Những Phụ Nữ Thiên Tài
Trúc Giao
--o0o--
 
Xã hội Việt Nam xưa kia là một xã hội phong kiến, một xã hội trọng nam khinh nữ cho nên có câu:                                               
- Nhất nam viết hữu
Thập nữ viết vô
Nghĩa là:
- Trong một gia đình, dầu cho có một người trai cũng được coi là gia đình có người nối dõi tông đường.
Trong khi đó nếu là một gia đình có mười người con gái cũng không được coi là thành phần nối dõi tông đường.
Thế nhưng cái sơ suất của xã hội, của lịch sử lại là những bằng chứng hùng hồn, chứng minh cho chúng ta thấy văn tài của các bà xuất sắc như thế nào. Cũng vì vậy mà mấy chục năm qua, trên các báo và tạp chí văn học đã có nhiều bài viết, và giới thiệu về những người phụ nữ tài danh đó. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của các bà mặc dầu đã được trong giới văn học đề cập từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều khía cạnh cần tìm hiểu khai thác. Trong số những bậc nữ lưu tài danh được nhắc nhnhiều trên văn thi đàn thì có: Bà Huyện Thanh Quan, Ðòan Thị Ðiểm, Hồ Xuân Hương:
I- Bà Huyện Thanh Quan
Theo như tài liệu cho biết chồng Bà Huyện Thanh Quan là ông Lưu Nghị, người làng Nguyệt Áng, Thanh Trì Hà Nội, đỗ cử nhân năm Tân Tỵ(1921) đời Minh Mạng, thân sinh ra bà là ông Nho Dương, tức Nguyễn Lý(1755-1837) người làng Nghi Tàm, Từ Liêm Hà Nội. Ông nầy thi đỗ thủ khoa 1783 dưới đời Vua Lê Cảnh Hưng, từng làm Ðốc Học Sơn Tây và Hải Dương, năm 1819 làm giám khảo kỳ thi Hương mở ở  Thăng Long. Ông là học trò của Phạm Qúy Thích, một học thần triều Lê được trọng dụng và phải làm quan triều Nguyễn. Nhưng không ai biết bà Huyện Thanh Quan tên thật là gì? Sinh mất năm nào. Ngay cái tên bà Huyện Thanh Quan có được, cũng chỉ vì chồng bà từng làm tri huyện, huyện Thanh Quan, nay là huyện Thái Ninh, Thái Bình. Cũng có thuyết cho rằng tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh, tuy nhiên chưa thật sự khẳng định được. Có biết qua rằng, bà làm cung trung giáo tập thời Tự Ðức. Có truyền thuyết cho rằng vì bà phê một vài câu vào lá đơn mà chồng bà mất chức, phê rằng:
            - Phó cho con Nguyễn Thị Ðào
            Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai
            Chữ rằng Xuân bất tái lai
            Mau về kiếm chút kẻo mai nữa già.
Có người cho rằng, nếu so thiên tài của ba bậc nữ lưu tài danh thì di sản văn học của Bà Huyện Thanh Quan khiêm tốn hơn nhiều. Bà chỉ để lại sáu bài thơ nôm thể Ðường Luật. Như trên đã nói, thơ của bà có một phong vị riêng không thể không biết đến. Nếu phải kể tên mười thi sĩ lớn nhất của Việt Nam từ cổ chí kim, thì có lẽ không có bà. Nhưng nếu phải kể vài mươi bài thơ hay nhất, chắc chắn có thơ bà. Thơ bà đài các sang trọng du dương giàu thiên nhiên, tinh xảo và man mác một nỗi buồn hoài cổ. Có người cho rằng, sdĩ thơ bà như thế là vì bà ảnh hưng thái độ nhớ tiếc nhà Lê của cha, và Phạm Qúy Thích như bài thơ Chiều Trên Ðèo Ngang đã nói lên cảnh thiên nhiên, trong thơ bà có cái đẹp của tâm sự cô đơn:
- Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Hay:
- Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn..
Có thế mới hiểu được vì sao bà chỉ có nhớ những:
- Lối xưa xe ngựa,
- Nền cũ lâu đài...
Bà chỉ để lại cho đời sáu bài thơ ngắn, thế mà tên tuổi còn mãi với thời gian..
