-
Niềm Vui Miên Viễn
-
Nhất Quán
-
--o0o--
-
-
Nói đến Xuân thì mọi người ai cũng biết là Xuân
của mọi người, và Xuân thường đến với Tết, cho nên ai ai cũng
đón Tết lúc xuân sang. Ðón Tết ai ai cũng đón Tết, nhưng phong
vị Tết mỗi nơi có khác. Nếu ở thành thị thì đón Tết với sự xa
hoa xán lạn, với cảnh nhộn nhịp tưng bừng, trong khi đó ở các
làng quê, Tết đến thì người dân đón Tết một cách êm thấm nhẹ
nhàng hơn. Và Tết đến, tục lệ hằng năm cũng trở lại với con
người. Có Tết là có bánh chưng xanh, có dưa hành có câu đối
đỏ, có cành đào, có hoa cúc, có cây nêu...
-
Những hình ảnh Tết đó trong các làng miền Bắc,
Miền Trung, Miền
Nam tuy có khác nhưng đó chỉ là một phần nhỏ, nhưng hầu hết
đều giống nhau. Nói chung là người Việt Nam ở đâu thì cũng vẫn
những phong tục ấy, nhất là những phong tục liên quan về Xuân
và Tết, thì ngàn đời từ xưa đến nay, từ miền Bắc qua các Miền
Trung, Miền Nam không bao giờ thay đổi. Nghĩa là cứ mỗi độ
Xuân đến, mọi người vẫn sửa soạn hân hoan đón Tết cho xứng
đáng với vẻ tưng bừng của ngày Xuân mới, rồi giây phút linh
thiêng của một năm mới đến với lễ giao thừa.
-
Cũng vào dịp Xuân đến Tết tới, ngoài việc vui Xuân dù là con
Phật hay không phải con Phật, mọi người ai ai cũng nô nức về
Chùa để lễ Phật tụng kinh, chí tâm cầu nguyện chư Phật mười
phương gia hộ cho nhà cửa bình yên, gia đạo hạnh phúc, từ đầu
năm cho đến cuối năm. Ðồng thời chúng ta cũng gửi đến nhau
những lời cầu chúc một năm mới tốt đẹp, vạn sự như ý, an lạc
kiết tường. Trong nhà Phật, ngày mùng một Tết Nguyên Ðán đầu
năm cũng là ngày vía Ðức Bồ Tát Di Lặc. Theo tinh thần nầy
trong Phật Giáo thường khi nói đến Xuân thì nói cho đủ là Xuân
Di Lặc, và khi nói đến Tết thì gọi là Tết Hoan Hỷ.
-
Sở dĩ gọi là Xuân Di Lặc là vì theo kinh điển Phật Giáo cho
biết rằng, Bồ Tát Di Lặc hiện nay đang ở tại Ðâu Suất Nội
Viện, sẽ giáng trần và tu thành một vị Phật trong tương lai.
Còn nói Tết hoan hỷ, cũng theo kinh điển cho biết Ðức Phật Di
Lặc là người có tâm lượng bao dung, Ngài đã thành tựu Tâm Từ
Bi Tam Muội lúc Ngài còn tu hạnh Bồ Tát. Như vậy, lễ vía đức
Bồ Tát Di Lặc ngày đầu năm, đối với mọi người, mang ý nghĩa là
hy vọng được vạn sự kiết tường, vạn sự như ý, và trong năm
mới, luôn luôn may mắn vui vẻ. Còn đối với những người tu học,
ngày đầu Xuân, ngày vía Ðức Bồ Tát Di Lặc còn mang một ý nghĩa
trọng đại, đó là một sự nhắc nhở cho người con Phật luôn luôn
nhớ đến Tâm Hạnh Từ, Bi, Hỷ Xả, để tinh tấn, để trưởng dưỡng
tâm tánh của mình, để quyết tâm chuyển hóa tâm trí, từ một
phàm phu đầy dẫy những phiền não và khổ đau của ngày hôm nay,
trở thành sáng suốt, giác ngộ và giải thoát của một vị Phật
trong tương lai. Vì thế nhân dịp đầu xuân năm nay, chúng ta
hãy lắng lòng, dẹp qua một bên những niềm ưu tưưvềềnhững
chuyện thăng trầm của thế sự, cùng nhau tìm hiểu về Ðức Bồ Tát
Di Lặc và những hạnh nguyện của Ngài, để áp dụng ngay trong
cuộc sống, nhằm mục đích tạo sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc
đời hiện tại một cách trọn vẹn và thiết thực.
-
Như chúng ta đã biết, hình ảnh của Ðức Di Lặc được thờ trong
các chùa, trông rất khỏe mạnh, mập mạp, và gương mặt luôn luôn
tươi cười một cách hoan hỷ. Ðặc biệt, chúng ta thấy có sáu đứa
bé bám trên thân của Ngài. Ðứa thì móc mắt, đứa móc mũi, đứa
móc miệng, đứa chọc lỗ tai, đứa moi rún, nhưng Ngài vẫn tươi
cười, như không có chuyện gì làm cho Ngài phải phiền hà bực
dọc. Ðiều nầy đã cho chúng ta biết Ngài đã thành tựu tâm từ bi
và hạnh hoan hỷ. Bây giờ đây chúng ta tìm hiểu về sáu đứa bé
là ai mà cứ luôn quấy rối Ngài, nhưng Ngài vẫn sống cuộc đời
an nhiên tự tại:
-
I- Hình Ảnh Sáu Ðứa Bé
-
Sáu đứa bé mà chúng tôi vừa đề cập với quý vị, nói theo quan
điểm của Duy Thức thì sáu đứa bé nầy tiêu biểu cho sáu căn,
nhưng rất tiếc các nhà tạo tượng chỉ tạo cho chúng ta thấy có
năm đứa bé mà thôi. Năm đứa bé mà chúng ta thấy đó chính là
tiêu biêu cho năm căn:
-
- Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, và Thân.
