai Ngài là hai cột trụ của Giáo
Ðoàn, và nếu hai Ngài còn sống để trở thành người lãng đạo sau
khi Ðức Phật ra đời. Ðạo Phật có lẽ đã phát triển trong một
chiều hướng khác hẳn.
-
Tuy là vậy, trong thật tế, về sự lớn mạnh của Ðạo Phật trong
lịch sử, hệ thống Kinh điển ấn định trong Kỳ Kết Tập Lần Thứ
Nhất được coi như trọng tâm của niềm tin, được đặc biệt kính
ngưỡng. Và mặc dầu hệ thống Kinh điển có thể có những bất toàn
và khiếm khuyết, xác định của những vị đã làm công việc kết
tập, để bảo đảm cho sự lưu truyền của Chánh Pháp, là tác nhân
dẫn đến sự khai sinh cho một sự thu tập lớn lao toàn bộ giáo
pháp Phật Giáo trong lúc bấy giờ.
-
Chúng ta được đọc và hiểu những giáo pháp từ trí tuệ của Phật
nơi các Kinh điển là nhờ việc làm và sự sắp đặt của những vị
môn đồ đầu tiên nhóm họp lại ngay sau khi Ðức Phật qua đời. Vì
lý do đó, chúng ta không có lời gì hơn là hướng về các Ngài
với lòng kính ngưỡng sâu xa. Sự quan tâm sâu sắc của các Ngài
Ma Ha Ca Diếp, Ngài A Nan, và những vị khác về sự duy trì và
lưu truyền Giáo Pháp là nguyên do để cho Ðạo Phật được sống
còn và được truyền bá trải qua hơn hai mươi thế kỷ cho đến
ngày nay.
-
Giáo Pháp Của Các Nhà Lãnh Ðạo Tôn Giáo Lớn
-
Những bậc vĩ nhân của loài người thường để lại sau họ những di
tích, những ghi chép về việc làm và lời dạy của họ. Một số
người trong họ, đặc biệt là những nhà chính trị, lo trước việc
ghi lại những hồi ký và tiểu sử của họ để nói về mình cho hậu
thế càng rõ ràng bao nhiều càng tốt. Nhưng bốn vĩ nhân lớn
nhất trong lịch sử nhân loại: Ðức Thích Ca Mâu Ni, Socrates,
Khổng Tử và Jesus, không để lại một tài liệu viết nào từ chính
tay họ. Trong trường hợp của các Ngài, những ghi lại về lời
dạy và việc làm của họ được biên soạn do những đệ tử, và những
ghi chép nầy được sử dụng như một nguồn cảm hứng vô tận trải
dài suốt hai ngàn năm lịch sử loài người.
-
Trong trường hợp của Socrates và Jesus, vì hai vị với một ý
nghĩa nào đó đã phải chịu một cái chết thảm, tiểu sử của hai
vị được bi thảm hóa do những đệ tử của họ. Và như các học giả
đã nêu ra, hình ảnh của Socrates đối diện với cái chết được
dựng lên do Plato trong Crito, Phaedo, và Apology, và sự liên
quan đến sự đóng đinh và phục sinh của Jesus như được ghi lại
trong Phúc Âm hàm chứa những yếu tố không ăn khớp với sự kiện
lịch sử.
-
Nếu đem so sánh, hình ảnh Ðức Thích Ca Mâu Ni trong Kinh điển
xưa của Ðạo Phật chuyên chở một ý nghĩa nổi bật về tính cách
hiện thực và con người. Tuy nhiên, trong cách Kinh điển Ðại
Thừa, hình ảnh Ðức Phật được trau chuốt và phủ lên một sự tô
điểm văn vẻ. Các học giả Tây Phương thấy khó hiểu về sự tô
điểm nầy, và có thể thích hình ảnh được diễn tả trong các Kinh
điển nguyên thủy hơn. Tuy nhiên, riêng tôi và hầu hết người
Phật Tử Ðông phương đều bị lôi cuốn mạnh bởi những hình ảnh
trong Ðại Thừa.
-
Những nhà Phật học Châu Âu cũng như Tây phương, phản ảnh cho
sự thực nghiệm và phương pháp phê bình uyên bác hiện đại Tây
phương trong những năm gần đây đã dồn nhiều nổ lực trong việc
khám phá những sự kiện lịch sử nằm bên dưới những sự việc có
tính cách truyền thống. Tôi xin tán dương những cố gắng nầy.
