-
Thượng Tọa Bộ & Ðại Chúng Bộ
-
(Therevada & Mahasanghiska)
-
Tác Giả: Daisaku Ikeda
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
--o0o--
-
-
Nền Tảng Của Cuộc Kết Tập Lần Thứ Hai
-
Một trăm năm sau cuộc Kết Tập Lần Thứ Nhất, một cuộc hội họp
lớn của Phật Giáo được triệu tập. Có một số tài liệu cho rằng
cuộc hội họp nầy xảy ta 110 năm sau khi Phật nhập diệt. Dù thế
nào, vào khoảng thời gian ấy, Tăng Ðoàn Phật Giáo chia làm hai
nhánh, một nhánh được gọi là Therevada hay Thượng Toạ Bộ và
nhánh thứ hai là Mahasanghika hay Ðại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ
về sau truyền bá xuống những quốc gia phương Nam và Ðông Ấn
Ðộ, và là khởi nguồn của Phật Giáo phát triển ngày nay ở Tích
Lan, Thái Lan, Miến Ðiện, Căm Bốt, Lào, . v.v.
-
Với sự thể nầy, chúng ta có thể ước đoán rằng những tác nhân
đưa đến cuộc Kết Tập Lần Thứ Hai rất khác với Cuộc Kết Tập Lần
Thứ Nhất, khi những đệ tử của Ðức Thích Ca Mâu Ni họp lại để
tỏ lòng cung kính và tưởng niệm Ngài.
-
Chúng ta được biết rằng Ngài Ưu Ba Li, người đóng vai trò
trọng yếu trong cuộc Kết Tập Lần Thứ Nhất, qua đời sau Phật ba
mươi năm và chúng ta cũng có thể giả thuyết rằng hầu hết đệ tử
của Phật cũng đã qua đời trong khoảng thời gian đó. Chắc chắn
chúng ta không thể nào tưởng tượng được rằng có một người trực
tiếp thấy được Phật còn tồn tại đến một trăm năm sau khi Phật
nhập diệt. Do đó chúng ta có thể nghĩ rằng trong thời gian
Cuộc Kết Tập Lần Thứ Hai, Giáo Ðoàn được lãnh đạo do những vị
thuộc thế hệ thứ tư hay thứ năm.
-
Trong trăm năm đó, thời gian chắc chắn đã làm xã hội thay đổi
một cách đáng kể, cũng như cách sống của người Ấn Ðộ, và điều
không thể tránh là những sự khác biệt về cách giải thích những
di huấn và giáo pháp của Ðức Thích Ca Mâu Ni cũng đã xảy ra.
-
Chúng ta biết rằng Ðạo Phật đã từ từ chiếm giữ một địa vị quan
trọng trong xã hội Ấn Ðộ và đã có nhiều tín đồ trong quần
chúng. Một chứng minh cho điều nầy là Ðại Chúng Bộ
(Mahasanghika)đã được sự giúp đỡ lớn lao từ phía những Phật tử
tại gia, chứng tỏ rằng tôn giáo mới mẻ nầy đã lan rộng trong
quần chúng. Ðồng thời, số Phật tử trong hàng quí tộc ở các đô
thị, cũng như trong hàng ngũ thương gia và nông dân, cũng đã
tăng lên. Chùa chiền được xây dựng ở nhiều nơi, và đạo Phật,
từ miền Ðông Ấn quanh vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha), đã dần
dần lan ra khắp nơi.
-
Chính sự khác nhau trên quan điểm giới luật đã đưa đến Cuộc
Kết Tập Lần Thứ Hai. Một nhóm Tăng Sĩ thuộc bộ tộc Vajjio (Bạt
Kỳ) ở thành Vaishali(Tì Xá Li) được coi như những người tiên
phong trong việc đưa ra những giải thích mới về Mười Giới,
những giới luật căn bản cho các Tăng sĩ trong Tăng Ðoàn, và
Cuộc Hội Nghị được triệu tập để đánh giá những giải thích của
họ.
-
Các Tăng Sĩ của thành Vaisali đưa ra một danh sách mười điều
từ trước đến nay được coi là những điều cấm, và đề nghị những
điều nầy được cho phép. Ví dụ, mục đầu tiên, đề nghị Tăng sĩ
được phép tích trữ muối; từ trước, sự tích trữ bất cứ một vật
thực gì cũng bị cấm đoán. Những điều khác như cho phép Tăng sĩ
được ăn sau ngọ, được dùng giường, nệm, áo với một kích thước
ấn định trong một số trường hợp; và được uống một số thức uống
trước kia bị cấm. Ðiều cuối cùng, đề nghị Tăng sĩ được nhận
quà cúng dường bằng vàng, bạc, là một điều có thể gây sôi nổi
nhất, bởi vì nhận vật cúng dường bằng tiền bị nghiêm nhặt cấm
đoán từ trước.
-
Như người ta có thể thấy, những Tăng sĩ trong thời buổi đó
sống một đời sống hết sức hạn chế, khó mà tưởng tượng được
những vị Tăng sĩ ngày nay có thể chịu đựng được. Tuy nhiên,
một người Ấn Ðộ thời bấy giờ khi rời nhà để xuất gia phải hoàn
toàn được chuẩn bị để sống đời sống khuôn khổ của Giáo Ðoàn.
