-
Sáu Phép Hòa Kính
-
Thông Trí
-
--o0o--
-
-
Lục Hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật
chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Tinh thần Lục Hòa
được áp dụng để duy trì sự hòa hiếu trong tăng đoàn từ thời
Ðức Phật còn tại thế. Nguyên nhân đức Phật nói Sáu Pháp Hòa
Kỉnh, theo trong sách vở có ghi chép rằng, một hôm Thầy La Hầu
La đi khất thực về, gương mặt có vẻ không vui, Phật kêu lên
gạn hỏi thì Thầy La Hầu La phàn nàn rằng trong đoàn khất thực
của mình chỉ có Trưởng Lão Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo lớn tuổi
mới được tín thí cúng dường vật thực bổ béo, kỳ dư hạng Sa Di
như La Hầu La thì chỉ được tặng cho một tý xíu xác mè ép và
rau đồng luộc trộn với cơm, ăn uống như thế thì làm sao có đủ
sức khỏe để tu hành. Phật rầy La Hầu La không nên có niềm đố
kỵ ấy.
-
Nhân đây Ðức Phật chế ra Sáu Pháp Hòa Kỉnh. Pháp
nầy gồm có sáu điểm cơ bản quan trọng quy định nguyên tắc sanh
hoạt nội bộ của chúng tăng nhằm mục đích tiến tới sự cao đẹp,
đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ. Hòa theo tinh
thần của Ðạo Phật là một tinh thần tương trợ, chứ không phải
hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói
phải cũng gật. Hoà ở đây cũng không phải là một phương tiện
tạm thời nhằm thoa dịu những lúc bức ngặt, mà là Tinh Thần
Lục Hoà ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, đem lại hạnh
phúc cho tất cả những ai cùng chung sống trong ngôi chùa, tu
viện, cư xá, gia đình, đoàn thể... trong đó không có bóng dáng
độc tôn của mình hoặc người, không có so đo chúng ta hơn,
người khác kém, hoặc chúng ta kém người khác hơn. Nghĩa là
không còn tham chấp đố nghị, mà trong đó Tinh Thần Lục Hoà
khuyến khích chúng ta phải đem tâm rộng lớn để cư xử với nhau
và để cùng chung sống trong tinh thần Hoà Hiếu An Vui.
-
Thân Hoà Cùng Ở
-
Khi đã có nhân duyên, gặp gỡ và cùng nhau chung sống dưới môt
mái nhà, cùng nhau chung sống trong một ngôi chùa, hoặc cùng
nhau cộng tác cho một tổ chức, thì lẽ tất nhiên là đi đâu cũng
gặp nhau, làm gì cũng gặp nhau. Nghĩa là hôm sớm có nhau, cùng
ăn, cùng ngủ, cùng học, cùng làm. Khi đã sống chung với nhau
như thế thì phải ý thức và thực hành:
-
- Thân Hòa Cùng Ở
-
Có áp dụng đúng mức tinh thần Thân Hòa Cùng Ở chúng ta mới
biết cách hoà thuận với nhau, không dùng sức mạnh, quyền thế
để lấn áp nhau, gây gỗ đánh đập nhau. Nếu là:
-
- Cuộc sống trong phạm vi gia đình, muốn cho cuộc sống có được
hạnh phúc, êm ấm trong gia đình, thì anh em, vợ chồng, con cái
trong một gia đình phải biết tương kính lẫn nhau, trên thuận
dưới hoà, lớn nói nhỏ nghe, nhỏ khuyên lớn chấp nhận nếu đó là
sai lầm. Nghĩa là làm sao cho anh ra anh, em ra em, chồng ra
chồng, vợ ra vợ.
-
- Cuộc sống trong thiền viện, chúng ta là người
biết đạo và biết thực hành giáo pháp giải thoát, cùng ở với
nhau học tập dưới một mái Chùa. Tuy là chúng ta không phải là
bà con láng giếng, họ hàng ruột thịt, nhưng tất cả đều là đệ
tử của Ðức Phật, cũng là những người có cùng một lý tưởng, một
mục đích, tu tập đạo giải thoát, cho nên công việc đầu tiên là
phải khắc kỷ, lấy giới luật và cái hòa khí làm đầu. Không nên
vì một lý do nào đó mà chia phe, lập phái, cậy mạnh, ỷ quyền
lấn áp, hiếp đáp người dồng đạo.