II- Ðoàn Thị Ðiểm
            Bà Ðoàn Thị Ðiểm sinh năm 1705, mất năm 1748, hưng dương 43 tuổi. Biệt hiệu là Hồng Hà Nừ Sĩ, nổi tiếng đẹp người đẹp nết, quê Giả Phạm, Văn Giang, Hưng Yên cũ, ngày nay là Hải Hưng. Bà là em ruột tiến sĩ Ðoàn Doãn Luân. Bà nhận lời lấy lẻ ông Nguyễn Kiều, năm đó bà 38 tuổi(1743). Một tháng sau đó Nguyễn Kiều đi sứ sang Trung Quốc đến năm 1745 mới về. Phải chăng bà đã đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ của Ðặng Trần Côn, và đã diễn nôm Chinh Phụ Ngâm trong thời gian nầy? Cũng có giả thuyết cho rằng tác phẩm diễn âm đó của Phan Huy Ích (1750-1872), nhưng chưa có chứng cớ. Chúng ta còn biết bà rất giỏi chữ nho. Chuyện kể rằng: Vào một tối Ðoàn Doãn Luân đang dạo chơi trên bờ ao, nhìn qua cửa sổ thấy em gái mình đang trang điểm, Ông anh liền đọc một câu để trêu em:
            - Chiếu kính họa mi,
Nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Nghĩa là:
- Soi gương vẽ lông mày
Một cô Ðiểm thành hai cô Ðiểm.
Ai ngờ cô em gái đối lại môt câu hay hơn:
- Biên trì ngoạn nguyệt,
Nhất luân chuyển tác song luân.
Nghĩa là:
- Bên ao ngắm trăng
Một anh Luân thành ra hai anh Luân.
Chuyện cũng kể rằng lúc bà còn trẻ, Trạng Quỳnh lúc đó là một học sinh tinh nghịch, thường chọc ghẹo bà. Một hôm thấy bà vào buồng tắm, nhà vắng, Quỳnh nghịch ngợm gõ cửa đòi vào. Bà vốn hay chữ, tức cảnh ra ngay một vế đối, bảo Quỳnh đối được thì cho vào. Câu đối như sau:
- Da trắng vỗ bì bạch
Theo chữ hán thì bì có nghĩa là da, và bạch có nghĩa là trắng. Vậy: Bì bạch có nghĩa là da trắng, mà câu đối lại là:
- Da trắng vỗ bì bạch.
            Quỳnh nghĩ nát óc vẫn không tìm ra câu để đối, đành lủi thủi bỏ đi nhưng nghĩ bụng sẽ tìm dịp lỡm lại Thị Ðiểm. Vì vậy một lần khác, Quỳnh ngồi đối diện với bà qua cửa sổ, biết Quỳnh đang có ý trêu chọc, bà liền ra câu đối khác:
            - Hai người ngồi song song hai cửa sổ
            Song là hai, song cũng có nghĩa là song cửa. Lại mộ lần nữa, gặp câu quá hóc búa, Quỳnh bí quá không đối được, đành lãng ra chỗ khác, rút lui có trật tự. Cũng từ hai câu đối nầy mãi cho đến năm 1966 nghe nói là Thượng Tọa Thích Pháp Lan có đối lại câu:
            - Lưỡi đỏ ngó thiệt hồng.  
            Thiệt có nghĩa là lưỡi. Màu hồng cũng cùng loại với đỏ. Và một vế đối khác không rõ tên tác giả:
            - Trời xanh màu thiên thanh.
            Thiên là trời, thanh là màu xanh. Kể ra hai câu đối nầy so với câu đối của bà Ðiểm không đến nỗi tệ lắm. Nhưng Trạng Quỳnh thua trí chỉ vì tài ứng biến của bà quá nhanh.
 Chuyện cũng kể rằng, có lần bà đón sứ nhà Thanh, viên sứ nầy vừa kiêu ngạo, vừa có vẻ khinh nước ta nhỏ, nên xỏ lá đã ra vế đối:
- An Nam nhất thốn thổ
Bất tri kỷ nhân canh
Nghĩa là:
- An Nam một tấc đất
Không biết bao nhiêu người cày.