Lại người ta không thể không có cảm giác rằng sự khổ hạnh
nghiêm nhặt, như cấm chư Tăng không đượcngay cả ở gần một kho
muối nhỏ hay buộc chư Tăng phải chịu hình phạt của Giáo Ðoàn
khi dám sửa lại những chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống của họ,
cuối cùng đã làm giảm và làm suy yếu tính chất người nơi những
đối tượng của sự thi hành nầy. Và hậu quả là nó ngăn chận tinh
thần dám làm và năng động cần thiết cho sự truyền bá giáo pháp
của Phật Ðà ra bên ngoài.
-
Một trong những nguyên do Giáo Ðoàn rơi vào sự khổ hạnh nghiêm
nhặt nầy là chư Tăng đã có ý thức mạnh mẽ rằng mình là một
giai cấp riêng biệt trong xã hội. Các Ngài tự coi mình là một
nhóm người ở bên ngoài những đua chen của người thế tục và
thực hành những sự tu tập tôn giáo riêng biệt; ý thức nầy có
thể đã đưa đến những quy luật mà các Ngài noi theo có tính
cách rạch ròi và nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên, giới luật chân
thật phải khác hơn là một cái gì từ bên ngoài áp đặt lên một
cá nhơn. Nó phải khởi ra từ bên trong và tạo một nền tảng cho
những sự giao tiếp với thế giới bên ngoài. Ðó dường như không
phải là trường hợp của những vị Tăng sĩ Phật Giáo trong thời
kỳ đầu. Sự thôi thúc các Ngài tách rời khỏi thế giới bên ngoài
đã đưa đến những giáo điều, và những giáo điều nầy lại cô lập
các Ngài với toàn thế giới bên ngoài.
-
Cũng cần ghi nhận rằng những khuấy động chống đối đã xuất hiện
ở Vaishali, quê hương của một cư sĩ nổi thiếng Vimalakirti
(Duy Ma Cật). Thành phố nầy là một trung tâm tự do thương mại
thịnh vượng, cũng là thủ đô của tộc Vajji, liên bang của năm
bộ tộc theo thể chế cộng hoà, chính quyền được lãnh đạo do đại
diện của các bộ tộc. Nhìn vào khung cảnh tương đối tiến bộ và
có tính cách quốc tế của thành phố, để có thể tưởng tượng ra
một trào lưu mới nẩy sinh trong những tín đồ Phật Giáo ở đó,
đang tìm cách thoát ra khỏi lớp vỏ giáo điều đã cô lập họ.
-
Ðạo Phật khởi nguyên là một tôn giáo cho tất cả mọi tầng lớp
trong xã hội, nam giới cũng như nữ giới, và lẽ ra không thể
trở nên một thứ dành riêng cho một lớp người. Và đó là luận
điểm của những người lãnh đạo phong trào mới nầy, họ kêu gọi
sự trở lại với tinh thần nguyên thủy của Ðạo Phật được chính
Ðức Thích Ca Mâu Ni đề ra.
-
Mười giới điều của các vị Tăng ở Vajji đã cho phép các Ngài
làm những việc mà trước kia bị ngăn cấm. Tuy nhiên không lâu
trước khi sự đổi mới được báo cáo đến những vị Trưởng Lão bảo
thủ, các Ngài đã nhận được tin bằng sự báo động. Dưới mắt
những vị Trưởng Lão nầy, những vị bảo thủ trong những lề luật
được truyền xuống từ Lần Kết Tập Thứ Nhứt, sự xuất hiện của
những Tăng sĩ muốn phá vỡ lề luật là một mối nguy cơ trầm
trọng nhất cho Giáo Ðoàn.
-
Không lâu sau, một số các vị Trưởng Lão trên toàn nước Ấn Ðộ
tập trung tại một khu vườn trong thành Vaishali để bàn về vấn
đề nầy. Những vị Tăng đến từ miền Ðông Ấn và Tây Ấn mỗi bên đề
cử năm đại biểu để nghiên cứu về Mười Giới Ðiều của các vị
Tăng ở Vaishali dưới ánh sáng giáo pháp được truyền xuống từ
kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất. Sau khi kết luận những điều luật nầy
là Mười Ðiều Trái Pháp, các Ngài chính thức tuyên bố sự lên án
trước toàn thể Tăng chúng đang có mặt.
-
Khi sự việc nầy xảy ra, vị cầm đầu cuộc họp cử ra bảy trăm vị
Tăng để đọc lại Kinh điển, Giới Luật, như Ngài Ma Ha Ca Diếp
đã làm trước kia trong kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất. Ðó là kỳ Kết
Tập Lần Thứ Hai.
-
Ðề nghị của các vị Tăng Vajji (Bạt Kỳ) hoàn toàn bị các vị
Trưởng Lão bác bỏ.
-
Trong thực tế, chúng ta biết rằng chính Ðức Thích Ca Mâu Ni
cũng bày tỏ rằng những quy luật hướng dẫn Giáo Ðoàn phải là
một cái gì được thay đổi hay có thể được hủy bỏ trong một số
trường hợp nào đó. Thái độ của Ðức Thích Ca Mâu Ni đối với
những giới luật còn được thể hiện trong sự việc rằng khi
Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) đề nghị cái gọi là Năm Hạnh, tức năm
giới cấm để buộc các Tỳ Kheo vào một đời sống khổ hạnh, Ðức
Thích Ca Mâu Ni bác bỏ ngay. Ngài là một con người đầy tính
chất phóng khoáng và sâu sắc, không cố áp đặt lên người khác
một mớ giáo điều hay quy luật, Ngài có biệt tài đáp ứng với
tính chất riêng biệt của mỗi cá nhân mà Ngài muốn trao truyền
chân lý, và truyền chân lý cho một người trong một đường hướng
có ý nghĩa chân thật nhất. Ngài không phải là một nhà giáo
điều mà là một con người tự do, một người tán dương năng lực
nhiệm mầu của sự sống.
