Ấn Giáo, Phật Giáo & Hồi Giáo
Nguyễn Mộng Khôi
--o0o--
 
Trong ba tôn giáo trên thì Ấn Giáo có một lịch sử lâu dài nhất, kế đến Phật Giáo và sau cùng Hồi Giáo.
Ðất Ấn là nơi sản sanh ra Ấn Giáo, Phật Giáo và nước Hồi*.
Ở tiểu lục địa nầy có những thời kỳ mà Phật Giáo là tôn giáo chính của nhiều nước nhỏ, sau đó suy tàn, không được ai nhắc tới khoảng gần 5 thế kỷ. Trong thời gian đó thì đạo Phật ở những nước láng giềng như Trung Quốc, Tây Tạng, Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bản ... lại phát triển mạnh mẽ. Ngày nay đạo Phật bắt đầu có mặt trở lại ở Ấn Ðộ.
Một trong những lý do chính để đạo Phật bị tắt ngấm rồi vắng mặt luôn gần 500 năm là do Ấn Giáo và Hồi Giáo muốn tiêu diệt Phật Giáo. Ðể hiểu lý do, chúng ta hãy đọc lại lịch sử của nhũng tôn giáo trên.
A- ẤN GiÁO
Hay đạo Hindu(Hinduism) là tôn giáo lớn nhất và xưa nhất của Ấn Ðộ. Ngày nay có hơn 800 triệu tín đồ (khoảng 80% dân số). Ấn Giáo còn có ảnh hưởng tới đời sống chính trị, văn hoá và tinh thần của nhiều nước Á Châu. Những công trình nổi tiếng ở Ðông Nam Á như Konarac, Kharujaho, Angco Vat, các tháp Chàm ở Việt Nam ... đều ra đời trên nền tảng Ấn Giáo.
Khác với nhiều đạo trên thế giới, Ấn Giáo không có giáo chủ, không có giáo điều, mà chỉ là các hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng và triết lý học ... Những hệ thống đó nổi trôi và đổi thay theo suốt dòng lịch sử nước Ấn. Có 3 giai đoạn lớn là: giai đoạn Vệ Ðà (Ve-Da), giai đoạn Bà La Môn (Brahma)và giai đoạn Ấn Ðộ Giáo (Hinduism).
1- Giai Ðoạn Vệ Ðà
Kéo dài khoảng 2000 đến 1500 trước Công nguyên (CN) và gắn liền với sự xâm nhập của người Aryan vào Ấn Ðộ. Chính thời gian này kinh Vệ Ðà ra đời. Ðó là một trong những bộ kinh tôn giáo cổ nhất của nhân loại. Có 4 phần: Rig Vệ Ðà là tập hợp các bài ca tụng thần linh. Vajya Vệ Ðà chứa các bài về lễ thức tế tự. Sama Vệ Ðà gồm những khúc ca cầu nguyện và sau cùng làActhava Vệ Ðà ghi chép những câu phù chú, ma thuật.
Những vị thần của giai đoạn này là Thần Sấm(indra), Thần Mặt Trời(Surya), Thần Gío (Agni), Thần Không Trung (Varuna).
Giáo lý cơ bản của thời kỳ Vệ Ðà là: Con người thường xuyên có mối quan hệ với thần linh và có sự hoà đồng với vũ trụ. Do đó chỉ có cúng tế, kêu cầu thì con người mới được các Thần linh phù hộ trong mọi công việc. Song hành với các buổi cầu nguyện là những cuộc hiến tế lớn. Những đồ hiến tế như thịt động vật, bơ, sữa, rượu được dâng lên các Thần linh.
2- Giai Ðoạn Bà La Môn:
Tiếp theo giai đoạn Vệ Ðà, Bà La Môn Giáo có mặt trước Phật Giáo khoảng 1000 năm. Thời kỳ đó, người cúng tế các Thần Linh giữ vai trò quan trọng nên dần dần đội ngũ các thầy cúng trở nên đông đảo và đã biến thành tầng lớp có uy tín, có quyền lực nhất trong xã hội Ấn Ðộ. Thế là đẳng cấp tăng lữ Bà La Môn ra đời. Các tăng lữ này không chỉ phụ trách việc cúng tế mà còn tìm cách chú giải và cắt nghĩa các bộ kinh Vệ Ðà. Từ đó, bộ Thánh Ðiển Bà La Môn Chủng (Brahmana) xuất hiện. Vì thế giai đoạn hai này được gọi là Bà La Môn Giáo.
3- Giai Ðoạn Ấn Giáo
Là Bà La Môn Giáo cải Tân. Bà La Môn sau khi tiếp thu nhiều yếu tố giáo lý của Phật Giáo, Thánh Giáo và cộng thêm một số yếu tố của tôn giáo nhân gian đã phát triển thành Ấn Ðộ Giáo và kéo dài từ thế kỷ thứ nhất trước CN tới ngày nay.
Trong giai đoạn này, những vị thần như: Thần Sấm, Thần Mặt trời, Thần Gió, Thần lửa, Thần Không Trung ở giai đoạn Vệ Ðà được thâu gọn thành 3 vị:
- Thần Sáng Tạo(Brahma)có bốn đầu, tượng trưng cho sự thông minh.
- Thần Bảo Tồn(Vishnu) là vị thần của tình yêu.