Bà lập tức trả lời và cũng đáo để không kém:
- Bắc Quốc chi đại phu
Giai do thử đồ xuất
Nghĩa là:
- Tất cả các quan lớn của đất Bắc
Ðều do đó mà ra.
Nghe bà đối lại như vậy sứ nhà Thanh đành câm miệng.
Về cuộc đời văn nghiệp thì theo Ðoàn Thị Thực Lực, nữ sĩ Ðòan Thị Ðiểm có ba truyện ngắn bằng hán văn là:
- Vân Cát Nữ Thần
- Hải Khẩu Linh Từ
- An Ấp Liệt Nữ.
Truyền Kỳ Tân Phả cũng xác nhận điều nầy, Bà cũng có vài trăm bài thơ xướng họa với anh, chồng và các danh sĩ đương thời. Nhưng Chinh Phụ Ngâm Khúc diễn ca mới là đỉnh quang vinh của bà.
Nói về Chinh Phụ Ngâm Khúc nguyên tác là của Ðặng Trần Côn đã là một tác phẩm rất nổi tiếng đương thời. Nó gồm 470 câu dài ngắn xen nhau tự do, không câu nệ niêm luật. Ðặng Trần Côn đã vận dụng rộng rãi và nhuần nhị tinh hoa của nhạc phủ, đường thi một cách rất linh hoạt trong tác phẩm của mình. Bản diễn âm của Ðòan Thị Ðiểm, theo thơ song thất lục bát, ngắn hơn nguyên tác 62 câu. Xin được trích dẫn một đoạn diễn tả Cảnh Biệt Ly:
- Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khây
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng...
..............
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa tìm cõi thiên san
Múa gươm, rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa dáng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà Lương chia rẽ đường nầy
Bên đường trông bóng cờ bay bùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài doanh liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo trùng dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu Dương biết thiếp đoạn trường nầy chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cù chiếu chăn
Ðoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn mầu mây biếc, trải ngàn núi xanh
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng?
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy hàng dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai.?
Qua tinh thần đoạn văn diễn nôm trên chúng ta thấy không những bà đã truyền đạt được trung thành nội dung và tinh thần của nguyên tác, mà còn chứng tỏ một tài nghệ vô song trong nghệ thuật gieo vần, ngắt nhịp phối thanh. Có thể nói Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca là một áng thơ tao nhã bất hủ. Từ cổ chí kim, nó vẫn là khúc ngâm hay nhất đầy tính nhân đạo trước thân phận của chinh phu chinh phụ.       
III- Hồ Xuân Hương
Ở cái thời mà những người phụ nữ không được coi trọng, thì ngay cả những bậc nữ lưu tài danh cũng chịu rất nhiều thiệt thòi. Ðây là lý do có thể lý giải những thất lạc tư liệu về cuộc đời và sáng tác của các bậc nữ lưu tài danh. Người đời sau có thể biết rõ về người bạn thơ cùng thời của Hồ Xuân Hương là Chiêu Hồ, tức là Phạm Ðình Hồ, tác giả Vũ Trung Tùy bút, sinh năm 1768, mất năm 1839 biết đền thờ ông Cai Tổng Cóc, người chồng mà ngay cả Hồ Xuân Hương cũng không muốn nhớ:
            - Chàng Cóc ơi! chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng không chuộc dấu bôi vôi
            Thế mà lại không biết Hồ Xuân Hương sinh năm nào và mất năm nào và sáng tác vào giai đoạn nào trong cuộc đời kéo dài từ thời cuối Lê, qua Tây Sơn sang đầu nhà Nguyễn của mình?
            Có sách thì nói bà là con của Hồ Phi Diễn ở làng Quỳnh Ðôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An cũ, nay là Nghê Tĩnh. Có người đồn rằng bà là con của ông Hồ Sĩ Danh. Mà hai người nầy ngược lên mười đời cùng một ông tổ. Lại nữa cho đến nay, nhiều bài thơ nôm của bà còn nhiều nghi vấn không biết có phải đích thực do bà sáng tác hay không? Và tác phẩm Lưu Hương Ký viết bằng chữ Hán thì chưa tìm được một mối liên hệ nào với phần thơ nôm của bà, ngoài bài tựa của Nham Giác Phu Tốn Phong Thị, mà cho đến bây giờ chưa rõ là ai. Ngay cả cũng không rõ trong hai người: ông Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh Tường ai là chồng trước của Bà? Người ta chỉ biết qua rằng Bà sinh và lớn lên Hà Nội, nhà Phường Khán Xuân, Huyện Vĩnh Thuận, trông xuống Tây Hồ, sau ra thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, bây giờ là Phố Lý Quốc Sư.