-
Trong kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất, có một sự khác biệt đáng kể
trên quan điểm về mức độ nhấn mạnh vào giới luật, và những
Trưởng Lão tham gia đã không đưa ra một quyết định nào. Theo
Kinh điển còn lại, Ngài Ma Ha Ca Diếp huấn thị rằng những giới
luật do Ðức Thích Ca Mâu Ni truyền lại cho Giáo Ðoàn phải được
tuân giữ không một chút sai lệch. Kết quả là các vị Tỳ Kheo
dường như hoàn toàn dấn mình vào giới luật, và đồng thời giáo
lý của tôn giáo mới nầy (Ðạo Phật) trở thành cố định trong một
giới hạn không một sự lý giải nào được chấp nhận. Ðó là trạng
thái cứng nhắt mà chúng ta thấy trong Giáo Ðoàn vài trăm năm
sau khi Ðức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt.
-
Giáo lý Ðạo Phật có đề ra một nguyên tắc gọi là khế cơ. Theo
nguyên tắc nầy, miễn là không trái phạm với những giáo lý và
giới luật nền tảng của Chánh Pháp, giáo pháp được cho phép
thích nghi theo phong tục tập quán và sự thực hành ở mỗi địa
phương, nơi một người Phật tử đến giáo hoá hay sinh sống. Ví
dụ Ðức Thích Ca Mâu Ni đã nói với các vị Sa Môn rằng, về việc
kiêng cữ và giờ giấc ăn uống, họ có thể tùy theo tập quán ở
mỗi địa phương nơi họ sống và không cần khép chặt vào giới cấm
mà Ngài đã đề ra. Ðó có thể là lý do Mười Giới Ðiều của các vị
Tăng Vajji (Bạt Kỳ) chứa đựng nhiều thay đổi trong những vấn
đề liên quan đến ăn uống.
-
Những Nguồn Gốc Của Sự Ly Khai:
-
Trong giai đoạn mà chúng ta đang thảo luận đến, Ðạo Phật dường
như có mặt dưới hình thức những nhóm tương đối tự trị rải rác
trên toàn nước Ấn Ðộ. Một phần đó là hậu quả không tránh được
do những khó khăn trong sự truyền đạt; có thể là một đoàn thể,
nhưng không thể nào phối hợp những hoạt động của những nhóm xa
xôi nhau dưới một thẩm quyền trung ương. Thêm vào đó, Kinh
Niết Bàn có nói rằng chính Ðức Thích Ca Mâu Ni nói rằng Ngài
không có ý hướng nhắm đến một tổ chức tôn giáo rộng lớn, và
từ bước đầu, Ngài đã không có một nỗ lực nào vào việc giữ Giáo
Ðoàn hoạt động như là một khối duy nhất. Vì vậy, sau khi Ðức
Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, chúng ta có thể nghĩ rằng một số
những nhóm biệt lập được hình thành trong các địa phương khác
nhau, mỗi nhóm vây quanh một trong các đệ tử lớn của Phật.
Chúng ta không ngạc nhiên rằng mấy trăm năm sau có những khác
biệt tế nhị trong giáo lý và nghi lễ của mỗi nhóm. Ðó là điều
mà hầu hết các học giả Phật Giáo diễn tả về tình hình Giáo
Ðoàn thời sơ kỳ.
-
Ngay cho đến thế kỷ thứ bảy sau Tây lịch, khi Ngài Huyền Trang
đến Ấn Ðộ, Ngài thấy có nhiều nhóm khác nhau tôn thờ giáo Pháp
của vị đệ tử nầy hay vị đệ tử khác của Ðức Phật, như Xá Lợi
Phất (Shariputra) hay Mục Kiền Liên. Ðạo Phật Ấn Ðộ đó được
định tính với những tổ chức địa phương, mỗi tổ chức mang một
tính chất riêng biệt, và điều nầy sẽ là một tác nhân cho tiến
trình lịch sử của Ðạo Phật. Ðiều nầy không làm cho chúng ta
ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng Ðức Thích Ca Mâu Ni giảng
dạy Chánh Pháp theo nhiều cách khác nhau tùy theo khả năng của
mỗi người hay một nhóm người mà Ngài muốn họ hiểu.
-
Vấn đề quan tâm lớn nhất cho những sinh viên Phật học là những
nhóm nầy có giữ được tinh thần chân thật trong những lời dạy
của Ðức Thích Ca Mâu Ni hay không? Nếu họ vẫn còn niềm tin về
toàn bộ những nguyên lý trong giáo pháp của Ðức Phật, thì
những dị biệt nhỏ có tính cách địa phương đã phải được bỏ qua.
Chánh pháp dạy chúng ta một cách rõ ràng rằng một người Phật
tử phải thực hành ba việc: giữ giới, tu định (dhyana) và tu
huệ (prajna). Tuy vậy, những vị trong khối Therevada hay
Thượng Tọa Bộ thời bấy giờ nhấn mạnh hoàn toàn vào giới luật.