-
Tuy nhiên tôi cũng xin nêu ra đây một lời thận trọng và hạn
chế về phương pháp được một số nhà nghiên cứu hiện đại xử
dụng. Họ nhắm đến một số khảo cứu khách quan về sự kiện lịch
sử, họ dường như có khuynh hướng xử dụng những tiêu chuẩn và
quan điểm của người đương thời để lột trần những nhân cách
thật sự của những vĩ nhân trong lịch sử. Nếu những phương pháp
của họ thành công trong thực tế để xây dựng một bức tranh rõ
ràng hơn và chân thật hơn của bậc vĩ nhân, để người ngày nay
có thể đánh gía một cách sâu xa hơn và hiểu rõ hơn thì những
cố gắng của họ thật là tốt đẹp. Nhưng dường như trường hợp
trái ngược lại rất thường xảy ra. Các học giả thường có chủ
tâm bỏ quên những khía cạnh lớn lao và tập trung vào những
nhược điểm, như là họ đã xác định lôi kéo vấn đề xuống mức độ
con người bình thường. Tôi có cảm giác rằng bên sau thái độ
của họ là một thứ kiêu ngạo đối với quá khứ của người hiện
đại.
-
Niềm tin truyền thống về Ðức Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, và
Jesus, hoàn toàn chứa đựng một yếu tố giả tưởng. Những yếu tố
giả tưởng nầy, nếu có, là với mục đích làm sáng tỏ lý tưởng
trong nhân loại, và để tạo dũng lực và trí tuệ trong con
người, như họ có thể để đạt đến lý tưởng đó. Và thực tế, ngày
nay cả khi mọi yếu tố giả tưởng được sàng lọc một cách thận
trọng từ những tiểu sử của các bậc vĩ nhân nầy, chúng ta không
nghi ngờ rằng họ đã từng có mặt trong những khuôn mặt lớn lao
nhất xuất hiện trong lịch sử nhân loại trong ba ngàn năm qua.
-
Kinh điển Ðạo Phật, Kinh Thánh, ngay cả những đối thoại của
Plato, không nên được phán định theo cùng khuôn thước với
những tác phẩm văn học thông thường. Những tác phẩm nầy chứa
đựng những vấn đề chi tiết về sự minh triết đạt được qua sự cố
gắng đấu tranh lớn lao của những vị lãnh đạo tôn giáo của nhân
loại, và về những triết lý của cuộc sống sâu xa và truyền cảm
không cùng. Nếu những tác phẩm nầy hạn chế vào sự thuật lại
khô khan những sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc đời của
những con người mà lời dạy của họ được ghi lại, người ta nghi
ngờ không biết rằng chúng có được đọc một cách sâu rộng, và
liên tục qua bao nhiêu thế kỷ.
-
Trong những trường hợp Ðạo Phật, còn có thêm một điểm cần ghi
nhớ. Như các Kinh điển thường nhắc nhở chúng ta, những lời dạy
của Ðức Phật là có mục đích đem lại sự giải thoát cho tất cả
mọi chúng sanh. Những vị đệ tử đầu tiên, khi kết tập Kinh
điển, không chỉ đơn giản làm một việc là sắp lại thành một
nhắc nhở chung những lời dạy và việc làm của Ðức Thích Ca Mâu
Ni. Các Ngài đã nói và đã thực hành. Nếu họ không chính bản
thân vào được trong trạng thái tâm linh cao như Ðức Phật, họ
đã không thể hiểu được những lời dạy của Ngài, họ cũng không
thể truyền bá chúng cho hậu thế. Ðó là lý do tại sao chúng ta
gọi từng chữ từng lời trong các Kinh điển là những lời vàng
của Phật. Và khi chúng ta, là những người tin theo Ðạo Phật,
với những Kinh điển trong tay và tranh đấu với xã hội trong
thời đại chúng ta, chúng ta, cũng như những đệ tử đầu tiên của
Phật hai ngàn năm trước, cũng phải đi vào trạng thái tâm linh
như chính Ðức Phật. Chúng ta phải ban cho chính chúng ta công
việc đem ánh sáng đến cho những con người đang đắm mình trong
khổ đau và dạy cho họ sống đời sống chân thật .
|