Khác với hầu hết các danh sĩ đương thời, cảm quan và nghệ thuật của Hồ Xuân Hương nghiêng về phía bình dân. Bên trong cái đường luật thuần thục, thơ bà đầy ứ hồn nhân gian. Chữ nghĩa của bà sống động như cuộc sống hằng ngày, nó chưa hề bị mài mòn chút nào trong cái nghiên mực phòng văn kinh viện, nó biến hóa khôn lường bi tất cả sự éo le, kỳ lạ, hiểm hóc của trò đố chữ nhân gian. Bà hoàn toàn là người đại sứ đặc mệnh toàn quyền về các khía cạnh:
a- Thân Phận Phụ Nữ Trong Thời Phong Kiến:
Có thể mạnh dạn nói rằng bà là người đầu tiên đưa vào văn học vấn đề thân phận người phụ nữ trong đời thường, vấn đề hạnh phúc cá nhân một cách mãnh liệt như thế. Và do đó tư tưng nghệ thuật của bà rất lớn:
- Của em bưng bít vãn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc
Ðêm thanh tỏm cắc một đôi hồi
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi
Nhắn nhủ ai về thương lấy với
Thịt da ai cũng thế mà thôi
            (Hồ Xuân Hương - Cái Trống Thủng)
b- Những Ðóng Góp Của Vai Trò Người Phụ Nữ
Theo tài liệu cho chúng ta biết bà có liên hệ tình cảm với những người đàn ông như: Lão Quyền Chưng Vệ, Cụ Nghè Hoàng, Thận Trung, Tổng Kình tên thật là Nguyễn Văn Hòa, tục gọi là Tổng Cóc và ông Tri Phủ Vĩnh Tường. Trong số những người đàn ông nầy chúng ta thấy có nhiều người có quyền tước, địa vị trong xã hội. Vì thế mặc dầu bà là phụ nữ trong thời phong kiến, nhưng với tài năng sẵn có, có lè bà cũng đã đóng góp ít nhiều trên đường quan nghiệp của chồng:
- .... Hẹn rằng đấu trí mà chơi
Cấm ngoại thủy không ai được ngó
Quân thiếp trắng, quân chàng đen
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lữa
Mới thoạt vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
Hai xe hà chàng gát hai bên
Thiếp sợ bí thiếp liền nghểnh sĩ
Chàng lừa thiếp đang cơn bất ý
Ðem tốt đầu dú dí vô cung
Thiếp đang mắc nước xe lồng
Thì nước pháo đà nổ đùng tới chiếu
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
Thua thì thua quyết níu lấy con
Khi vui nước nước non non
Khi buồn lại gi bàn son quân ngà...
            (Hồ Xuân Hương - Ðánh Cờ Người)
            c- Tâm Sự Người Ðàn Bà Chung Chồng
Xã hội Việt Nam thời xưa là một xã hội đa thê, vì thế mà dầu cho tài danh đến đâu cũng không tránh khỏi thân phận của nữ lưu trong thời phong kiến. Bà chính là người không thích cảnh lấy chồng chung, nhưng rốt cuộc cũng không thoát cảnh đời như thế. Chính bà cũng thừa nhận diều nầy. Quả nhiên ghét của nào trời trao của nấy, phương ngôn nói không sai. Thế là tạo hóa liền bắt bà phải làm lẽ một lão vũ phu thô tục. Bà riễu người ta thà vậy, đến lúc cuộc đời của bà muốn vậy cũng không thể được, cái gia pháp oái oăm vần cứ dúi bà đi không để cho bà yên. Bà cười người ta làm mướn không công, nhưng đến phận bà đi năm sáu tháng ròng vẫn tr ra hai bàn tay trắng:... Khen cho tạo hóa khéo trêu người. Bà đã trải qua nhiều nguyền rủa kiếp lẽ mọn:
- Kẻ đắp chăng bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
            Năm thì mười họa, nên chăng chớ
            Một tháng đôi lần, có cũng không
            Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng
            Cầm bằng làm mướn, mướn không công
            Thân nầy ví biết nhường nầy nhỉ
            Thà trước thôi đành vậy xong.