Ngược lại, Mahasanghika hay Ðại Chúng Bộ thì tin rằng các Ngài
đã thực hiện giáo pháp chân thật của Ðức Thích Ca Mâu Ni bằng
cách hòa nhập vào quần chúng, đàm thoại với họ, chia xẻ những
khổ đau của họ, và khuyến khích họ thực hành tín ngưỡng Ðạo
Phật.
-
Chúng ta đã đề cập ở trước về tinh thần tự do và độc lập của
thành Caishali (Tì Xá Li), như được đại biểu bằng vị cư sĩ
Vimalakirti (Duy Ma Cật). Vị Cư sĩ nầy trong cuốn Kinh mang
tên Ngài, được miêu tả đã phê phán ngay cả mười vị đệ tử lớn
của Ðức Phật khi ông thấy rằng các vị nầy quá cứng nhắc hay
chấp chặt vào những tư tưởng và cách hành đạo của họ. Vì vậy
chúng ta dễ tưởng tượng rằng những Tăng sĩ ở Vaisali khác hẳn
với những Tăng sĩ ở những vùng khác trong cách thức ăn uống,
trong thái độ đối với sự cúng dường tiền bạc, và những điểm
khác của những giới luật.
-
Kỳ Kết Tập Lần Thứ Hai bác bỏ hoàn toàn những đề nghị của giới
Tăng sĩ Vaisali. Các vị Tăng sĩ nầy bèn tập họp một đại hội
quy tụ mười ngàn Tăng sĩ để làm một cuộc kết tập riêng, được
gọi là Cuộc Tuyên Ðọc của Ðại Chúng Bộ. Thời bấy giờ, những vị
tu sĩ nầy được gọi là Mahasanghika (Ðại Chúng Bộ), Tàu dịch là
Ma Ha Diễn, để phân biệt với Theravada (Thượng Tọa Bộ) gồm
những vị Trưởng Lão. Và Ðạo Phật phân thành hai bộ phái. Chúng
ta được biết rằng trong một trăm năm đầu tiên sau Phật nhập
diệt không có sự phân chia, nhưng trong một trăm năm tiếp
theo, giáo pháp của Ðức Phật được giải thích theo mười bảy
trường phái khác nhau. Khởi sự của sự phân chia nầy là sự ly
khai do kỳ Kết Tập Lần Thứ Hai.
-
Sự kiện có nhiều bộ phái thành hình trong thế kỷ thứ hai sau
Phật nhập diệt là một tai họa trầm trọng cho Thượng Tọa Bộ, từ
trước vẫn cho mình là lãnh đạo của toàn thể Giáo Ðoàn. Chúng
ta cũng biết rằng trong trăm năm tiếp theo, sự phân phái vẫn
tiếp tục và đã có đến mười tám, mười hai phái thuộc truyền
thống Thượng Tọa Bộ và sáu phái thuộc truyền thống Ðại Chúng
Bộ. Dầu chúng ta không biết chính xác về các bộ phái nầy,
chúng ta không nghi ngờ rằng Ðạo Phật đã đi vào giai đoạn phân
phái.
-
Tôi không thể không nghi rằng sự phân chia nầy là trách nhiệm
của các vị Trưởng Lão. Về sau nầy, tín đồ Ðại Thừa (Mahayana)
gọi Thượng Tọa Bộ là Tiểu Thừa (Hinayana), và mặc dầu chỉ là
một sự phỏng đoán cá nhân, tôi nghĩ rằng những vị trong Thượng
Tọa Bộ có thể bị gọi như vậy vì các Ngài đã bỏ quên tính chất
tinh thần năng động mạnh mẽ của Ðạo Phật thể hiện trong suốt
cuộc đời của Ðức Thích Ca Mâu Ni, tách mình ra ngoài quần
chúng, chìm đắm vào một thẩm quyền nhỏ nhặt. Theo tôi nghĩ,
nếu các Ngài đã không đánh mất một phần nào ánh sáng giáo pháp
của Ðức Thích Ca Mâu Ni, thì giáo hội đã không phân ly đến mức
độ như chúng ta thấy.
-
Tuy nhiên, nếu nhìn vấn đề dưới một quan điểm khác, có thể đó
là một tiến trình mà giáo hội phải trải qua, khi Giáo Pháp,
đầu tiên chỉ là một sở đắc cá nhân, Ðức Thích Ca Mâu Ni, trở
thành sở đắc của hàng triệu người. Chúng ta có thể nhìn vào
giai đoạn nầy như một sự triển nở hổn tạp và đau đớn, khi tất
cả những giải thích có thể chấp nhận bị đẩy lùi về phía trước,
để thay vào cái sáng sủa hơn, giống như một con sông lớn, giáo
pháp cần vươn tới với sức mạnh mới và niềm tin.
-
Nếu chúng ta khảo sát những sự kiện của kỳ Kết Tập Lần Thứ
Hai, chúng ta sẽ thấy rằng những tu sĩ Vajji khi đề nghị sự
giải thích lại của các Ngài về Mười Giới Ðiều, ít nhất là khi
bắt đầu đã không có ý định ly khai. Sự lộn xộn bắt đầu khi một
tu sĩ thuộc giới Trưởng Lão sau nầy du hành đến Vaishali (Tỳ
Xá Li) và thấy những tu sĩ Vajji nhận cúng dường tiền của giới
tại gia. Hoảng hốt và tức giận, vị tu sĩ nầy quyết định đặt
thành vấn đề.