-
Còn chú bé mà các nhà tạo tượng làm ẩn mất ở phía sau lưng nên
chúng ta không thấy, đó chính là tiêu biểu cho Ý Căn. Lý do Ý
Căn được tạc ở sau lưng bức tượng là vì Ý Căn thường chúng ta
không bao giờ thấy, nhưng nó lại hiện hữu và luôn luôn chi
phối tất cả các hoạt đông. Hình ảnh của sáu đứa bé bám víu
quấy phá đức Di Lặc, được tiêu biểu sáu căn, chính là bài học
tích cực, giúp chúng ta xây dựng được một cuộc sống an lạc và
hạnh phúc cho chính chúng ta và cho những người chung quanh,
ngay trong hiện tại, ngay trong cuộc sống đầy phiền não, và
khổổđau này. Sáu đứa bé bám vào thân của Ðức Di Lặc các nhà
Duy Thức Học cũng gọi là lụcụtặc, tức là sáu tên giặc chuyên
gây phiền não, gây rắc rối, gây bực dọc cho chúng ta trong
cuộc sống hằng ngày. Do đó chúng ta cần nhận diện rõ ràng sáu
tên giặc đó, thì chúng ta mới có thể điều phục được chúng, và
mới có thể xây dựng một cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho
chính chúng ta và những người chung quanh một cách tích cực
hơn. Sáu tên giặc không ai xa lạ, như có lần chúng tôi đã nói,
đó chính là sáu căn của chúng ta.
-
Nếu xét về bản thân thì chúng ta nói về sáu căn, tức là sáu
giác quan của chúng ta:
-
- Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý.
-
Với hai con mắt, chúng ta trông thấy những hình ảnh nào cũng
dễễthương, cũng hạp nhãn. Khi thấy những hình ảnh dễễthương,
hạp nhãn thì chúng ta lại sanh tâm đắm nhiễm, nhớ nhung, tham
luyến, rồi từ sự nhớ nhung, tham luyến nên muốn chiếm đoạt làm
của riêng cho mình. Còn nếu trông thấy những hình ảnh khó ưa,
xấu xí, thấy phát ghét, thì sanh tâm khó chịu, bất an. Với hai
cái tai, khi chúng ta nghe những tiếng êm dịu, tâng bốc, thì
sanh tâm đắm nhiễm, ưa thích; còn nếu nghe những lời chỉ trích
khó nghe, chạm đến tự ái, chạm đến bản ngã to lớn của mình,
thì không kham nhẫn, nên sanh tâm sân hận, oán ghét. Với cái
mũi, chúng ta chỉ thích những mùi hương thơm tho, dễ chịu và
ghét những mùi khó chịu, những mùi lạ không vừa ý, nên sanh
tâm bực dọc, bất an. Với cái lưỡi, chúng ta chỉ thích những
món ăn ngon khoái khẩu, hạp vị, vì vậy mà chúng ta không nghĩ
đến sự đau khổ của các chúng sanh bị giết hại; còn nếu không
được ngon miệng, thì sanh tâm bực bội, gắt gỏng. Với cái thân
tứ đại giảảtạm này, thì thích ăn mặc se sua, thích nhà cao cửa
lớn, giường êm nệm ấm. Ngay cả đôi khi vì mê lầm, nên chúng ta
thường chấp thân giả tạm là thực sự của chính mình, cho nên
khi những xúc chạm không được như ý, thì sanh tâm cau có, quạu
quọ, tức tối. Quan trọng hơn cảảvới cái tâm ý lăng xăng lộn
xộn, không một giây phút ngừngừnghỉ, chúng ta luôn luôn suy
tư, nghĩ tưởng mông lung không định hướng, tính toán những
điều gì có lợi cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho tổ
chức mình, luôn luôn khen mình khinh người.
-
Nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, khi sáu căn của chúng ta
tiếp xúc với sáu trần, nên tâm niệm khởi lên thế này thế nọ,
trong kinh sách gọi là sáu thức, tức là phiền não bất an dấy
lên vậy. Trong trường hợp như vậy, sáu căn của chúng ta chính
là sáu tên giặc, đã, đang và sẽẽdẫn dắt chúng ta vào sanh tử
luân hồi, không phải chỉ trong đời nầy, mà có khả năng hứa hẹn
nhiều đời nhiều kiếp khác nữa. Nói cách khác, sáu căn của
chúng ta chính là cội gốc của sinh tử luân hồi như trong sám
nguyện có đoạn:
-
- Ðệ tử hôm nay quỳ trước điện
-
Chí tâm đảnh lễ Ðức Từ Tôn
-
Ðã bao phen sanh tử dập dồn
-
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo
-
Thế Tôn đã đinh ninh dạy bảo
-
Mà con còm đắm đuối say mê:
-
Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày
-
Ta thích tiếng mật đường dua nịnh
-
Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
-
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
-
Thân ham dùng gấm vóc xe xua
-
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ
-
Bởi lục dục lòng tham không đủ
-
Lấp che lần trí tuệ từ lâu...
-
Sáu căn chính thực là nguyên nhân gây nên đau khổ phiền muộn,
nhưng nếu chúng ta biết tu tập và chuyển sáu anh giặc nầy
thành sáu cái trí để dùng nó làm tư lương tu tập như các nhà
Duy Thức Học từng dạy, thì chúng ta là người giác ngộ. Khi đó:
-
- Năm căn đầu là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân nếu biết tu tập,
chuyển hóa thì sẽ trở thành Thành Sở Tác Trí.