            d- Giai Thoại Về Hồ Xuân Hương:
            Như có lần đã nói, thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước sau gì vẫn luôn luôn được nhiều giới ái mộ cũng có, mà bàn tán chê khen cũng có. Theo giai thoại về Hồ Xuân Hương có kể rằng trong lúc trà dư tửu hậu, với sự có mặt của các ông: Chiêu Bảy, Chiêu Tám, Cụ Nghè Phạm, Cụ Nghè Hoàng, và một số đông học trò cùng lắng nghe lời bình phẩm của ông Cống Thiều về bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương:
            - Khi canh cửi lúc ngồi thong thả
            Ngẫm sự đời buồn bã gớm ghê
            Âm dương lấy đấy mà suy
            Côn trùng cũng có huống chi loài người
            Gớm rác tai, nhưng lời trò chuyện
            Khéo đặt điều nói đến những câu.
            Nghe đến đây cả đám học trò ngồi ngoài lầm rầm bảo nhau:
            - Như vậy thì có gì là quá đáng đâu mà mọi người lên án dữ quá vậy.
            Hai ông Nghè vẫn tiếp tục lắng nghe, và Ông Chiêu Bảy vẫn chúm chím cười thầm, ông Cống Thiều nghĩ trong giây lát lại tiếp:
            - Chém cha cái số hồng trần
            Nghĩ đến càng thêm lắm nỗi sầu
            Dệt cửi quăng đi còn có lẽ
            Gieo thoi ném lại chuyện không đâu
            Ðến đây Ông Chiêu Tám xen vào:
            - Mấy câu đây chắc cô ả muốn than về chuyện chồng ruồng rẫy! được văn chương kể ra cũng lưu loát.
            Ông Cống Thiều vẫn đọc:
            - Gớm thay!
            Gan người, dạ thế, sâu khôn xiết
            Phao lên rằng tít tịt chi chi
            Tai thấp thoáng bụng hồ nghi
            Rành rành chẳng biết cái gì mọc đây.
            Hai ông Chiêu cười ngặt nghẽo. Cụ Hoàng xua tay bảo ông Cống Thiều đừng đọc nữa, nhưng ông Cống Thiều cứ đọc:
            - Cơn vắng vẻ mặt dày ngắm lại
            Lúc buồn tình tay gãi đã quen
            Rành rành múi mít đôi bên
            Lùm lùm trai úp là miền hạ thôn.
            Ông Chiêu Tám vẫn tủm tỉm cười:
            - Tục quá! Không trách các cụ bảo đem đi đốt cũng phải. Văn chương gì mà tục đến thế!
Ông Chiêu Bảy vội bênh với giọng cười cợt:
- Cố nhiên nó tục, nhưng ông nên biết cho người ta rằng: Ðó là bài Tự Tình cốt để nói lên cái thân phận của người ta. Không phải là Kinh, là Truyện, là Thiên Gia Huán. Vả lại mấy câu nầy tuy tục nhưng  chỉ ý tục, chớ lời không tục, cùng còn có thể tha thứ.
Hai cụ Nghè ngồi im, ông Chiêu Tám chỉ cười không đáp. Ông Chiêu Bảy nói tiếp:
- Người đời trừ những bậc thần tiên, ai mà không tục. Tôi rất phục câu nói ông Trương Sưng: Trong chốn khuê phòng, tình riêng vợ chồng, còn có việc tệ hơn là vẽ lông mày cho vơ. Bị Vua hỏi đến việc vẽ lông mày cho vợ, mà ông ta dám nói như thế. Kể cũng thật thà và can đảm lắm. Tôi không hiểu người ta luôn luôn làm việc tục mà văn chương lại ghét ý tục? Thánh hiền có dạy thế đâu!