-
- Ngoài xã hội chúng ta là những người công dân
trong một nước, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội,
cùng nhau sinh hoạt trong một cộng đồng, thì phải lấy sự đoàn
kết làm đầu, không nên tạo sự bất hòa để chia năm xẻ bảy trong
cộng đồng, lại càng không nên vì lợi dưỡng cá nhân mà làm
thành giặc chòm, giặc xóm, sát phạt nhau, chém giết lẫn nhau.
-
- Trong cộng đồng thế giới, mặc dầu mỗi người sanh
ra và trưởng thành trong những quốc gia khác nhau, nhưng đã là
nhân loại, cùng chung sống trên quả địa cầu nầy, thì dù là da
trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng đều là con người, cho
nên ai cũng biết vui, biết buồn, và ai cũng có tấm lòng trắc
ẩn thương người... Ðã là con người có cùng những đặc tính như
nhau thì lại càng không nên cố tình gây đau khổ cho nhau để
rồi dẫn đến hành động bắn giết nhau, tàn sát nhau
-
Như vậy mặc dù chúng ta là người như thế nào đi
nữa, chúng ta khi cùng chung sống trong một gia đình, trong
một tu viện, trong một quốc gia, trong một cộng đồng của nhân
loại thì nên ý thức được rằng Tình Thần Hoà Hiếu An Vui là một
tinh thần hết sức thực tế, có khả năng làm cho mọi người an
vui, hạnh phúc trong chiều hướng xây dựng.
-
02- Lời Nói Hòa Hợp Không Tranh Cãi
-
Ðức Phật thường dạy là:
-
- Họa tùng khẩu xuất.
-
Nghĩa là:
-
- Họa do miệng tạo ra
-
Như vậy, trong gia đình, trong tu viện, trong quốc gia, và
trong cộng đồng nhân lọai, nếu chúng ta muốn tránh cảnh thân
xô xát, đánh đập nhau, đối chọi nhau, thì lời nói phải giữ gìn
cho được ôn hoà nhã nhặn, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn
cảnh. Ðể hỗ trợ cho việc yếu tố khẩu hòa, chúng ta cũng có thể
áp dụng câu:
-
- Cơm sôi bớt lửa, người giận bớt lời
-
Nghĩa là bằng cách nào đó, nhất thiết không được rầy rà cãi cọ
nhau. Có người thân hòa mà khẩu không hoà, cho nên rồi tìm
những chổ đả kích nhau, hơn thua nhau từng câu nói, trong đó
có cả cách mỉa mai, châm chọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng
một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau.
-
Trong một gia đình, cũng vì cách nói không khéo
cho nên dễ tạo nên sự bất hoà giữa
cha mẹ chồng và nàng dâu, giữa
chàng rễ và cha mẹ vợ. Cũng vì một lời nói không hoà, mà nhiều
khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không
thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau. Tình
trạng nầy kéo dài như vậy cuộc sống đầm ấm trong một gia đình
trở thành thê lương, cô quạnh. Ðiều đó chúng ta không lạ gì
khi thấy cứ đến mỗi bữa ăn thì chồng một dĩa, vợ một tô, con
cái mỗi đứa kiếm mỗi nơi để ngồi, và như vậy mỗi người cứ âm
thầm lặng lẽ như những ốc đảo hoang vu ngoài bể cả.
-
Trong những cộng đồng ngoài xã hội, cũng vì một
lời nói không hoà, mà có thề bôi bát lẫn nhau, không tiếc lời
mạ lỵ nhau. Trong một quốc gia, nhiều khi không hoà nên thường
xảy ra nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào vòng chém
giêt, thanh toán lẫn nhau.