-
Sự thọ lãnh của cúng dường bằng tiền bạc của Phật Tử tại gia
không có nghĩa là các tu sĩ Vajji (Bạc Kỳ) đã đi vào con đường
trụy lạc. Sau kỳ Kết Tập Lần Thứ Hai, như chúng ta thấy mười
ngàn vị tu sĩ nầy tổ chức một cuộc họp mặt riêng, chứng tỏ
rằng nhóm nầy rất rộng lớn hưng thịnh, được đa số quần chúng
ủng hộ. Sự việc nầy có thể khởi lên sự đố kỵ về phía các vị
Thượng Tọa Bộ.
-
Vaishali (Tỳ Xá Li) là một trung tâm dẫn đầu về thương mãi,
nằm trên trục giao thông mậu dịch giữa miền Bắc với thành phố
Xá Vệ (Savatthi) và miền Nam với Vương Xá (Rajagaya). Và chúng
ta có thể cho rằng những vị tu sĩ sống ở đó không có một chọn
lựa nào khác hơn là nhận của cúng dường bằng tiền bạc. So sánh
với thời đại Ðức Thích Ca Mâu Ni, đó là một thời kỳ mà nền
kinh tế về tiền đang phát triển rất nhanh chóng ở Ấn Ðộ. Và sự
việc rất tự nhiên là dân chúng ở Vaishali dâng cúng phẩm vật
cho chư Tăng bằng tiền hơn là thực phẩm. Nhìn dưới quan điểm
nầy, sự giải thích lại Mười Giới Ðiều có thể được coi như là
một cố gắng điều chỉnh lại những giới luật của Giáo Hội cho
phù hợp với những điều kiện mới của xã hội đương thời.
-
Thái độ của các vị Thượng Tọa Bộ đối với vấn đề, như chúng ta
thấy, là vô cùng độc đoán và thô bạo. Các Ngài tập họp tất cả
những vị tu sĩ lớn để xác nhận sự bất hợp pháp của những thay
đổi được đề nghị, và quy tội cho là trái luật. Còn chưa thỏa
mãn, các Ngài còn đi xa hơn, tuyên bố rằng các tu sĩ Vajji
(Bạt Kỳ) đã đưa ra đề nghị sửa đổi Mười Giới Ðiều không phải
là những đệ tử chân chính của Ðức Thích Ca Mâu Ni!
-
Trong quan điểm của những vị Thượng Toạ Bộ, những vị tu sĩ
Vajji là những người gây nên sự xáo trộn muốn phá vỡ sự phẳng
lặng của Giáo Hội. Họ đáng bị kết tội như Davadatta (Ðề Bà Ðạt
Ða), Người đệ tử đã làm lũng đoạn Giáo Ðoàn trong thời Ðức
Thích Ca Mâu Ni còn tại thế.
-
Tuy nhiên trong thực tế, hai trường hợp hoàn toàn khác nhau.
Devadatta đã có tham vọng thay thế Ðức Thích Ca Mâu Ni lãnh
đạo Giáo Ðoàn. Năm giáo điều mà Devadatta đề nghị sẽ mang đến
tính chất khổ hạnh khắt khe hơn trên Tăng Chúng, và mục đích
của ông ta khi đưa ra đề nghị rõ ràng là gây ấn tượng lên các
tu sĩ trẻ về lòng nhiệt thành với đạo của ông ta và được sự
ủng hộ của họ để ông có thể tự nâng mình lên như một vị Phật
mới lãnh đạo giáo đoàn của riêng ông. Ông đã cố ý tìm cách tạo
dựng một sự ly giáo và trở nên một người phá vỡ sự phẳng lặng
của Giáo Hội.
-
Tuy nhiên, những Tăng Sĩ Bạt Kỳ, không có ý làm chia rẽ Giáo
Ðoàn. Họ chỉ muốn điều chỉnh lại những lề luật cho thích hợp
với những tập quán địa phương và những điều kiện thay đổi của
xã hội như Ðức Thích Ca Mâu Ni đã chứng tỏ, áp dụng những
phương thức hành trì riêng trong tinh thần nguyên thủy của Ðạo
Phật do chính Ðức Thích Ca Mâu Ni dạy. Những vị Thượng Tọa Bộ,
do đặt nặng vấn đề, đã phóng đại sự việc đến chỗ xảy ra sự
phân hóa trong Giáo Ðoàn.
-
Thái độ giáo điều của những vị Thượng Tọa Bộ được phản ảnh
trong những Kinh điển của Theravada về sau. Cuộc Ðại Kết Tập
của Ðại Chúng Bộ đã được diễn ra với những lời như sau: Những
Tăng sĩ trong cuộc Ðại Kết Tập đã đưa ra những giáo pháp trái
ngược với Chánh Pháp. Họ đã phá bỏ những Kinh điển nguyên thủy
và đặt ra Kinh điển cho riêng họ. Họ lấy Kinh điển được ghi
chép ở chỗ nầy dời đi chỗ khác. . . họ cắt bỏ phần những Kinh
Ðiển và giới luật thâm sâu nhất và tạo ra những Kinh điển
tương tự hoặc hoàn toàn khác biệt trong một số trường hợp . .
. Họ bỏ những quy luật về từ, giống từ, cụm từ, ngữ pháp và
thêm vào những thứ khác.