Cụ Nghè Hoàng vùng vằng đứng dậy đi vào nhà trong. Ông Cống Thiều cao giọng ngâm nga:
- Cỏ rêu mọc xanh om cửa tía
Lá cờ bay đỏ khé song đào
Môi dày, miệng rộng, trán cao
Ðúng trong tướng pháp anh hào nghi dung.
Nghe đến đây, nhà trong nhà ngoài, tiếng cười rầm rĩ, tưng như xô cả mái ngói. Ông Chiêu Bảy vỗ tay bảo ông Chiêu Tám:
- Ðoạn nầy chắc nó muốn xỏ lão Quyền Chưng Vệ: Môi dày, miệng rộng, trán cao, thật là mặt ông Quyền Chưng Vệ, không sai một chút. Ừ, một người tài tình như thế, vô cơ lại bi ông kia hỏi lấy một cách ép uổng, rồi lại vu cáo cho cái tiếng ái nam để mà đuổi. Như vậy nó tức là phải?
Rồi ông Chiêu Bảy giục ông Cống Thiều:
- Ông cho nghe tiếp đoạn dưới.
Nhưng ông Cống Thiều vì cười nhiều quá, phát nấc, không đọc được nữa. Ông Cống Minh cầm quyển thơ đọc thay:
- Ấy rõ thật là ....
Mới được bốn chữ, ông nầy đã cười sằng sặc, không thể đọc tiếp. Một lát sau cơn cười hơi tan, ông ấy mới bưng miệng đọc nốt:
- Ấy rõ thật lá vông rầy rầy
Bằng lương nhân trông thấy cũng ghê
Há như lá ...
Cơn cười sằng sặc lại nổi lên, ông Cống Minh lại phải nghĩ đọc. Lâu lâu, ông ấy lại bưng miệng đọc tiếp:
- Há như lá ... tróc lá tre
Mà cười mà ngắm mà kề mà hôn?
Ông Chiêu Tám lắc đầu:
- Ðểu quá. Nó xỏ lão Quyền Chưng Vệ đau quá.
Ông Cống Minh Ngân giọng:
- Của trời cho xinh giòn là thế
Người ta còn ỏe họe rằng không
Nín thì tức, nói thẹn thùng
Phải đồ bán chợ mà hòng phô trương?
Mà dãi thẻ như phường tơ kén?
Vén màn quần bày biện đồ ra
Ðể cho những khách gần xa
Thử xem cho biết rằng là có không?
Ông Bảy Chiêu vỗ đùi:
- Nghe đoạn nầy toàn là một giọng oán tức. Ừ, bỗng không lại bị đeo tiếng ái nam, ai mà chịu được. Mình gặp nước ấy, mình còn nói tục bằng mười!
Cụ Nghè Phạm hằm hằm đứng lên vào nốt nhà trong. Ông Cống Minh càng ngân nga dài giọng:
- Nhưng mà lại vào dòng quý tướng
Bộ râu xồm quai nón phất phơ
Hai Ông Chiêu lại cùng cười như nắc nẻ:
- Nó vè ra mặt ông Quyền Chưng Vệ, ông ấy nghe thấy bài thơ nầy, không khéo sẽ tức mà chết.
Ông Cống Minh vẫn tiếp tục không dừng:
- Màn quần che kín sớm trưa
Tuyết sương chẳng quản, nắng mưa chẳng từng
Hoặc có lúc hớ hênh khuya sớm
Cho người nào ghé trộm thì hay
Ví bằng đem để sánh bày
Thất kinh vía quỷ, xa bay hồn phàm.
Nhân nay buổi thanh nhàn thư thái
Chép vài hàng nhắn gi nước non
Cậy ai phán bảo ôn tồn
Nên tin rằng có, chớ đồn rằng không
Ðời đã thiếu anh hùng cát sĩ
Cửa phòng thu để hé cho ai
Tư tình ta viết ra chơi
Không không, có có, miệng người xá chi.
Ông Chiêu Bảy cau mặt:
- Ðoạn kết láo quá, đáng đánh đòn!
Tan cuộc bình văn, những người học trò lẻ tẻ ra về. Hai ông Chiêu và mấy ông cống trịnh trọng vào trong từ biệt cụ Nghè, các cụ vẫn chưa nguôi cơn giận, không thèm nói một câu nào cả.