-
- Thức thứ sáu là Ý Căn sẽ chuyển thành Diệu Quán Sát Trí
-
- Thức thứ bảy là Mạc Na Thức sẽ trở thành Bình Ðẳng Tánh Trí
-
- Thức thứ tám là A Lại Da thức sẽ trở thành Ðại Viên Cảnh Trí
-
Cho nên chính vì vậy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có
dạy:
-
- Sáu căn chính là cội gốc của sanh tử luân hồi và sáu căn
cũng chính là cội gốc của giải thoát niết bàn
-
Bởi vì, nếu sáu căn của chúng ta, tức là sáu giác
quan, khi tiếp xúc với sáu trần cảnh bên ngoài đó là:
-
- Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp,
-
Mà không đắm nhiểm, không dính mắc, không sanh sáu thức, thì
chúng ta không bị phiền não. Một khi trong lòng chúng ta không
tham, không sân, không si, thì dù chúng ta vẫn thường xuyên
tiếp xúc với mọi người, mọi cảnh trong cuộc đời. Nghĩa là: Mắt
trông thấy hình sắc thì biết rõ ràng người này ra sao, món này
như thế nào, nhưng không khởi niệm thương hay ghét, ưa hay
không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì biết rõ ràng là tán thán hay
phê phán, nhưng không khởi niệm khoái chí hay bực bội. Mũi
ngửi thấy mùi thì biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng không
khởi niệm thích hay không thích. Lưỡi nếm vị thì biết rõ ràng
là vị gì, nhưng không khởi niệm khen ngon hay chê dỡ. Thân xúc
chạm thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi niệm dễ
chịu hay khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì biết rõ ràng là đúng hay
sai, phải hay quấy, nhưng không khởi niệm kỳ thị, đố kỵ, so
sánh, hơn thua, tranh chấp. Nghĩa là hằng ngày, nếu chúng ta
sống trong cõi đời này, sáu giác quan của chúng ta tiếp xúc
với sáu đối tượng ở trong đời, mà không sanh tâm dính mắc,
không sanh tâm loạn động vì tham sân si, thì chúng ta sẽ được
tự tại, giải thoát ngay trong hiện đời nầy. Mắt trông thấy
sắc, tai nghe thấy tiếng, mũi ngửi biết mùi, lưỡi nếm biết vị,
nhưng đừng khởi niệm thương hay ghét, thích hay không thích,
nếu như có khởi niệm rồi thì đừng theo. Nghĩa là tâm chúng ta
biết đó là vọng đừng tham luyến thì chúng ta cũng sẽ không có
phiền não, sân hận hay bực dọc nữa. Giữữgìn được như vậy tức
là chúng ta được giải thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong
cảnh giới Niết Bàn an lạc vậy.
-
Còn như sáu đứa bé luôn luôn chọc phá Ðức Di Lặc, mà Ngài vẫn
tươi cười hoan hỷ như không có chuyện gì xảy ra. Nghĩa là: Sáu
căn của Ngài vẫn thường tiếp xúc với lục trần, nhưng tâm của
Ngài không sanh ra sáu thức, vì thế mà Ngài sống rất an nhiên,
tự tại. Ðó là cảnh giới của những người vô tâm, tức là những
người không có tâm niệm lăng xăng lộn xộn, cho nên không có
phiền não và khổ đau. Ðối với con người phàm phu như chúng ta,
một khi đạt được trạng thái nầy đó là cảnh giới niết bàn ở
ngay trong tâm trí của chúng ta hiện đời, chứ không phải đợi
sau khi chết mới tiêu diêu nơi miền cực lạc, hay lên trên
thiên đàng đâu đâu không tưởng.
-
II- Tâm Hạnh Hoan Hỷ
-
Trong giáo lý Phật Giáo, Ðức Bồ Tát Di Lặc được coi là đại
biểu cho lòng hỷ xã, bao dung, làm chỗ dựa cho tất cả chúng
sanh. Mặc dầu chúng ta chưa có dịp diện kiến với Ngài, nhưng
trong đường tu học chắc chắn chúng ta nghe chư tôn đức nhắc
nhở rất nhiều, cũng vậy mặc dầu chưa có lần gặp mặt, chỉ nghe
tên thôi, nhưng mỗi lần nghe như vậy cũng làm cho chúng ta có
một suy tư về cuộc đời và đức tánh bao dung của Ngài, vì thế
khiến cho người nghe tên Ngài, ai cũng cảm nhận sự ấm cúng và
tình thương chân thật. Ngài là tấm gương để cho chúng ta học
cách đối xử với chúng sanh. Tuy đức tướng của Ngài Di Lặc đầy
đủ ba mươi hai tướng như Phật, nhưng thông thường chúng ta
thấy Ngài dưới dáng hình của Bố Ðại Hoà Thượng, một vị tăng có
cái bụng no tròn, tay nắm quạt, tay xách bị, dạo đi khắp nơi.
Theo sự lý giải của chư tôn đức cho rằng bụng tròn của Ngài là
tiêu biểu cho lòng bao dung, hiền từ. Bụng lớn là ý muốn nói
tâm lượng rộng lớn, có thể chịu đựng, tha thứ những việc mà
thiên hạ khó chịu đựng, khó tha thứ. Miệng rộng hay cười, là
cười những việc đáng cười của thế nhân. Như vậy chúng ta học
gương tốt của Ngài chính là chúng ta học cái tấm lòng bao
dung, từ hòa, vô lượng của Ngài, đó là phương pháp rèn luyện
tâm, chuyển hóa tâm của chúng ta, từ vô minh trở thành giác
ngộ, từ tà vạy trở thành chân chính, từ phiền não và khổ đau
trở thành an lạc và hạnh phúc. Ðây là tinh thần tích cực của
Ðạo Phật được áp dụng ngay trong thực tế của cuộc đời, trong
mọi hoàn cảnh, giúp những người thiện tâm được sống bình an,
không vướng mắc vào những tham, sân phiền muộn ngay tại thế
gian này
-
Chúng ta vẫn thấy, vẫn biết tất cả các cảnh trên đời, nếu tâm
của chúng ta không lưu luyến dính mắc thì không phiền não.