-
Tương tự như thế, trong các tu viện cũng vậy, một
khi mà không biết giữ gìn lời nói thì cũng khó mà giữ được cho
tâm hồn thanh tịnh để yên tâm tu học. Bởi vậy Ðức Phật dạy:
-
- Thân hoà không chưa đủ mà phải hòa luôn cả miệng.
-
Nghĩa là:
-
- Người Phật Tử phải nói lời nói dịu dàng, hoà nhã với nhau,
không được cãi lẫy, gây gỗ nhau bất cứ vì một lý do gì. Nếu có
gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ thì tuyệt đối phải
dùng lời ôn hoà, nhã nhặn mà bàn luận, nhưng phải ý thức được
đúng, sai, lỗi, phải để tự kiểm điểm lấy bản thân.
-
03- Ý Hoà Cùng Vui(Ý Hoà Ðồng Duyệt)
-
Trong ba nghiệp: Thân, miệng, ý thì Ý là quan
trọng hơn hết, vì nó chính là động cơ thúc đẩy miệng và thân.
Bởi thế cho nên trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người
cần phải giữ gìn ý tứ, cho tâm địa mình. Nếu một người có ý
tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời mới giữ được hòa khí.
Trái lại nếu ý tứ hung hăn bất hoà, thường trái ngược nhau,
thì thân và miệng khó mà giữ cho được hoàn hảo.
-
Trong một gia đình, một tu viện, một cộng đồng, dù cho chúng
ta có cố gắng để cho thân và miệng được hòa, chẳng qua vì sợ
cha mẹ, thầy tổ, hay vì sợ một uy quyền nào đó ở trên, mà
chúng ta phải ăn ở thuận hòa, thì sự thuận hoà nầy là sự thuận
hòa giả tạo. Sự thuận hòa nầy chẳng khác gì một lớp sơn, tô
phết ở bên ngoài của một tấm gỗ đã mục. Ðến một lúc nào đó,
tấm gỗ đã hư mục quá, thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn
nứt, đổ bể. Cũng vậy sự hòa thuận giả tạo đến một lúc nào đó,
khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể kềm chế,
chịu đựng được nữa, tất nhiên nó sẽ nổ tung ra trong lời hung
ác, cay cú, và cả tay đấm, chân đá cũng có thể xảy ra.
-
Ðức Phật đã thấy rõ được như thế, cho nên Ngài dạy
chúng ta phải giữa cho tâm ý vui vẻ, hòa hiệp chân thật trong
khi chung sống với nhau.
-
Một trong những yếu tố có thể trợ duyên cho tâm ý
hoà hợp, là chúng ta phải thực tập tâm hạnh hỷ xã. Hỷ Xã nghĩa
là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt
trong lòng những lời nói vô tình hay cố ý của người khác,
những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồn chúng ta mới
thư thái, vui vẽ được, và ý nghĩ mới trong sáng thanh tịnh
được. Tâm ý có trong sáng, thanh tịnh, thì chúng ta mới có
những lời nói hoà nhã dễ thương. Lời nói có hòa nhã dễ thương
thì chúng ta mới có thể chung sống lâu dài.
-
04- Giới Hoà Cùng Tu
-
Trong một quốc gia, có quốc pháp, trong một gia
đình thì có quy luật của gia đình, trong một tổ chức, một đoàn
thể nào cũng vậy, muốn có trật tự lẽ tất nhiên những tổ chức
đó đều phải có quy luật để làm kim chỉ nam, làm quan tòa xét
xử.
-
Trong Ðạo Phật cũng vậy, như có lần chúng tôi đã
đề cập với quý vị rằng sở dĩ tăng đoàn của Ðức Phật được tồn
tại và thương yêu nhau là nhờ giới luật làm kỷ cương. Như vật
đối với mỗi Phật Tử tại gia cũng thế, muốn cho mỗi thành viên
trong gia đình hiểu nhau và thương nhau để cùng chung chia sẻ
hạnh phúc lâu dài, thì nên tùy theo điều kiện, phương tiện,
địa vị cấp bực tu học của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới
luật. Như Phật chế người Phật Tử tại gia thì thọ trì năm giới,
người xuất giới thì thọ trì mười giới nếu là Sa Di, thọ 250
giới nếu là Tỳ Kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ Kheo Ni...Nói về
giới theo tinh thần Tối Thượng Thừa giới của Ngài Pháp Loa
thì:
-
- Tịnh giới là: Trong 12 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm
không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn.
