-
Ðịa Tạng Bồ Tát
-
Thanh Tâm ghi
-
--o0o--
-
-
Nói về Kinh Ðiển Ðại Thừa Phật Giáo, thông thường người Phật
Tủ chúng ta nên hiểu hai phương diện. Phương diện sự, trong
kinh dạy sao chúng ta cứ tôn trọng và hành trì thì phước báu
cũng vô lượng, nhưng về phương diện lý thì chúng ta có cái
nhìn quán triệt hơn.
-
A- Luận Bàn Về Sự:
-
Trong kinh dạy, Ngài Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát, lúc còn tu
nhân, Ngài có lập lời nguyện rằng:
-
- Ðịa ngục mà không còn chúng sanh thì Ngài không thành Phật.
-
Do lời nguyện rộng lớn như vậy, cho nên để thuận tiện trong
việc tế độ chúng sanh trong sáu đường, Ngài hiện thân có lúc
là:
-
- Diêm Ma Sứ Giả, để hoá độ chúng sanh ở Ðịa Ngục,
-
- Trì Bảo Sứ Giả để hoá độ chúng trong loại ngạ quỷ,
-
- Ðại Lực Sứ Giả để hoá độ chúng sanh ở loài súc sanh,
-
- Ðại Từ Thiên Nữ để hoá độ chúng sanh ở loài A Tu La,
-
- Bảo Tạng Thiên Nữ để hoá độ chúng sanh trong cảnh giới loài
nguời,
-
- Nhiếp Thiên Sứ Giả để hoá độ chúng sanh ở cõi Trời.
-
Và vì chịu lời phú chúc của Ðức Phật Thích Ca, cho
nên mỗi ngày, buổi sáng Ngài nhập định để quan sát các cơ cảm
trong mười phương thế giới mà giác ngộ chúng sanh.
-
Bồ Tát Ðịa Tạng thành danh từ đó, cho nên nói về
Ðịa Tạng Bồ tát là chúng ta hiểu ngài là một vị Bồ Tát có lập
đại nguyện tế độ tát cả chúng sanh, cũng như đất chở muôn sự
muôn vật, nên gọi là Ðịa. Và tuy Ngài hiện thân ở hằng sa số
thế giới, độ vô số chúng sanh mà không một thế giới nào, một
chúng sanh nào ra ngoài tự tậm của Ngài nên gọi là Tạng.
-
1500 năm sau khi đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn,
năm thứ tư hiệu Vĩnh Huy, Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát có giáng sanh ở
nước Tân La, nơi nhà họ kim tên là Kim Kiều Giác. Hai mươi bốn
tuổi Ngài lên núi tu, nhập định bảy mươi lăm năm, đến năm chín
mươi chín tuổi thị tịch.
-
Theo trong Kinh Ðiạ Tạng, ngài Kiên Lao Ðịa Thần
có nói rằng:
-
- Hể ai làm miếu, cất khánh, tô vẽ hình tượng Ngài
Ðịa Tạng Bồ Tát và cúng dường lễ bái Ngài thì được mười điều
lợi ích:
-
01- Ðất cát chỗ mình ở trở nên thạnh vượng
-
02- Nhà cửa trở nên yên ổn mãi
-
03- Người mất được sanh lên cõi Trời
-
04- Người còn hiện tiền thêm tuổi thọ
-
05- Cần gì cũng được toại ý
-
06- Không có gặp nạn nước lửa
-
07- Mọi sự hư hao đều trừ hết
-
08- Các điềm dữ trong lúc chiêm bao đều dứt
-
09- Những khi ra vô đều có thần ủng hộ
-
10- Gặp nhiều thuận nhân duyên tốt đẹp.
-
Như vậy nếu chúng ta y cứ theo lời dạy trong kinh
thì được phước lợi như vậy
-
B- Luận Bàn Về Lý
-
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phương Tiện đức Phật có
nói:
-
- Nầy Xá Lợi Phất, các đức Phật tùy sự tiện lợi của mỗi trường
hợp mà nói pháp, với những ý tứ và ý hướng khó giải một cách
rõ ràng. Tại sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện như mọi thứ
nhân duyên, thí dụ, lời nói, mà trình bày các pháp. Không phải
lấy trí óc suy lường, phân biệt mà giải thích được các pháp
ấy, chỉ có Phật mới biết rõ....