Không phiền não tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản,
nhưng thực tế, bất cứ ai cũng có thể làm được, nghĩa là không
phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ,
học thức, nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn. Ðể
thực hiện và có thể đạt được cái chỗ không dính, không mắc, vô
tâm, vô niệm, thì chúng ta cần phải có phương pháp tu để ứng
dụng, để thực hành. Ðiều đầu tiên, chúng ta hãy ghi nhận lời
Ðức Phật dạy:
-
- Ðời là bể khổ
-
Vì đời là bể khổ, do vậy chúng ta phải can đảm nhận thấy rõ
cuộc sống của chúng ta là vui ít khổ nhiều, nhưng không vì vậy
mà bi quan yếm thế, và cũng đừng sống trong phiền não, khổ đau
bi lụy. Muốn được như vậy, chúng ta phải đảnh lễ Ngài với tất
cả lòng thành kính, và nhất tâm học theo hạnh nguyện của Ngài,
được như vậy thì dù chúng ta đang ở trong bất cứ cảnh ngộ nào,
tâm trí cũng được thảnh thơi an lạc. Như có lần chúng tôi đã
nói, sở dĩ Ðức Di Lặc có được tâm hồn hoan hỷ bao dung, là vì
Ngài đã thành tựu bốn hạnh từ, bi, hỷ, xã, tức là bốn tâm địa
rộng lớn thênh thang, không thể nghĩ bàn. Với tâm từ, Ngài
luôn luôn mang niềm vui đến với mọi người, bất cứ lúc nào,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, màu da chủng tộc... Với
tâm bi, Ngài luôn luôn cứu giúp những người đau khổ, những
người bất hạnh, thương người như thương chính mình.
-
Nếu chúng ta đã quyết tâm học theo hạnh Ngài, để thực hiện tâm
hạnh từ bi, thì chúng ta phải tập biết thương yêu và thông
cảm với tất cả mọi người, dù kẻ đó đang gây phiền não cho
mình, đồng thời chúng ta sẽ giảm bớt lòng tham và lòng sân.
Ðối với những người sống chung quanh, nhưưcha mẹ, vợ chồng,
con cái, bạn bè, đồng nghiệp, đồng hương, đồng đạo, đồng bào,
chúng ta cũng phải tập nhịn, cho dù một câu nói chạm đến tự
ái, hay một hành động xúc phạm đến danh dự của chúng ta, cho
dù câu nói hay hành động đó vô tình hay cố ý! Trong khi thực
tập, chúng ta phải hết lòng trang trải tiình thương yêu của
chúng ta đến với người chưa quen, hay với những người xa gần,
Nghĩa là chúng ta phải tận tâm trang trải lòng mình đến những
người ở gần chung quanh, hay người phương xa. Ðặc biệt mỗi khi
họ nói lời nào mích lòng, hay làm điều gì trái ý, chúng ta
phải tự nhủ rằng chúng ta đang tập tâm hạnh từ bi để tha thứ
cho họ. Ngoài ra chúng ta còn phải ý thức rằng chúng ta đang
thực tập trang trải lòng từ bi đến cho mọi người như thế nào,
thì chúng ta cũng phải trang trải tình thương đến với những
người thân sống ở trong nhà hoặc chung quanh chúng ta cũng như
thế đó. Ðối với những con vật nhỏ nhít như ruồi, muỗi, côn
trùng, chúng ta còn không nỡ giết hại chúng, thì huống chi là
những loài vật lớn hơn như gà, vịt, heo, bò, thì làm sao chúng
ta có thể giết hại được
-
Như trên, chúng ta học về Hạnh Từ và Hạnh Bi, bây giờ chúng ta
bàn về Hỷ và tâm Xả. Với tâm hỷ, Ngài luôn luôn vui vẻ, hoan
hỷ với những việc lành, những hạnh phúc, những thành tựu của
tất cả mọi người xung quanh, không có tâm ganh ghét, đố kỵ.
Với tâm xả, Ngài không bao giờ chất chứa trong lòng, trong kho
tàng tâm thức, bất cứ điều phiền muộn nào, dù nhỏ đến đâu.
Trái lại, Ngài luôn luôn tha thứ cho bất cứ ai gây phiền muộn,
rắc rối cho Ngài.
-
Từ ngữ Hỷ và Xả là hai trong Bốn Vô Lượng Tâm. Hỷ Xã là hai từ
ngữ ghép lại, nếu hiểu từng chữ một thì từ ngữ Hỷ có nghĩa là
vui đẹp. theo Kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo dạy rằng:
-
- Vì Hỷ trang nghiêm, thấy người tu thiện, tâm không ganh
ghét.
-
Cho nên người thực hành hạnh Bồ Tát, thì phải luôn luôn giữ
tâm hoan hỷ để làm hành trang trong việc siêng năng tìm cầu
chánh pháp. Có được Tâm Hỷ thì công cuộc tu học sẽ luôn luôn
thăng tiến mà không bao giờ nhàm chán.