Mắt không vì sở duyên thức ra, thức không vì sở duyên cảnh
vào. Ra vào không giao thiệp gọi là ngăn dừng. Tuy gọi ngăn
dừng mà chẳng phải ngăn dừng. Nên biết tai, mũi, lưỡi, thân, ý
cũng lại như thế. Ðây gọi là giới đại thừa, gọi là giới vô
thượng, cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới nầy dù Tiểu
Tăng cho đến Ðại Tăng đều phải giữ.
-
Khi đã thọ giới thì đã biết là chúng ta phải làm gì khi có
điều kiện gặp gỡ nhau. Chẳng hạn như trong khoá tu, hay lúc
cùng chung sống để tu học trong một già lam, tu viện nào đó,
thì mỗi người phải biết đặt mình đúng vào vị trí của mình.
Nghĩa là tùy theo cấp bực của chúng ta đã thọ giới mà phải giữ
giới của chúng ta đã thọ. Một khi đã cùng một cấp bực với
nhau, thì tất nhiên phải thọ giới và giữ giới như nhau chứ
không được lộn xộn, giữ giới nầy bỏ giới kia, giữ giới kia bỏ
giới nọ, mỗi người một thứ, mỗi người môt kiểu. Nếu tình trạng
mỗi người một thứ, mỗi người một kiểu khác nhau như vậy sẽ tạo
thành tình trạng vô kỷ luật. Một tổ chức mà không có kỷ luật,
tất nhiên tổ chức đó sẽ tan rã. Vì thế mà chúng ta phải ý thức
rằng: Một khi chúng ta đã là những Phật Tử, đã có duyên cùng
nhau chung sống trong một mái chùa, một tu viện, thì triệt để
tuân thủ các điều lệ để giúp thiền sinh dành trọn thì giờ
trong việc tu hành và tránh khỏi những lỗi nhỏ hoặc vô tình
hay cố ý. chẳng hạn như:
-
01- Thiền sinh hạn chế tối thiểu sự đi lại trừ trường hợp bệnh
nặng phải đi trị bệnh, hoặc thầy Bổn Sư bệnh nặng hay tịch,
hoặc cha mẹ bệnh nặng hay chết, hoặc vài trường hợp đặc biệt
khác.
-
02- Một khi có lỗi lầm được các huynh đệ hay Thầy nhắc nhở
không được sanh tâm oán hận, mà phải có tinh thần nhận lỗi và
học hỏi. Cũng đừng bao giờ có ý nghĩ hoặc kết án là huynh đệ
nầy với huynh đệ khác toa rập để hãm hại mình.
-
03- Thân nhân đến thăm, thiền sinh chỉ tiếp khách tối đa 30
phút tại nhà khách. Nếu thân nhân còn ở lại, đều do Tri Khách
sắp đặt mọi việc.
-
04- Nhận một trách nhiệm gì trong viện, Thiền sinh phải tận
tình làm cho được vuông tròn; không được làm cầm chừng lấy có.
-
05- Mọi thời khoá tu công cộng tại Thiền Viện, thiền sinh
không được vắng mặt hoặc trễ nải, trừ có trách nhiệm đặc biệt.
Giờ thỉnh nguyện, thiền sinh không được đến trễ và nên có mặt
sớm xuống sớm, trừ trường hợp có công tác cho chúng.
-
06- Khi lao tác chung hoặc riêng, thiền sinh sẵn sàng tương
trợ nhau, khi thấy huynh đệ làm công việc nặng nhọc hơn, hoặc
trễ nải hơn, không được vô tình làm ngơ để mặc.
-
07- Phải tiết kiệm tài sản của Thiền Viện bằng mọi cách, không
nên phung phí quá đáng.