-
Về sự lên án nặng nề nầy, một cuộc khảo sát về những văn bản
còn lại, như được đưa ra do một học giả Phật Giáo, ông Fumio
Masutani, cho thấy rằng không có những khác biệt nền tảng Kinh
Ðiển và giáo lý của hai nhóm. Có nghĩa là những Kinh điển của
cả hai phái Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ đều theo sự sắp xếp
bốn phần thấy trong những Kinh điển A Hàm (Agama) xưa. Chắc
chắn là không có sự khác biệt lớn lao như hai phái Tiểu Thừa
và Ðại Thừa về sau.
-
Có một điểm quan trọng cần nhấn mạnh về sự chia rẽ chính yếu
trong thời kỳ đầu. Như trong đoạn trích dẫn trên, những vấn đề
của sự đổ vỡ cho chúng ta thấy ở đây một hoàn cảnh tương tự
như được diễn ra trong lịch sử những tôn giáo Tây Phương, như
là sự mâu thuẩn giữa chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại
hoặc giữa chính thống và không chính thống.
-
Tuy nhiên những từ ngữ nầy theo ý tôi không mấy thích đáng. Ki
Tô Giáo Tây Phương , với sự kết án tà giáo với những cuộc lùng
bắt săn đuổi khi có một sự ly giáo, hai bên không mấy khi mà
không xảy ra bạo động và đổ máu, dùng mọi phương tiện để tiêu
diệt đối phương. Nhưng trong trường hợp Phật Giáo mặc dầu hai
bên tách ra như trong kỳ Kết Tập Lần Thứ Hai, không bên nào
tìm cách quấy phá phía bên kia, huống hồ là bạo động. Ðiều nầy
nói lên tinh thần khoan dung và tôn trọng sự sống của Ðạo
Phật.
-
Trên bề mặt, những vị Tăng thuộc phái Theravada (Thượng Tọa
Bộ) là những người giữ sự chính thống, còn những Tăng
Mahasanghika (Ðại Chúng Bộ) là những người dị giáo. Và nếu
chúng ta vẫn còn dùng những từ ngữ đó, chúng ta phải suy xét
xem nhóm nào mới thật sự được coi là tuân giữ tinh thần nguyên
thủy của Ðạo Phật hơn. Không phải những vị theo con đường lánh
xa xã hội, nhưng chính là những người dấn thân vào đám đông,
gánh chịu những khó khăn trong nỗ lực muốn cứu vớt nhiều
người, chắc chắn là những người chính thực được gọi là những
người bảo vệ truyền thống.
-
Lại với cách dùng từ thông thường, những vị Tăng Thượng Tọa Bộ
được coi như những người giáo điều và những vị Tăng Ðại Chúng
Bộ là những người xét lại. Một lần nữa, chúng ta xét nhóm nào
đã hành động gần gũi với tinh thần của Ðức Thích Ca Mâu Ni
hơn? Có phải thật sự Ngài là người giáo điều thủ cựu? Hay Ngài
thuộc trong số người xét lại, muốn loại bỏ những nguyên tắc mà
không cần thỏa hiệp? Ngài không phải là người đề xướng con
đường trung dung, vượt lên trên tính chất nhị nguyên đại biểu
bởi hai tính chất giáo điều và sửa sai? Con đường trung đạo
nầy đã tạo nên cốt lõi của Chân Lý mà Ngài đã đạt đến. Từ quan
điểm nầy, chúng ta thấy rõ ràng rằng việc lý luận cùn nhầy về
những chi tiết không đáng kể về những giới luật hay tranh luận
về việc ai là người thật sự gìn giữ sự chánh thống là một việc
làm trái xa nới tinh thần nguyên thủy của Ðạo Phật.
-
Phong Trào Khôi Phục Ý Nghĩa Nguyên Thủy Của Ðạo Phật:
-
Như chúng ta đã thấy, sự tách rời giữa Theravada (Thượng Tọa
Bộ)và Mahasanghika (Ðại Chúng Bộ) xảy ra không vì chỉ sự khác
nhau về giới luật, những cũng vì nhóm Thượng Tọa Bộ đã trở
thành một nhóm cô lập, chỉ chú trọng đời sống tu viện. Như
Teruhiro Watanabe và một số học giả khác nêu ra, những nhóm tu
sĩ liên quan với truyền thống Theravada chú trọng vào đời sống
tu viện và tách rời khỏi đời sống thông thường, bám giữ truyền
thống và đặc quyền. Những vị Tăng trong truyền thống Ðại
Chúng, ngược lại, nhấn mạnh vào sự quan trọng của việc hành
đạo trong quần chúng, dù có phải hy sinh những cơ hội giác ngộ
cho chính mình. Quan điểm nầy về sau dẫn đến một trào lưu biến
chuyển lớn là Mahayana(Phật Giáo Ðại Thừa), nhưng những triệu
chứng của những việc xảy ra rõ ràng đã có mặt trong những
khuynh hướng mà những Tăng sĩ Ðại Chúng Bộ hướng tới. Ðó là sự
khác biệt căn bản về quan điểm đã dẫn đến sự rạn nứt giữa hai
nhóm, chứ không phải do sự khác nhau trên bề mặt về sự giải
thích Mười Giới Cấm. Các Kinh điển Ðại Thừa hoàn toàn lên án
những vị gọi là Sa Môn hay Thanh Văn, và Bích Chi, những người
chỉ cố gắng giác ngộ cho riêng mình, những lời chỉ trích nầy
mục đích nhắm vào sự cách ly và rút khỏi thế gian của những
Tăng sĩ Thượng Tọa Bộ. Trong những nhóm kinh viện nầy, thời
gian xuất gia và số lượng Kinh Ðiển và giới luật mà một vị
Tăng thuộc lòng, quyết định quả vị cho vị Tăng đó có phải là
một vị A La Hán (Arhat) hay không.