Cũng theo Trong Rừng Nho, giai thoại về Hồ Xuân Hương, lúc Thận Trung đọc thơ, thì Hồ Xuân Hương bảo rằng:
- Ông xem thơ thì cứ việc xem thơ, không được nói ra chuyện gì khác.
Thận Trung nín hồi lâu, chàng cầm ấm nước rót lấy một chén nhấp giọng, rồi vớ lấy cuốn thơ gi ra một bài giữa:
- Cái Quạt! à thử xem thơ cái quạt ra sao.
Rồi chàng đọc luôn:
- Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Chàng cau mặt nhưng không nói gì, và cứ tiếp tục đọc:
- Duyên em dính dáng tự ngày xưa
Vành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại, đôi bên thịt vần thừa
Chàng lắc đầu le lưỡi mà rằng:
- Thơ vịnh cái quạt mà đến thế nầy thật là kỳ quái, không trách người ta khiếp cũng phải.
Chàng lại đọc tiếp:
- Mát mặt anh hùng khi nắng gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa!
Chàng bỗng quăng tọt cuốn thơ xuống ghế và cười khanh khách:
- Sao cô chua thế h cô. Cô có thù gì với bọn anh hùng quân tử mà nỡ nói đê, nói nhục họ thế? Vành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa, thế mà tiếp đến mát mặt anh hùng khi nắng gió, che đầu quân tử lúc sa mưa, thì đầu quân tử và mặt anh hùng còn ra thể thống gì nừa. Cô thật chua ngoa vô cùng.
Chàng lại quay vào tập thơ và đọc nốt hai câu cuối cùng:
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
Lại n một nụ cười trên cặp môi chúm chím, chàng liếc mắt nhìn nàng:
- Người trong trương là ai? Có phải ông râu rậm mắt sâu hay không?
Xuân Hương sầm nét mặt:
- Ông đừng nhắc đến chuyến ấy, tôi muốn vùi dập nó xuống đất đen, không khi nào bới nó lên nữa. Lão Quyền Chưng Vệ với tôi, cũng như tôi với cụ Nghè Hoàng khác một điều là, cụ Nghè Hoàng không thấy mặt tôi, lão đó thì vài ngày lại được ngó tôi một lần. Ấy lúc tôi lấy lão tình duyên chỉ có thế thôi.
Chúng ta thấy trong giai thoại bàn về Cái Quạt, cách xưng hô giữa bà Hồ Xuân Hương với ông Thận Trung lúc ấy làm cho chúng ta đoán là hai người mới làm quen và đang quen và vì vậy sau bài thơ Cái Quạt chúng ta còn thấy có bài thơ Vịnh Cái Quạt. Có lè đây là chứng tích cuộc tình duyên giữa Hồ Xuân Hương và Thận Trung sau khi làm quen. Có lẽ lúc đó anh ta chưa biết Hồ Xuân Hương bao nhiêu tuổi cho nên anh chàng ta hỏi:
- Mười bảy hay là mười tám đây
 Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày chừng ấy chành ba góc
Rộng hẹp dường nào cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu càng mát nấy
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu Vua yêu cùng cái nầy.
            (Hồ Xuân Hương - Vịnh Cái Quạt)
Và rồi Xuân Hương và Thận Trung tr nên duyên chồng vơ. Khi hai người dạo chơi, đi đến chõ giáp giới của hai xứ Sơn Nam và Thanh Hóa. Hai bên hai cái sườn núi giáp nhau, giống như hai trái đùi, giữa có một giòng nước rất đẹp, hình thể coi cũng lạ lùng. Trông tấm đá đỉnh núi có vết chữ đục, nhìn kỹ thì là thơ của Chúa Trịnh đề vịnh trong khi đi tuần miền Tây, Thận Trung liền bảo Xuân Hương:
- Mình giỏi thơ, thử đề một bài, thi với Chúa Trịnh thử xem sao!
- Mình muốn tôi đề thơ nôm hay thơ tự.
 - Nôm cũng đưọc, tự cũng được miễn thơ hay.