-
08- Không được đi đâu quá thời hạn đã xin phép. Nếu có việc
bất ngờ xảy ra, phải gọi điện thoại, hoặc gởi thư về xin phép
thêm.
-
09- Ðể giữ gìn nếp sống thanh tịnh chung, cho nên mỗi thiền
sinh nếu muốn nghe pháp nên dùng headphone để nghe một mình.
Sau 10:00PM phải tuyệt đối im lặng để bảo đảm sự thanh tịnh
chung cho toàn chúng.
-
10- Thiền sinh nếu không muốn ở đây, xin phép ra đi tự do
không cần điều kiện gì cả. Không được ở đây mà có tâm hướng
ngoại.
-
Ngoài ra còn phải tôn trọng nhân phẩm cho nhau, để cùng nhau
tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật mà chúng
ta đã nhận lãnh.
-
Nói chung, bất cứ môi trường nào trong cuộc sống, cho dù đó là
trường học, tổ chức của gia đình Phật Tử, một hội đoàn nào đó,
hay trong một cộng đồng, một quốc gia nào đó, thì bao giờ cũng
vậy, tất cả những tổ chức nầy đều cũng phải lấy kỷ luật làm
đầu. Nếu:
-
- Trong lớp học, nếu học sinh không tôn trọng kỷ luật của
trường, ai muốn ra thì cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học
cứ học, ai muốn chơi cứ chơi thì lớp học đó sẽ rối loạn, những
học sinh có thiện chí học hỏi sẽ không thể nào tập trung trong
việc học hành được.
-
- Trong gia đình cũng vậy, những thành viên trong gia đình,
nếu mỗi người đều làm theo ý riêng mình, không tuân theo những
nguyên tắc sống trong Gia Ðình, con cái không nghe lời cha mẹ,
em không tuân theo sự hướng dẫn của các anh chị, và anh chị cứ
luôn sống trong phóng túng thì gia đình đó sẽ không bao giờ có
hạnh phúc.
-
- Trong tổ chức, nếu một hội viên không tôn trọng điều lệ của
hội, phân chia gia cấp, tự cho mình sang không cần phải làm
việc như người hèn, tự cho mình giàu, không bao giờ tuân thủ
những điều kiện như những người nghèo, tự cho mình là người có
học, nên không cần giữ gìn quy củ như những người thiếu học.
Một hội đoàn mà thiếu kỷ luật như vậy thì chắc chắn hội đoàn
đó sẽ không bao giờ tồn tại.
-
Nói tóm lại, trong mọi đoàn thể, đạo hay đời cũng
vậy, nếu không cùng nhau giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc thì
chúng ta sẽ không bao giờ sống chung với nhau được. Vì tính
cách quan trọng như vậy cho nên người Phật Tử chúng ta, nhất
là trong hàng ngũ của chư tăng ni chúng ta muốn hòa hợp để
cùng nhau tu tập, cùng nhau sinh hoạt trong một cộng đồng,
cùng nhau phụng sự đạo pháp trong phạm vi của giáo hội nào đó,
thì mỗi người chúng ta cũng cần phải giữ gìn giới luật như
nhau, mỗi người cần phải tự mình kiểm điểm tư cách, hành vi
đạo đức, để có thể tránh những tình trạng phủ bênh phủ, huyện
bênh huyện, tình trạng bôi bát dẫm chân lên nhau trong bất cứ
một lý do nào đó.
-
05- Thấy Biết Giải Bày Cho Nhau Hiểu
-
Chúng ta biết rằng, mỗi người ai cũng có những suy
tư, và hành xử khác nhau, cho nên trong khi sống chung, nếu
mỗi người hiểu biết đựợc điều gì, thì nên giãi bày, chỉ bảo
cho người khác để cùng hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới
không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều và thể hiện được tinh
thần bình đẳng trong tinh thần tự lợi và lợi tha.
-
Khi khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có
một ý kiến gì hay ho, nếu chúng ta không giãi bày cho những
người bạn đạo chung quanh, thì không những chúng ta là một kẻ
ích kỷ mà còn tạo ra sự tắc nghẹn, thiếu cảm thông giữa chúng
ta với những người khác trong cùng một ngôi già lam, hay tu
viện. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn đó chính là đầu mối của sự
chia rẽ, bất hoà, xung đột.