-
Nếu chúng ta phát tâm tùy hỷ, một trong tứ vô lượng tâm, vui
theo với việc thiện của người khác, thì chúng ta giảm được tâm
đố kỵ, tâm ganh tỵ, và tâm từ bi của chúng ta cũng theo đó mà
tăng trưởng, cho đến khi đủ duyên, chúng ta cũng sẽ làm việc
thiện đó giống như vậy. Còn đối với tâm xả, đó là chỗỗhết sức
cao siêu của người tu hành giải thoát. Muốn được giải thoát,
muốn được tự tại, nhẹ nhàng bước ra khỏi vòng trầm luân, sanh
tử luân hồi, nhứt định chúng ta phải tu hạnh xả. Nếu sáu căn
của chúng ta tiếp xúc với lục trần, không dính đừng mắc, cái
gì cũng xả, cái gì cũng bỏ qua hết thì chúng ta sẽ không còn
gì đem vào chứa trong kho tàng tâm thức của chúng ta hết. Lúc
đó, chúng ta sống trong tự tại nhẹ nhàng, thảnh thơi, không lo
âu, phiền muộn, không ưu tư, lo lắng, không phập phồng, lo sợ.
Muốn cho cuộc sống của chúng ta không lo âu phiền muộn, không
ưu tư, lo lắng, không phập phồng, lo sợ, thì trước tiên chúng
ta phải thực tập:
-
- Tâm Hỷ:
-
Là cái tâm hoan hỷ đối với chính chúng ta. Chính chúng ta phải
thường giữ tâm vui vẻ, từ trong việc tu tập, đi nghe chánh
pháp, hay làm tất cả các việc thiện nào cũng thế, tâm không
bao giờ thối chuyển, không biết mỏi mệt. Ðối với mọi người,
khi thấy người làm được việc lành, thì chúng ta phải khởi niềm
vui cũng như chính chúng ta đang làm lành. Thấy ai xa tránh
được cảnh khổ, sống đời an vui thì chúng ta cũng phải sanh tâm
vui mừng. Nghĩa là thấy người xa lìa điều ác, làm những việc
công đức lành, thì nên tùy hỷ khen ngợi. Thấy lỗi người, không
sanh tâm ganh ghét, riêng về bản thân, luôn luôn đề cao, cảnh
giác để đối trị với tâm tật đố của chính mình thì gọi đó là Hỷ
Tâm. Kế đến là:
-
- Tâm Xả:
-
Từ ngữ Xả có nghĩa là quên đi, tha thứ lỗi lầm cho người nào
đó. Theo Phật Ðịa Kinh Luận thì nói rằng:
-
- Xả là bình đẳng .
-
Vì vậy đối với người tu Bồ Tát đạo phải học hỏi, thực hành
hạnh tha thứ để trang nghiêm tự thân, trang bị hạnh tha thứ
cho tự thân, chúng ta sẽ cảm thấy bình thản trước mọi cảnh
đời, ai thương cũng tốt mà ai ghét cũng xong, nhưng lòng của
chúng ta sẽ không có thương ghét. Bởi vì đối với kẻ oán, người
thân, tâm của chúng ta không còn có sự phân biệt, ngay cả đến
chúng ta nghe việc lành, việc dữ cũng không còn sanh tâm chấp
trước. Ðối với những người có ơn và những người không ơn đều
phải phương tiện bình đẳng đối đãi như nhau.
-
Như vậy khi một người có tâm xả, tất nhiên là đã
có được tâm bình đẳng, không còn tâm chấp trước, cho nên đối
với thuận cảnh thì không có tâm ưa thích, nhưng đối với nghịch
cảnh tâm cũng không than oán. Ðối với người oán cũng không
sanh tâm trả thù, và đối với người thân cũng không nên sanh
tâm ái trước, không còn tâm phân biệt giữa mình và chúng sanh.
-
Tóm lại đối với tất cả mọi người thì chúng ta có thể phương
tiện bình đẳng đối đãi với nhau cho đời thêm vui tươi. Ðối với
tự thân, chúng ta phải quân bình giữ gìn giữa tình cảm và lý
trí, không để ngoại cảnh làm lay động, tâm bình đẳng không
theo cảnh mà chuyển. Ðược như thế thì chúng ta đã thực hành
được tâm xã.
-
Trong cuộc sống hiện thực, nhìn chung chúng ta
thấy mọi người ai cũng có những hoàn cảnh riêng, ai cũng có
những nổi bức rức đau khổ của hoàn cảnh đó. Tiêu biểu những
người tội nghiệp nặng nề vì đã từng phạm phải một vài hoàn
cảnh như:
-
- Giết người
-
- Trộm cắp
-
- Loạn luân
-
Còn nhiều trường hợp khác nữa, những người như thế đó thì
trong lòng của họ sẽ sống cuộc sống bất an, ray rức. Những
người nầy họ cần chúng ta đem tấm lòng tha thứ bao dung ban bố
cho họ. Ðược sự tha thứ bao dung của chúng ta, sẽ làm cho tâm
họ hết đau khổ, được an lạc.
-
Muốn thực tập tâm hạnh nầy chúng ta cũng phải thực tập về quan
niệm, và cái nhìn của chúng ta. Nếu có lúc chúng ta thấy
thuyền bè, xe cộ là những phương tiện chuyên chở người từ nơi
nầy sang nơi khác, thì chúng ta cũng phải thấy rằng một lời
nói hiền từ, một lời an ủi, một cái xoa đầu, một cái vỗ vai,
một hành động chân thành giúp đỡ, một cái nhìn quan tâm, một
công việc vị tha... Nói tóm lại bất kỳ hành động nào cũng có
thể đưa người ta từ trạng thái mê muội đau khổ, phiền não, sợ
hãi đến chỗ tâm thần giải toả những u ẩn trong đời và được an
ổn tự tại. Trong tinh thần tu học, cách nầy là cách mau nhất
và hữu hiệu nhất để chính chúng ta hết phiền não và cũng là
giúp và tạo điều kiện để những người chung quanh và người thân
của chúng ta bớt hoặc hết phiền não.
-
Nguyên nhân để tạo cho chúng ta có những tâm tình
khó chịu, buồn phiền là vì hầu hết một khi chúng ta nghĩ điều
gì, nói điều gì thì cái tôi của chúng ta lúc nào cũng có mặt.