-
Như vậy chúng ta thấy giáo lý của Phật rất là uyển chuyển, hay
nói một cách khác, đức Phật có nhiều phương pháp dạy dỗ. Dù
trình độ người nghe, trình độ trí thức, trình độ sáng suốt,
trình độ đạo đức, mà đại khái đức Phật áp dụng hoặc phương
pháp nhân duyên, hoặc phương pháp thí dụ, hoặc phương pháp
giải thích, bằng lời nói tất cả những phương pháp ấy, đức Phật
gọi Phương Tiện. Phượng Tiện rất nhiều lại biến hoá thay đổi
tùy trường hợp, còn chân lý Phật muốn chỉ bày, dạy dỗ có một.
Ðiều nầy tương tự như lấy ngón tay hay cây gậy mà chỉ mặt
trăng. Ðể hiểu về lý của toàn bộ yếu nghĩa về Ngài Ðịa Tạng Bồ
Tát, chúng ta cần biết sơ qua về bài tựa của Kinh Ðịa Tạng:
-
- U minh giáo chủ bổn tôn
-
Ðịa Tạng Bồ tát Ma ha Tát
-
Lạy đức Từ bi đại giáo chủ
-
Ðịa là dày chắc, Tạng Chứa đủ
-
Cõi nước phưong Nam nổi mây thơm
-
Rưới hương rưới hoa, hoa vần vũ
-
May xinh mưa báu số không lường
-
Lành tốt trang nghiêm cảnh dị thường
-
Người, trời bạch Phật nhân gì thế?
-
Phật rằng Ðịa Tạng đến thiên đường
-
Chư Phật ba đời đều khen chuộng
-
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng
-
Nay con sẵn có thiện nhân duyên
-
Ngợi khen Bồ Tát đức vô lường
-
Lòng từ do chứa hạnh lành
-
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn
-
Trong tay đã sẵn gậy vàng
-
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh
-
Tay cầm châu bái tròn vìn
-
Hào quang chiếu sáng ba ngàn đại thiên
-
Diêm vương trước điện chẳng hiền
-
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn
-
Ðịa Tạng Bồ tát thượng nhân
-
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù
-
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát
-
Bằng cách chiết tự chúng ta thấy:
-
01- Giáo Chủ cõi U minh
-
Một người nào đó đem ánh sáng đạo lý soi đường cho thế nhân
thì gọi là Giáo chủ
-
U Minh là nơi sâu kín tối tăm, cũng có nghĩa là địa ngục. Tối
tăm hay địa ngục ám chỉ ngu dốt vô minh.
-
Vậy Bồ Tát Ðịa Tạng là người đem ánh sáng vào chỗ tối tăm. Chỗ
tối tăm trong trường hợp nầy là tâm vô minh của chúng sanh.
-
02- Bổn Tôn:
-
Bổn là gốc là cái sẳn có. Cái gốc, cái vốn của chúng sanh là
cái bản thể sẳn có. Vậy Bổn Tôn là cái sẳn có đáng kính trọng
nơi chúng ta. Cái mà mọi người ai cũng có đó chíng là cái tâm.
Biết tôn trọng tâm là người minh tâm kiến tánh và tâm trong
trường hợp nầy là giáo chủ soi đường hắc ám cho mình. Các
thiền sư dẹp qua một bên kinh sách và để hết thời giờ vào chỗ
tiếp xúc với tâm hầu học hỏi với vị giáo chủ nầy, lầm lẫn vì
tâm, giác ngộ cũng nhờ tâm. Trong khi bị u minh che ám, muốn
thấy đâu chân, đâu giả, đâu thiện, đâu ác hãy lắng lòng cho
sạch sẽ thấy.
-
Câu: Ðịa là dày chắc Tạng Chứa đủ
-
Ðịa là đất mà đất cứng rắn chắc, Tạng là sâu dày và dung chứa
muôn loài muôn vật. Bất luận hột giống nào bỏ xuống đất là
mọc. Vì vậy lấy đất mà thí dụ chân tâm, có chỗ ghi là tâm địa.