-
Sự chia sẻ kinh nghiệm hay kiến thức của chúng ta cho những
người chung quanh sẽ giảm đi áp lực rất lớn trong việc nghi
ngờ của mỗi người, và những sự hoang mang trong đoàn thể. Nhất
là trong kinh Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, khả
năng của mỗi người Phật Tử, hay tăng ni có thể khám phá ra một
khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng
có thể sai. Trong những trường hợp đó, mà không giãi bày, chia
sẻ những sự hiểu biết của mình, để cho mọi người trong đoàn
thể cùng hiểu biết thì sự hiểu biết đó sẽ thành cái tình trạng
không quân bình trong chúng hội, vì vậy mà rất khó để có thể
sống hòa hiệp với nhau.
-
06- Lợi Hoà Cùng Chia Cân Nhau:
-
Trong một gia đình, một tu viện, một tổ chức, nói
về tài lợi vật thực như: Tiền bạc, y phục, mền chiếu thuốc
thang ... thì phải để quân phân tất cả. Nghĩa là chia cho đều
nhau không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu,
phải lấy công bằng làm trọng. Nghĩa là khi mà có được thì phải
phân chia cho đều nhau, hay cùng nhau thọ dụng, không được
chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình. Cũng không
nên có thái độ giành công của người khác. Trong khi chung
sống, nếu có tinh thần như thế, thì dù ở chung ngàn người vẫn
hòa vui. Trái lại, nếu vì tình tư, ý riêng tham tài tham lợi
thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau cũng không thể
hoà hợp được.
-
Trong xã hội sở dĩ có xung đột dữ dội, phân chia giai cấp,
cũng do vì thiếu lợi hoà đồng quân cả. Người giàu thì quá
giàu, người nghèo thì qua nghèo, kẻ dinh thự nguy nga ruộng
đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất.
Do đó không thể có hoà bình được, người vô sản xung đột với
người hữu sản, nước nghèo đó sanh sự với nước phú cuờng. Như
vậy chúng ta thấy trong cuộc sống chung đụng hằng ngày, không
có gì tai hại bằng sự bất hoà. Sự bất hoà là mầm mống ung độc
làm cuộc sống chung tan vỡ, nó có khả năng làm cho người chúng
ta muốn giữ phải xa nhau. Hoặc có miễn cưỡng níu kéo để cho
sống gần với nhau thì sự sống đó chỉ để làm đau khổ, phiền
muộn cho nhau chứ không có lợi ích gì cả. Nếu nhân loại hiểu
rằng:
-
- Cuộc giàu sang phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng
trên cành hay công danh phú quý vinh hiển trên đời, như bọt
nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giửa giàu với
nghèo sẽ bót đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau
hơn.
-
Với tinh thần bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ với
một trí huệ soi thấu rõ sự vô thường, giả tạm của cuộc đời,
Ðức Phật đã dạy:
-
- Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau,
-
Vậy chúng ta đã là Phật Tử, phải nên cố gắng thực
hành cho được lời dạy ấy. Chúng tôi xin được nhắc lại rằng:
-
- Trong gia đình, anh em không hòa nhau thì tình cốt nhục chia
ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiêp khó, nếu là sự bất hòa
trở nên trầm trọng thì phải dẫn tới ly thân hoặc tệ hại hơn
nữa là ly dị. Cha mẹ mà ly thân hay ly dị thì chắc chắn con
cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ, gần mẹ thì
phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện
cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hoà thì sanh ra giặc
giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bất hòa thì chiến
tranh tiếp diễn nhân sinh điêu đứng.
-
Vì tính cách nhu cầu thiết yếu của tinh thần hòa
hiếu an vui cho nên chúng ta phải cố gắng thực hiện cho bằng
được tinh thần nầy. Những ai biết lấy nó làm phương châm, thì
bất luận là việc lớn, cho đến việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng.