Cái ông chủ nầy sẽ không bao giờ biến mất, trừ khi chúng ta
biết tu, và đạt tới trình độ không còn có sự phân biệt tốt
xấu, hay dở giữa ta và người... Do đó lúc mới bắt đầu tu chúng
ta phải tập suy nghĩ và hành động làm sao để đạt đến chỗ vô
ngã. Ở điểm nầy ngoài cách quán sát đến cách hành xử của Ðức
Di Lặc và đức tánh Hỷ Xả trong lúc thực tập thiền định, còn có
một cách nữa có thể giúp chúng ta. Ðối với chúng ta, những kẻ
phàm phu sơ cơ, chúng ta phải bắt đầu thay đổi cách nhìn. Cái
nhìn nầy cũng có thể là thay đổi:
-
- Quan điểm của mình
-
Trong quan điểm đó bao gồm cả quan điểm chính trị, quan điểm
xử thế...
-
- Cặp kính mầu của mình
-
Với cặp kính mầu nầy chúng ta dễ nhìn đời, nhìn người theo mầu
sắc của cặp kính mà chúng ta đang đeo. Cứ như thế theo mầu sắc
đó mà chúng ta định nghĩa mọi sự, mọi vật trên cuộc đời.
-
Cổ nhân có dạy:
-
- Trước khi nói chúng ta phải uốn lưỡi bảy lần.
-
Nhưng đối với người đang tập tu chúng ta muốn loại bỏ những sự
sai lầm khi phán đoán một điều gì của một người nào đó thì
chúng ta phải tập một thói quen:
-
- Nên nghĩ đến người khác trước.
-
Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ, chư hiền thánh tăng
thường khuyên chúng ta mỗi ngày nên làm ít nhất là một việc
lành, những hành động nho nhỏ khi cần giúp mà chúng ta làm
được thì quý giá và thực tế vô cùng chẳng hạn như:
-
- Pha dùm ly nước,
-
- Rửa dùm chén bát,
-
- Cất đồ đạc,
-
- Quét dùm nhà
-
- Ðổ rác ....
-
Nếu được hãy cố gắng giúp những người thân, những người chung
quanh chúng ta, những người sống gần gũi hàng ngày với chúng
ta, trước khi làm một việc gì đó to lớn hơn. Việc làm từ
thiện, công quả, việc đoàn thể, tuy là những việc làm lớn có
lợi ích cho nhân quần xã hội, chúng ta nên tập làm người hữu
ích, hữu dụng đối với người nhà, kẻ thân thuộc. Ðừng chờ những
chuyện gì lớn mình mới giúp họ.
-
Ðiều nầy mới nghe qua dường như là trái ngược với tinh thần
lợi tha, bình đẳng giữa người thân và người không thân. tuy
nhiên nếu cứ lo việc từ thiện mà quên đi những người thân của
mình như ông bà, cha mẹ, anh em là những người đang cần được
sự giúp đỡ thì đó là hiện tượng chúng ta chạy theo cái danh
vọng hão huyền.
-
Như vậy sống trong cõi đời trần tục nhiễm ô, nếu
ai cố ôm chặt lòng thù hận chấp trước thì không sao tránh khỏi
cảnh lầm than đau khổ. Muốn thoát được cảnh khổ vui, thì chúng
ta phải gỡ bỏ những mối giây oán hận, tẩy sạch những vết nhơ ô
nhiểm trong lòng, cho chúng ta được nhẹ nhàng trong sạch.
Phương pháp tháo gỡ và tẩy trừ đó là thực tập cung cách hành
xử của Ðức Di Lặc và Tâm Hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả của Ngài.
-
Có thực hành theo cung cách hành xử của Ðức Di Lặc
và Tâm Hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả của Ngài, thì chúng ta mới vui vẻ
tha thứ những lỗi lầm mà người khác đã phạm đến ta, cũng như
vui vẻ bỏ lại sau lưng tất cả những tiền tài, danh vọng, tài
sắc cho đến thân mạng của chúng ta nếu thấy cần, để làm lợi
ích cho chúng sanh. Có tha thứ, lòng chúng ta mới thênh thang,
tim ta mới nhịp nhàng cùng với tim mọi người, có xả bỏ, tâm ta
mới thanh thoát an tịnh.
-
Cuộc đời đen tối, và sầu khổ nhất là cuộc đời của
người hay cau có, oán thù. Vì những ai hay cau có thì trên
guơng mặt người đó luôn luôn hiện đầy những nét nhăn, đôi mi
chau lại có vẻ khó khăn. Những người còn nặng khối hận thù thì
lửa hận thiêu đốt cả tim gan và buồng phổi của họ. Còn gì khổ
đau hơn khi tim gan bị thiêu đốt. Còn gì xấu xí bằng khi gương
mặt nhăn nhó héo sầu. Sống trên đời nầy, nếu chúng ta gặp điều
trái ý thì lại mang lòng thù hận và oán hờn. Như chúng ta dùng
lời mắng người nào đó, và họ cố trả thù lại, thì ngươi bị mắng
kia phải dùng lời khó chịu hơn để trả đũa. Ban đầu còn trả thù
bằng miệng, kế trả thù bằng tay chân, và sau cùng phải trả thù
nhau bằng dao búa. Khi sơ khởi chỉ thù riêng cá nhân, rồi lan
dần đến thù chung của gia đình, của thân tộc. Cứ thế oán thù
chồng chất mãi biết bao giờ mới dứt. Ðức Phật dạy:
-
- Lấy oán trả oán, oán mãi chất chồng
-
Lấy ân trả oán, oán liền tiêu diệt
-
Những người trong lòng cứ mãi ôm ấp hận thù, thì
lúc nào cũng tưởng chừng như tất cả những người đang sống
chung quanh đều là những kẻ thù muốn hại mình, vì vậy họ sống
những ngày đầy lo sợ. Chỉ có những ai biết lấy ân trả oán mới
mong dứt sạch thù hận. Như chuyện Quan Huyện một tỉnh nhỏ ở
biên giới giữa hai nước Lương và nước Sở trong thời Chiến
Quốc. Vị quan huyện nầy trả thù người cào dưa của mình bằng
cách ra công tưới dưa cho người, nhờ đó mà hận thù dứt sạch.