-
Ngược lại với trường phái kinh viện nầy, những Kinh điển Ðại
Thừa nhấn mạnh vào tư tưởng Bồ Tát, những hành giả không chỉ
thực hành giáo pháp để riêng lợi cho bản thân (tự lợi), có
nghĩa là đạt đến giác ngộ cho riêng mình, nhưng là vì lợi ích
cho người khác (lợi tha), tích cực truyền bá Giáo Pháp trong
quần chúng.
-
Chúng ta thấy rõ ràng những vị sa môn trong thời kỳ nầy cực kỳ
bảo thủ. Mặc dầu người ta có thể nói rằng để cố gắng giữ gìn
Giáo Pháp của Ðức Thích Ca Mâu Ni người ta phải rút ra khỏi xã
hội, điều nầy không giúp ích gì trong việc truyền bá và làm
lớn mạnh Chánh Pháp. Một tôn giáo tự cô lập trong cách đó
không lâu sẽ đi và ngõ cụt, và như vậy Chánh Pháp sẽ không tồn
tục nơi những con người cố gắng thoát khỏi những đau đớn, khổ
sở và những giới hạn của sự chết nơi những đồng loại của họ,
hoặc là ngoan cố lãng quên chúng. Vì vậy việc tự nhiên là
những Tăng sĩ Ðại Thừa, được sự ủng hộ của quảng đại quần
chúng, đã xuất hiện với những đề nghị mới trong nỗ lực vượt
qua sự bế tắc.
-
Chúng ta nhớ lại rằng chính Ðức Thích Ca Mâu Ni cũng đã không
dùng hết thì giờ của Ngài để chỉ giảng dạy cho chư Tăng. Mặc
dù mỗi năm phải rút vào an cư trong mùa mưa, Ngài đã dùng phần
lớn cuộc đời Ngài truyền bá Giáo Pháp trong quần chúng để mọi
người có thể đạt đến giác ngộ. Nếu Giáo Pháp của Ðức Thích Ca
Mâu Ni chỉ hướng đến những thành phần trong tu viện, Ðạo Phật
đã chẳng bao giờ trở thành một tôn giáo toàn cầu.
-
Ngay từ khi Ðức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, các Tăng sĩ, sau
khi đã được Ngài đào tạo đến mức độ nào đó, thường được phân
tán đi các địa phương để dấn thân vào việc truyền bá Giáo
Pháp. Lấy một thí dụ, Phú Lâu Na (Purna), một trong số những
cao đồ của Ðức Phật, đến từ một thị trấn vùng biển miền Tây Ấn
Ðộ, nhận chỉ thị của Ðức Thích Ca Mâu Ni trở về quê hương
mình, nơi đây Ngài đã sống đến hết cuộc đời để truyền bá tín
ngưỡng. Vì lý do đó, Ngài đã không thể có mặt trong ngày nhập
diệt của Ðức Phật hay trong kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất. Có tài
liệu đi xa hơn nói rằng sau nầy, khi Ngài trở về thành Vương
Xá (Rajagaha ), Tăng đoàn ở đây yêu cầu Ngài chuẩn nhận giáo
pháp được kết tập trong Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhứt, Ngài từ chối.
-
Về vấn đề nầy, có một giai thoại rất thú vị được Ngài Huyền
Trang kể lại khi Ngài viếng Ấn Ðộ vào giữa thế kỷ thứ bảy.
Theo Ngài thuật lại, sự thực có hai nhóm kết tập trong thời
gian Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất. Nhóm thứ nhứt gồm năm trăm vị
trưởng lão do Ngài Mahakasyapa (Ma Ha Ca Diếp) cầm đầu tựu tập
trong động Saptaparna và kết tập một hệ thống Kinh điển. Nhưng
còn một số Tăng chúng hội họp bên ngoài động kết tập một số hệ
thống Kinh điển riêng. Những vị trưởng Lão, như chúng ta biết,
tập trung sự chú trọng vào giới luật, trong hệ Kinh điển của
nhóm bên ngoài phản ảnh sự không thỏa mãn với phạm vi nhỏ hẹp
đó, và đã đặt nền tảng cho cái mà sau nầy trở thành Ðại Chúng
Bộ.
-
Ðiều nầy chứng tỏ rằng, hệ thống Kinh điển đầu vì được soạn ra
chỉ với mục đích chính là đáp ứng nhu cầu của tập thể trong tu
viện, rất khó cho những vị trong Giáo Ðoàn có khuynh hướng
sống và làm việc trong quần chúng chấp nhận. Như vậy, chúng ta
có thể phỏng đoán rằng những điều kiện đem đến việc kết tập
của Kinh điển Ðại Thừa về sau trong một mức độ nào đó đã có
mặt trong thời gian có Kỳ Kết Tập Lần Thứ Nhất.