Nàng không nghĩ ngợi liền đọc:
- Hai bên thì núi giữa là sông
Có phải đây là Kẻm Trống Không?
Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ lòng bong
Thận Trung nói xen:
- Chưa hay. Hai câu thứ ba, thứ tư tả trái núi khác cũng được, không sát với cảnh Kẻm Trống. Nàng lại đọc tiếp:
- Ở trong hang tối còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Thận Trung vẫn chê:
- Cũng chưa hay. Trong hẹp ngoài rộng, cái hang nào mà chẳng thế, cứ gì Kẻm Trống.
Nàng vờ phát cáu:
- Thế nào mình cũng chê không hay, tôi phải kết một câu thật hay mới được:
- Rồi nàng đọc nốt:
Qua... cửa mình ơi nên ngẫm lại
Nào ai có biết nỗi bung bồng.
            e- Khí Phách Hô Xuân Hương
Ngòai cái thiên tài làm thơ, chúng ta còn thấy nơi Bà Hô Xuân Hương là một con người có khí phách. Bà nói thẳng:
- Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
 Một khía cạnh khác của bà là ưu ái chua cay, đanh đá ghê gớm của phụ nữ bình dân phong kiến Việt Nam, dám nói, dám làm, đủ sức làm cho lễ giáo xưa và làm cho đám râu mày giật mình đỏ mặt, hốt hoảng trong những lần tiếp kiến dù là chỉ với thơ bà. Bà mắng các anh khóa dốt:
- Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng: ấy ái uông.
Lúc còn trẻ, có lần Hồ Xuân Hương đi thăm Chùa Trấn Quốc, nàng ta đang lững thững trên bờ Hồ Tây, bỗng có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát đàng sau. Rồi có Thầy gi giọng trêu ghẹo. Có thầy lại hứng chí đọc cả thơ. Xuân Hương, thấy họ trêu ghẹo, vẫn lặng thinh Nhưng đến khi nghe cái thứ thơ thẩn nửa mùa ấy thì không chịu được nữa, nàng bèn quay lại thủng thẳng đọc cho mấy thầy khóa ấy nghe mấy câu rằng:
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẫn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏ buồn sừng húc dậu thưa.
Chúng ta thấy Bà vẽ chân dung người quân tư khi anh chàng nhìn thiếu nữ ngủ ngày:
- Mùa hè hây hẩy gió nôm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc lơi cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Ði thì cũng d, không xong.
            (Hồ Xuân Hương - Thiếu Nữ Ngủ Ngày)
Bà thông cảm với người phụ nữ nhẹ dạ:
- Khôn ba năm dại một giờ
Cả nể cho nên hóa d dang.
Nổi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa
Mảnh tình một khối thiếp xin mang
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan.
            (Hồ Xuân Hương - Không Chồng Mà Chửa)
Bà quá hiểu cái nỗi đèo bòng của người phụ nữ:
- Hi chị em ơi có biết không
Một bên con nhỏ, một bên chồng
Bố cu lổm ngổm bò trên bụng
Thằng bé hu hu khóc cạnh hông
Tay những vội vàng thu với vén
Miệng liền rủ rỉ bống cùng bông
Chồng con cái nợ là như thế
Hi chị em ơi có biết không?
            (Hồ Xuân Hương - Nợ Chồng Con)
Về bà Hồ Xuân Hương là một trong những bậc nữ lưu tài danh trong thời phong kiến, tuy đa tài nhưng cũng là Hồng Nhan Ða Truân:
- Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
            (Hồ Xuân Hương - Bánh Trôi Nước)
Nói tóm lại, bà Hồ Xuân Hương là môt trong ba bậc phụ nữ tài danh trong văn học Việt Nam, nhưng nếu so sánh giữa ba bà Huyện Thanh Quan, Ðoàn Thị Ðiểm và Hồ Xuân Hương thì chúng ta thấy Hồ Xuân Hương là một con người đa tài, nhưng cũng là hồng nhan bạc phận, cho nên trong văn thơ của bà tràn trề những ưu ái, hóm hỉnh, đồng tình, cảm thông, chua chát, khinh miệt... Nghĩa là một Hồ Xuân Hương vừa hiện thực vừa nổi loạn.
 
-- o0o --