Câu chuyện như sau:
-
Vào thời Chiến Quốc, Lương và Sở là hai nước láng
giềng ở cạnh nhau, một vùng biên giới của hai nước, dân chúng
đều trồng dưa. Dân nước Lương siêng năng chăm sóc tưới tẩm,
nên dưa tốt. Trái lại dân nước Sở lười biếng nên dưa xấu. Dân
Sở thấy vậy, sanh lòng đố kỵ, mỗi đêm lén chạy qua nước láng
giềng cào dưa của người. Dân Lương thấy dưa của mình mỗi ngày
chết một ít, lấy làm lạ, theo dõi và phát giác ra nguyên nhân,
bèn dự định sẽ lén qua rẫy của dân Sở cào dưa để trả thù.
-
Quan Huyện nước Lương là Tống Tựu, biết được ý đồ
ấy, bèn ngăn lại và dạy dân mình rằng:
-
- Thay vì đi cào dưa mỗi đêm, ta hãy lén sang bên
ấy tưới dưa cho người có phải tốt không?
-
Dân Lương bèn y lời. Nhờ đó mà rẫy dưa của dân Sở
ngày một xanh tốt. Dân Sở ngạc nhiên, theo dõi và biết được
nguyên do, lấy làm hổ thẹn.
-
Chuyện đến tai quan huyện, rồi Vua Sở. nhà vua bèn
sai người mang lễ vật sang tạ tội vua Lương và kết tình giao
hữu.
-
Lòng đố kỵ, ganh ghét là một trong những tật xấu
của con người ở trần gian nầy. Chúng ta ganh ghét khi chúng ta
thèm thuồng, ước mơ những gì mà người khác có được còn chúng
ta thì mất, người khác có và chúng ta thì không. Chúng ta ganh
ghét vì mê mờ không rõ lý nhân quả... như những người nước Sở.
Ðâu phải khi không mà dưa người ta tốt hơn dưa của mình? Người
ta siêng mình lười biếng... Vậy mà khi thấy kết quả tốt đẹp
của người ta, mình lại vác cào sang phá hoại kết quả ấy thì
thật là thô lỗ và trẻ con.
-
Cũng thế, đâu phải đương không người ta đẹp đẽ, mà
chúng ta xấu xí, người giàu sang thông minh còn chúng ta nghèo
hèn ngu tối? Khi đã thấu rõ lý Nhân Quả thì không còn ganh
ghét và tật đố nữa.
-
Thời Chiến Quốc, Phật Giáo chưa phổ cập đến Trung
Hoa nhưng Tống Tựu đã có một cách xử lý nội vụ rất tài tình.
Lấy đức báo oán và dạy mọi người Lý Nhân Quả bằng tấm lòng bao
dung, là tâm hạnh hỷ xả, là hành động thiết thực nhất:
-
- Tưới dưa cho người
-
Ðể dưa của mình và người đều được sai quả, nhờ đó mà hai nuớc
tránh khỏi những sự hiềm khích đổ vỡ, có thể đưa đến chiến
tranh. Còn gì vui sướng hơn khi chúng ta có tâm lượng bao dung
sẳn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người. Do vậy, khi chúng ta
thấy một người làm việc phước thiện, như cúng chùa hay tặng
hội từ thiện một số tịnh tài chẳng hạn, nếu chúng ta phát tâm
tùy hỷ, nghĩa là vui theo với việc thiện người khác làm được,
thì chúng ta cũng được phước báu như người đó. Bởi vì, trong
kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
-
- Khi có người mồi ngọn đuốc được sáng rồi, nếu người khác đến
mồi từ ngọn đuốc đó, thì ngọn đuốc sau cũng sáng như vậy,
trong khi ngọn đuốc trước không giảm sáng chút nào.
-
Cho nên chúng ta biết chắc chắn rằng, khi có người phát tâm
làm việc phước thiện, thì tâm từ bi của người đó tăng trưởng,
tâm tham lam bỏn sẻn của họ giảm bớt. Họ được phước báu, giảm
bớt phiền não, lần lần tâm tánh của họ được thanh tịnh, cuộc
sống của họ được an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Chúng ta cũng vậy,
do thực tập tâm từ bi, chúng ta sẽ làm được nhiều việc phước
thiện mà không biết mệt mỏi, và do tâm hỷ xả chúng ta vui vẻ
bỏ qua hết, quên hết tất cả những việc đã làm, quên hết tất cả
những việc bất như ý mà chúng ta an vui. Trong tâm thức của
chúng ta không có bốn tướng:
-
- Tướng Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
-
Tức là chúng ta không thấy có mình là người làm phước, có kẻ
khác là người nhận lãnh và không nhớ, không để tâm đến những
việc tốt chúng ta đã làm, đã cho, đã giúp đỡ bao nhiêu người
khác. Như vậy chúng ta sẽ không cầu được báo đáp, không kể lể,
không đòi hỏi bất cứ ai nhớ ơn chúng ta, thì chúng ta không có
phiền não chút nào cả, nếu gặp phải những người không biết
chuyện ơn nghĩa thì chúng ta nhớ rằng chúng ta đã và đang thực
tập tâm hạnh của Ðức Di Lặc, chúng ta cũng có thể nhớ đến câu:
-
- Làm ơn không cần đền trả.