-
Những tiêu chuẩn và giới luật khác nhau rõ ràng là cần thiết
cho những nhóm khác nhau trong cộng đồng Phật Giáo. Nhiệm vụ
của các vị Tỳ Kheo là gìn giữ và trao truyền đúng giáo pháp,
và trong sự trao đổi để làm tròn trọng trách nầy họ đã được sự
ủng hộ của giới cư sĩ. Vì vậy, điều tự nhiên là những tín đồ
tại gia kỳ vọng giới tu sĩ đúng giới luật và hết mình trong sự
tu tập.
-
Mặt khác, giới cư sĩ không cần thiết phải tuân theo những giới
luật khó khăn như vậy. Dĩ nhiên có những bổn phận mà người tín
đồ Ðạo Phật và những thành viên trong xã hội phải tuân theo,
nhưng không thể đòi hỏi nhiều những giới luật phức tạp dành
cho giới tu sĩ. Không cần phải nghi ngờ rằng điều nầy cũng là
một nguyên nhân dẫn đến những sự khác biệt tế nhị trong quan
điểm của Thượng Tọa Bộ, tập trung vào đời sống tu viện, và Ðại
Chúng Bộ, giữ sự liên hệ gần gũi với cộng đồng tại gia.
-
Không những chỉ giới luật, nhưng cách thức hiểu về giáo lý
Phật Ðà cũng có điểm khác nhau giữa Tăng sĩ và tín đồ tại gia.
Những vị Sa Môn là những đệ tử có cơ hội được trực tiếp nghe
những giáo pháp của Ðức Phật và không ngừng dấn thân vào việc
kiện toàn tri thức và đạo hạnh của mình. Sau khi Ðức Phật nhập
diệt, có thể họ đã tiếp tục tu học dưới sự hướng dẫn của những
Tăng sĩ lớn hơn đã được trực tiếp nghe giáo pháp từ Ðức Phật.
Ðối với những vị nầy, số lượng những Kinh điển và giới luật
được học thuộc lòng, đánh dấu sự tiến bộ trên đường tu học của
họ.
-
Ðối với người tín đồ tại gia bình thường, chỉ một lời, một câu
của Ðức Phật phải là phương tiện cho sự giải thoát. Ngay cả
trong khi Phật còn tại thế, đã có nhiều tín đồ tại gia không
bao giờ được nghe giáo pháp trực tiếp từ Ðức Phật, tuy nhiên
họ thực hành lời dạy của Ngài được truyền đến họ từ những
người khác, lấy đó làm nơi nương tựa duy nhất cho đời sống của
họ. Vấn đề không phải là bao nhiêu Kinh điển họ biết đến,
nhưng vấn đề là họ đã giữ và làm tròn tinh thần của Giáo Pháp
như thế nào trong đời sống hàng ngày.
-
Ðức Thích Ca Mâu Ni biết tầm quan trọng về trách nhiệm của
giáo chúng tu sĩ trong việc duy trì và quảng bá giáo pháp của
Ngài sau khi Ngài nhập diệt, chắc chắn đã đặt ra những giới
luật cho giới Tăng sĩ một cách nghiêm nhặt. Nhưng trong những
năm sau khi Ngài nhập diệt, giới Tăng sĩ dường như đã đánh mất
tầm nhìn rằng giới luật chỉ có mục đích giữ sức mạnh cho Giáo
Ðoàn và không phải là điểm cuối cùng của Tăng sĩ. Thay vì đi
vào quần chúng để quảng bá thông điệp của Ðạo Phật, các Ngài
rút lui khỏi xã hội và hoàn toàn tập trung vào sự giác ngộ cho
riêng mình và tu tập cho riêng mình. Vì tình trạng thảm hại đó
mà Ðại Chúng Bộ ra đời.
-
Phong trào nầy có thể được trình bày như là một cố gắng trở về
ý nghĩa nguyên thủy của Ðạo Phật như chính Ðức Thích Ca Mâu Ni
đã nêu ra. Như chúng ta nhấn mạnh ở trước, sự rạn nứt giữa
Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ không nên được diễn tả bằng
những từ ngữ của những sự tranh chấp giữa phái chính thống và
không chính thống. Trong đạo Phật mọi phong trào canh tân đều
khởi sự từ tinh thần cố gắng quay về những nền tảng cơ sở của
đạo. Những cuộc vận động như vậy khởi sự từ thiểu số nhỏ trong
toàn bộ, nhưng nếu họ thành tựu trong nỗ lực trở về với những
nguyên lý nền tảng của giáo pháp, họ sẽ tạo được tác động khi
có đa số ủng hộ. Vận mạng của Ðạo Phật nằm ở khả năng nắm giữ
lại những nền tảng cơ sở nầy và áp dụng chúng một cách đúng
đắn vào việc thực hành.
-
Ðâu là mục đích của Ðức Thích Ca Mâu Ni khi Ngài dấn thân suốt
năm mươi năm cuộc đời để giảng dạy Giáo Pháp? Chính là để đem
đến giải thoát cho mọi người không phân biệt nam nữ và giải
phóng họ khỏi những nỗi khổ của sinh, già, bịnh, chết. Một vị
tu sĩ, không bao giờ quên điều thiết yếu nầy, phải quyết định
hy sinh bản thân mình cho lợi ích của nhân loại. Ðây là tinh
thần, như chúng ta đều thấy, về sau được nói rõ trong Phật
Giáo Ðại Thừa.
|