Tâm vô hình vô tướng làm sao đập vỡ được, cho nên nói là kiên.
cũng không thể đo lường được. Tâm là cái giếng sâu không đáy
ai muốn đi sâu vào nội tâm đến đâu cũng được, vì vậy nói hậu,
Ngoài tâm không có vật, cho nên nói quảng hàm tàng
-
Như vậy Ðịa Tạng Bồ Tát không phải là một nhân vật lịch sử có
một đời sống thế gian như đức Phật Thích Ca mà là một nhân vật
tượng trưng, được Ðức Phật dụ để tiêu biểu cho cái gì cực tôn
cực quý trong đời, đủ năng lực phá vô minh, trực tiếp vớt con
người ra khỏi ngục thất tối đen dày bịt, thoát vòng tội lỗi
đau khổ và dẫn con người trở về sùng bái cực tôn, cực quý ấy
là chơn tâm, của mỗi chúng ta vậy như chúng ta thấy câu:
-
- Ðịa ngôn kiên hậu quản hàm tàng.
-
Và nói:
-
- Tại sao dùng hai chữ địa tạng dể ám chỉ chân
tâm?
-
Cứ xem câu vừa trích trong bài tán ở đầu quyển kinh đủ thấy.
Ðịa là chỉ cái gì kiên cố bất diệt, sâu dày không thể đo
lường, và rộng chứa không gì bỏ ra ngoài. Ðó chính là chân tâm
hay Như Lai Tạng. Vì không ai có thể đập vỡ được tâm, cho nên
nói là kiên cố. Cũng không có ai đo được cái vô cùng vô tận
của tâm cho nên nói nó là sâu dày không hề đo lường. Và chính
vì không có một cái gì thoát khỏi sự quán xuyến của tâm cho
nên nói là ngậm chứa tất cả.
-
- Câu Nam phương thế giới dõng hương vân
-
Nghĩa là:
-
- Cõi nước phương Nam nổi mây thơm
-
Chỉ cho Nam Diêm Phù Ðề hay cõi Ta Bà là thế giới nơi mà chúng
ta đang ở Nói là Nam Phương là chỉ cho chúng sanh ở đây ở
chúng sanh nào có những mây thơm, mây đẹp mây báu là những
nhân thiện mỷ. Và có những đám mưa thơm, mưa đẹp, mưa báu tức
là những quả chân thiện mỹ. Nhân quả ấy chỉ có được ở những
người đã thức tỉnh, đã trở về với Tâm, hay nói một cách khác ở
những người mà chân thiệm mỹ đã hiện, đã tới.
-
Tâm là Phật, Phật là Tâm, thế nhưng ở đây chúng ta hiểu Tâm là
Ðịa Tạng Bồ Tát. Bởi vì thực sự Tâm là Phật, Phật là tâm,
nhưng tâm của chúng sanh chưa hoàn toàn thanh tịnh như Phật,
cho nên chưa gọi là Phật được. Tuy nhiên với một con người
thức tỉnh, thì tâm ở chúng sanh thức tỉnh đó là tâm đang tu
sửa như bồ tát đang tu sửa cho nên ví tâm nầy như Bồ tát.
-
Vì Bồ Tát Ðịa Tạng tượng trưng cho Tâm mà Tâm một khi đã hoàn
toàn thanh tịnh thì sanh Trí bát Nhã, là trí sáng suốt cho nên
chư Phật ba đời đều phải khen gợi và kính mến
-
Bởi vì Ngài Ðịa Tạng Bồ tát là cái tâm cho nên mới hiểu rõ
ràng được câu:
-
- Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng
-
Thập phương Bồ tát cộng quy y.
-
Không lẻ ba đời chư Phật lại đi khen ngợi ngưỡng
mộ một vị Bồ tát, hơn nữa chư vị Bồ tát trong mười phương lại
quy y với một người đồng đẳng với mình. Như vậy rõ ràng là
tiêu biểu cho lý bất diệt, là chân tâm, mà không ai được phủ
nhận, vì phủ nhận là còn sống trong vô minh, mà còn sống trong
vô minh thì chúng ta không thể nào có Phật và Bồ tát Nói một
cách khác, nhờ thể nhận được chơn tâm, tán thán ngưỡng mộ chân
tâm, nên Phật mới thành Phật, và cũng nhờ biết quay về an trú
nơi chân tâm, sống theo tiếng gọi của Chân Tâm, nên Bồ tát mới
thành hạnh Bồ tát. Như vậy chỉ vì Ðịa Tạng Bồ Tát là tâm. Muốn
thành Bồ Tát phải quy y Tâm, Bồ Tát mà muốn thành Phật cần
phải quy y Tâm nhiều hơn vì Tâm là đại từ đại bi, đại hỷ, đại
xả..