-
Cách nghĩ nầy cũng là lối tự sách tấn cho chính mình rất tích
cực. Chúng ta sở dĩ bị sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp,
bởi vì chúng ta dính mắc quá nhiều. Chúng ta chẳng những không
biết buông xả, trái lại, còn chứa nhóm quá nhiều thứ trong kho
tàng tâm thức của chúng ta.
-
III- Kết Luận
-
Qua hình ảnh của Ðức Di Lặc, chúng ta nhìn thấy sáu đứa nhỏ
móc tai, chọc mắt ngài, nhưng trên gương mặt Ngài vẫn nở nụ
cười tự tại. Hình dáng ấy để tượng trưng cho người đã hỷ xả
sáu căn toàn vẹn. Ðức Di Lặc không cười sao đặng, bởi vì ngoại
cảnh không còn gì quyến rũ được Ngài. Tâm Ngài lúc nào cũng an
nhiên thì quyết định trên gương mặt hẳn luôn luôn hoan hỷ.
-
Còn gì vui sướng hơn, khi chúng ta có tâm lượng bao dung sẵn
sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người. Khi nào thấy lòng chúng ta
không còn một mảy may thắc mắc, không còn một chút bợn hận
thù, đó là lúc chúng ta hoàn toàn an lạc. Người mà lòng được
thanh thoát nhẹ nhàng thì gương mặt vui tươi, lời nói thanh
nhã, cử chỉ thư thái, toàn thân hiện ra phong độ khả ái, khả
kính. Con người ấy có mấy khi buồn khổ, vì thế nên họ trẻ mãi
sống dai. Sách có câu:
-
- Thù ghét là sâu mọt đục khoét người, làm cho
người chóng xấu, chóng già, chóng chết. Yêu thương và tha thứ
là suối nước cam lồ tưới vào lòng người, làm cho người tươi
đẹp, trẻ trung, sống dai và sống mãi.
-
Danh vọng tài sắc... ở đời là những cạm bẫy hại
người, nhưng vì nó có công năng hấp dẫn quyến rũ khiến người
đời phải mê mẩn say sưa để rồi chịu khổ. Phần đông người đời
ngỡ rằng đuổi bắt tài sắc, danh vọng ... là hạnh phúc, và bởi
đắm nhiễm sắc, tài, danh vọng. Càng đuổi bắt nó càng chuốc khổ
về mình, nên người đời phải luống chịu đau khổ.
-
Dứt bỏ những tham nhiễm là điều không phải dễ, mà
dứt bỏ một cách vui vẻ lại càng khó hơn. Nếu ai mắt thấy sắc
đẹp, tai nghe tiếng hay, mà lòng không ái nhiễm, đó là bực
siêu nhân. Ngài Phù Dung Thiền Sư thường nói:
-
- Nghe tiếng hay, nhìn sắc đẹp như hoa trồng trên
đá, thấy tài lợi danh vọng như bụi rơi vào mắt....
-
Chúng ta làm được như vậy mới thực sự là tự tại an vui, là
chúng ta đã bước vào cảnh giới của Ðức Di Lặc, nơi đó chúng ta
không bị bất cứ phiền não nào tác động, thân tướng của chúng
ta có lẽ lúc đó cũng sẽ mập mạp khỏe mạnh, tâm trí thanh thản,
nét mặt lúc nào cũng hoan hỷ vui tươi. Vì vậy, nếu chúng ta
muốn được an nhiên tự tại, muốn được hạnh phúc ngay hiện đời,
chúng ta phải noi gương Ngài để tu bốn hạnh từ, bi, hỷ,
xả.
-
Tóm lại thực tập được Tâm Hạnh Hỷ Xả, là một cách giáo dục bản
thân. Thực tập Tâm Hạnh Hỷ Xã là chúng ta đã thực tập được
hạnh lắng nghe, có lắng nghe chúng ta mới hiểu và giúp người
khác được
-
Ðừng tranh cãi. Càng nói nhiều, cái tôi càng tác
quái càng dễ tạo lỗi lầm, nhất là rơi vào vòng thị phi, tôi
đúng anh sai, mà kết quả là ta thêm ích kỷ tự khoe và tự đại.
-
Khi chúng ta sắp hưởng thụ điều gì vui suớng hãy
tự nghĩ: Cha mẹ, kẻ thân yêu nhất của ta chắc hẳn họ sẽ vui vô
cùng nếu chúng ta nhường phần vui nầy cho họ, chia xẻ niềm
vui, phước báu của bạn với người khác.
-
Làm được như thế chúng ta mới có thể bỏ qua những oán thù, có
bỏ qua những oán thù thì lòng chúng ta được nhẹ nhàng thanh
thoát đó là cái vui của phàm nhân. Hỷ xả những tài, sắc, danh
vọng ... cho tâm được tự tại, đó là cái vui của bậc tu hành
đạo giải thoát. Hỷ xả thân mạng mình để cứu độ chúng sanh làm
cho tất cả chúng sanh được an lạc đó là cái vui của Bậc đại Bồ
Tát. Người Phật Tử quyết tâm dứt khổ tìm vui thì phải tu và
thực tập cách hành xử của Ngài Di Lặc, là tâm hạnh Từ, Bi, Hỷ
và Xả. Thực tập Tâm Hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả một phần, thì chúng
ta được vui một bậc. Ðến khi nào Tâm Hạnh Từ, Bi, Hỷ và Xả
toàn vẹn rồi thì lúc đó chúng ta sẽ có được cái niềm vui miên
viễn. Như vậy, vui và khổ không phải do ai đem đến hay ban
cho, mà chính chúng ta tự tạo lấy.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo
-
- Phật Học Phổ Thông
-
- Cư Trần Lạc Ðạo
-
- Tu Tâm Dưỡng Tánh
|