Trái lại, những ai khinh thường nó thì có lẽ khó mà thành tựu
được một việc gì cho đáng kể.
-
Như vậy yếu tố hòa hiếu là yếu tố quan trọng hơn
trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có hạnh
phúc, nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị, nhơn loại hòa
thì thế giới an lạc. Ðức Phật đã thấy, biết hơn ai hết về sự
quan trọng của đức tánh nhu hoà trong đời sống tập thể, cho
nên Ngài đã chế định ra Sáu Pháp Hoà Kính cho hàng để tử xuất
gia cũng như tại gia.
-
Nói tóm lại để có một ý niệm tổng quát về Sáu Phép
Hoà Kỉnh, chúng ta nên ghi nhận những ý chính trong sáu điều
chỉ bảo của đức Phật về Sáu Phép Hoà Kỉnh như là chất liệu gắn
chặt lâu bền người Phật Tử hay bất cứ những ai muốn thực hiện
một đời sống , trong hòa bình và tương trợ. Như vậy Sáu Pháp
Hoà Kỉnh không những là nền tảng vững chắc của toàn thể Tăng &
Ni mà cho tất cả những ai muốn sống đời an lạc hạnh phúc. Sáu
Pháp Hòa Kỉnh đưọc tóm tắt như sau:
-
1- Thân Hòa Ðồng Tu:
-
Về phần thân: Chấp tác, tu hành, ăn mặc, ngủ nghỉ, thiền sinh
phải hòa đồng nhau. Nghĩa là hãy chung sống với nhau một cách
hoà hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, và không nên
dùng võ lực, để đàn áp lẫn nhau.
-
2- Khẩu Hòa Vô Tranh:
-
Về phần miệng: Nói bàn, tranh luận đều trong tinh thần hòa
nhã, trọng đạo đức, không được lớn tiếng tranh hơn và dùng lời
nặng nhẹ nhau. Nghĩa là hãy nói năng với nhau một cách dịu
dàng, hoà nhã, nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng
phải bàn cãi trong ôn hoà lễ độ.
-
3- Ý Hòa Ðồng Duyệt:
-
Thiền sinh phải tâm ý vui hòa, không có ý ngang ngạnh, chống
đối, thù hằn nhau. Nghĩa là hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với
nhau, hãy trau dồi đức hỷ xã, đừng bao giờ thù hiềm nhau, ganh
tỵ lẫn nhau.
-
4- Kiến Hòa Ðồng Giải:
-
Thiền sinh có mọi ý kiến giải sai biệt trong lúc hạ thủ công
phu, hay trong khi học giáo lý, đều đem ra trao đổi giãi bày
một cách thông cảm và vui vẻ với nhau. Nghĩa là hãy giãi bày
những ý kiến hiểu biết, những ý kiến của mình cho mọi người
chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày
cho người hiểu chậm và dắt dẫn họ đi kịp mình.
-
5- Giới Hòa Ðồng Tu:
-
Về giới luật, thiền sinh đều giữ mười giới làm căn bản và nội
qui của Chùa cố gắng gìn giữ thanh tịnh như nhau. Nghĩa là hãy
giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Không kỷ
luật thì không một đoàn thể nào tồn tại được.
-
6- Lợi Hòa Ðồng Quân:
-
Tất cả tài sản và phẩm vật trong Chùa là của chung của các
thiền sinh hiện có mặt, không ai có quyền giữ riêng hay thụ
hưởng nhiều hơn. Nghĩa là hãy chia đều tài lợi thu thập được
cho những người cùng sống chung với nhau để mọi người đều được
thoả mãn vui vầy.
-
Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt
để thì trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, anh em, đều được hòa
thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày mỗi thịnh đạt, quốc gia
được hùng cường thịnh trị, thế giới được hòa bình an lạc.
-
Riêng trong giới Phật Tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn Sáu
Pháp Hoà Kỉnh, thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ,
con đường giải thoát được gần hơn. Và cảnh giới an lạc không
phải chỉ là một ước vọng mà là sự thực, chúng ta sẽ đạt đến
trong mọt thời không xa lắm.
|