-
Ðến hai câu:
-
- Thủ trung kim tích, hấn khai địa ngục chi môn
-
Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên chi
giới:
-
Nghĩa là:
-
- Trong tay đã sẳn gậy vàng
-
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh
-
Ðó là một lối dùng biểu tượng để diễn tả những công năng của
chân tâm. Tích trượng tượng trưng cho cái ý chí cương quyết bẻ
xiềng xích, phá ngục tù của những người tỉnh thức, tức là trở
về với chân tâm. Ðó cũng là sức mạnh vô song của chân tâm,
biết diệu dụng thì không việc thiện nào là không làm được, còn
không biết diệu dụng thì nó cũng có thể đưa con người đến tội
lỗi không bờ bến. Bởi vì cái cương quyết làm đúng cũng có ở
nguời tốt, và cái cương quyết là sái cũng ở người xấu, đồng
một mãnh lực như nhau. Tuy hai mà trên căn bản là một, tại chỗ
dùng có khác mà một mới xem chúng ta thấy như hai. Giống như
con dao bén có thể dùng giúp ta xắt cải, mà cũng có thể trợ
cái giận của chúng ta trong việc chém người hại vật.
-
Còn mấy câu:
-
- Diêm vương điện thượng
-
Nghiệp cảnh đài tiền
-
Vị Nam Phù Ðề chúng sanh
-
Tác đại chứng minh công đức chủ.
-
Ðây là diễn tả cái dụng khác của chân tâm, cái
dụng hồi quang phản chiếu, quay cái sáng rọi trở lại đời sống
hằng ngày, từ ngoài cho đến trong. Thật vậy. Ai xét ta bằng
lương tâm của chúng ta, vì biết bao nhiêu tội chúng ta đã tạo
mà công lý không ai biết. Do đây bài tán mới ví Ngài Ðịa tạng
là Chân Tâm, là ông vua của Diêm La, ngồi trên điện cao để
phán xét tội trạng của ta. Còn tự ta muốn biết nghiệp lành,
nghiệp ác của ta, thì cứ ngó trở lại vào lòng, cái gương lòng
sẽ phản chiếu cho ta thấy tất cả. Gương ấy là chơn tâm Ðia
Tạng đó, nên gọi là nghiệp cảnh. Chơn Tâm ta đã là ông toà
Diêm Vương xét tội, thì chơn tâm ấy cũng là người chứng kiến
và ghi chép những công đức của ta. Thế nên nói Ðịa Tạng làm
người chứng minh các công đức của chúng sanh cõi Nam Diêm Phù
Ðề tức là cõi thế gian nầy vậy.
-
- Câu Từ nhân, tích thiện, thê cứu chứng sanh...
-
Nghĩa là:
-
- Lòng từ do chứa hạnh lành
-
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn
-
Phải là người có trồng nhiền nhân lành trong tiền kiếp đời nầy
mới chứng ngộ được chân tâm, mới thấy hiểu được thế nào là đại
từ, đại bi.. Có thấy hiểu được như thế mới tán ngưỡng những
công đức của tâm bằng không thì theo thế nhân tán dương những
cái mê lầm của tâm tham vọng.
-
Chân tâm là tâm Ðại Từ Ðại Bi cho nên nói Bồ Tát Ðịa tạng là
nguyên nhân là hột giống của lòng từ là nơi tích tụ của những
điều thiện. Có Từ, có thiện tự nhiên phải nghĩ thương đến
người khác, đến chúng sanh.
-
Lòng từ của Phật quả đúng như vậy nhưng Ngài phải nói lên một
sự thật. Sự thật ấy là Phật chỉ đường mà thôi, còn việc phá
cửa ngục vô minh để giải thoát, mỗi chúng sanh phải tự làm
lấy. Phá bằng cách nào, bằng cách dùng tâm cương quyết đả phá
mê mờ. vậy tâm là chiếc gậy sắt có khả năng đập phá cửa ngục.
-
Nhưng ý chí không chưa đủ mà phải có sáng suốt phụ lực. sáng
suốt ấy là trí Bát Nhã hay trí tuệ tuyệt vời và trí ấy do Tâm
thanh tịnh làm phát sanh, vậy trí cũng là Tâm vì vậy nên nói
Bồ Tát Ðịa Tạng là viên ngọc minh châu sáng soi tam thiên đại
thiên thế giới. Minh châu là thứ ngọc có khả năng chiếu sáng
trong đêm tối thí dụ cho trí tuệ soi sáng lòng dạ vô minh hắc
ám của chúng sanh.
-
Ngoài tâm không có pháp, cho nên sự sự đều do tâm,
vật vật đều do tâm. Tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục, ba
cõi đều do tâm, mười cõi chỉ đều do tâm, tất cả đều do một
tâm, không có gì ngoài nó. Cho nên có chúng sanh thọ khổ địa
ngục nơi tự tâm, thì Ðịa Tạng Bồ Tát cũng cứu độ trong tâm.
Ngoài tâm không có dịa ngục, chúng sanh nào khác, ngoài tâm
không có Ngài Ðịa Tạng phá ngục dẫn vong nào khác. Ðây là cái
lý bí ẩn của kinh Ðai Thừa mà chúng ta cần khám phá và khai
thác để tự lợi và lợi tha. Dùng ông Bồ Tát tự tánh mà cứu độ
chúng sanh của Tự Tâm, lửa đó nước đó, thật là muôn phần linh
nghiệm và diệu dụng.
-
Bồ Tát biết dùng minh châu đại trí tuệ chiếu phá
vô minh tiêu trừ những nỗi lòng đen tối, cởi mở những quan
niệm sai lầm, đập phá ngục tham sân si ái... thì mình mới khỏi
cầu ai xa lạ viễn vông vừa khó khăn vừa không chắc, khỏi mắc
phải cái tánh ỷ lại thần quyền, mơ hồ và tai hại.
-
Nêu tự hay nơi mình có chơn tâm sáng suốt làm quan
toà, thường ngồi tại bàn án, chiếu gương soi nghiệp, xét nét
vô tư những điều bí ẩn khuất nơi cõi lòng, thì chắc chắn đời
người sẽ có sự hoán đổi, dứt ác làm lành, đổi đen thành trắng.
-
- Câu Diêm vương trước điện chẳng hiền
-
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn
-
Tâm chân chánh là vị Diêm Vương ngồi trên xử tội. Ai biết tội
lỗi của ta bằng ta, ai biết lòng ta bằng ta. Lòng ta là tâm.
-
Tâm cũng là đài gương để soi sáng những hành vi thiện ác của
ta. Tự vấn lương tâm là vào tấm gương của ta để thấy mọi
nghiệp của ta.
-
Ai làm chứng cho ta bằng ta. Biết bao nhiêu công đức âm thầm
của những tâm hồn cao thượng mà thế nhân không thấy, không
biết. Thế nhân không biết mà lòng ta, tâm ta biết. Do đây nói
Bồ Tát Ðịa tạng là vị chúa tể chứng minh công đức của chúng
sanh.
-
Câu Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát
-
Tâm chân chánh là lòng từ(Ðại Từ) lòng bi(đại bi), là nguyên
nhân của lời thê nguyện giải thoát giác ngộ(Ðại Nguyện), của
thanh tịnh là (Ðại Thánh)
-
Bồ Tát Ðịa Tạng ở đây là tượng trưng cho tâm quyết thoát ly
điạ ngục tham sân si và những thống khổ, là tâm thanh tịnh
sáng suốt, từ bi, là Tâm tự biết tự xét.
-
Tìm hiểu Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát có thật hay không? Không quan hệ
bằng tìm biết kinh Ðịa Tạng có ích gì cho chúng ta trong việc
tu hành.
-
Khi chơn tâm phát hiện nơi ai thì từ nơi thân tâm người ấy
phát tiết ra ngoài một cái gì mà trông đến gương mặt là ta cảm
thấy ánh sáng diệu hiền, khiến ta phải kính phục, nghe đến lời
nói là ta cảm nhận một cái gì đẹp đẻ, thơm tho, khiến cho ta
ngây ngất chẳng khác nào mình tắm trong đám mưa thơm, một đám
mưa hoa. Cứ trông gương mặt, ngắm xem cử chỉ, lắng nghe lời
nói của những bực chân tu thật học, ta sẽ thấy và sẽ cảm nhận
như vừa
nói.
|