- Thần Phá Hoại(Shiva) được tượng trưng bằng linga (Linh Phù Dương, hay bộ sinh dục nam). Linga được dựng trên một bệ vuông gọi là yoni(tượng trưng cho bộ sinh dục nữ). Hai hình ảnh đó là quan niệm thực tiển sinh dục của Ấn giáo. Linga phá hoại màng trinh của Yoni, nhưng đồng thời cũng sáng tạo ra con người. Hình ảnh này có ở những tháp Chàm Việt Nam. Tháp Bà ở Nha Trang (Po Nagar Cham Tower)
Ðể dễ hoà nhập vào đông đảo dân chúng, ở giai đoạn này nhiều lễ nghi của giai đoạn Bà La Môn được Ấn Giáo đơn giản hoá. Các công việc như hiến tế súc vật tốn kém được thay thế bằng các ảnh tượng.
Ðến thế kỷ 19 và 20, một số nhà hoạt động như Ram Mohanroy, Rana Krishna, Vivoka Nanda đã làm một sự canh tân lớn là bỏ những yếu tố lạc hậu và thái quá ra khỏi tư tưởng của tín đồ Ấn Giáo. Ấn Giáo tiếp nhận giáo điều Bất Sát và bắt đầu theo một số nghi lễ Phật Giáo. Họ coi đức Phật Thích Ca như hoá thân của thần Vishnu(Vị thần đứng hàng thứ nhì trong Tam Thánh là: Brahma, Vishnu và Siva). Chính nhờ khả năng thích ứng với những thay đổi lịch sử, nên Ấn Ðộ Giáo luôn luôn là tôn giáo chính, lớn nhất của người Ấn và có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp dân cư Ấn Ðộ từ ngàn xưa tới ngày nay.
B- Phật Giáo
Phật tên thật là Siddhartha Gautama, con vua Tịnh Phạn (Suddodhna) và Hoàng Hậu Ma Gia (Maya), trị vì một vương quốc nhỏ, thủ đô là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), gần biên giới Nepal (Ðông Bắc Ấn Ðộ) hiện nay. Ðức Phật sinh ngày 8 tháng tư âm lịch, nhưng theo Nam tông là ngày rằm tháng tư năm 624 trước CN. Năm 29 tuổi Thái tử xuất gia lúc bà vợ Da Du Ðà La (Yasodhara)vừ sinh đứa con trai đầu lòng và duy nhất là La Hầu La (Rahula).
Sáu năm ròng rã Thái Tử lang thang đây đó ở khắp thung lũng sông Hằng để cầu học đạo chịu đủ mọi cách khổ hạnh để tu luyện của hầu hết các môn phái truyền thống, mong tìm cách giải thoát. Nhưng không thoả mãn. Ngài bỏ hết các môn phái đó để tự đi tìm chân lý... Rồi, một đêm đang ngồi thiền, dưới cây Bồ Ðề, Ngài hốt nhiên đại ngộ. Lúc đó Ngài 35 tuổi. Người ta gọi là Phật, nghiã là Ðấng Giác Ngộ, giác ngộ được các nguồn gốc Ðau Khổ và Sinh Tử để tiến tới Giải Thoát.
Trong 45 năm Phật không ngớt đem Ðạo Giải Thoát để giảng cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân, từ kẻ làm nghề thấp nhất như hốt phân tới hàng vua chúa cao sang. Phật nhập diệt năm 80 tuổi ở Kusinara.
C- Hồi Giáo
Hồi Giáo tiếng Á Rập là Islam, có nghĩa là Thuận Tòng hay là Thuận Theo, tức là thuận theo Hồi Giáo. Giáo chủ đạo Hồi là Muhammed, sinh năm 570 ở vùng Mecca, xứ Saudi Arabi Trung Ðông. Thuở nhỏ nhà rất nghèo, phải đi chăn cừu để sống, lớn lên làm hướng đạo cho các thương gia qua sa mạc, nên có dịp đi khắp đó đây. Thời gian đó, nhân dẫn một giáo sĩ Da Tô qua Syria, Muhammed bèn theo đạo Da Tô. Khi tới vùng Medina, Muhammed lại sống với người Do Thái. Vì vậy, phần lớn Ðạo Hồi là sự hỗn hợp của Da Tô và Do Thái Giáo.
Năm 40 tuổi Muhammed mới bắt đầu giảng đạo, nhưng Hồi Giáo đã thành công nhanh chóng nhờ đúng thời, đúng lúc. Thời đó, bán đảo Ả Rập chia năm xẻ bảy. Mỗi bộ lạc chiếm giữ một địa khu và chiến tranh cốt nhục tương tàn liên miên giữa các bộ tộc. Lúc mà dân chúng cực kỳ khổ sở, bất an và nghèo nàn. Vì vậy, từ bọn chủ nô, người buôn bán, tới lớp bần dân, ai cũng mong sớm được an cư lạc nghiệp. Khách quan mà xét, nó có ý nghĩa chính trị, kinh tế. Nhưng được tiến hành dưới cái áo ngoài là tôn giáo. Muhammed lại là người thông minh, có óc tổ chức, nhưng tính tình sảo quyệt và nhiều tham vọng. Ông đã lần lượt xâm chiếm những xứ láng giềng để truyền đạo. Trong khoảng 10 năm trời chinh chiến, đấu tranh phức tạp, nếm đủ mọi gian lao vất vả để cuối cùng ông đã xây dựng được đạo Hồi trên toàn bán đảo Ả Rập. Ông mất ngày 8 tháng 6 năm 623 thọ 63 tuổi.
Giáo lý đạo Hồi có kinh Coran, chủ yếu của Kinh là thánh Allah là một đấng sáng tạo toàn năng, duy nhất tạo nên vũ trụ và vạn vật. Muhammed chỉ là người tiên tri, truyền lại cho tín đồ Hồi Giáo những lời của Allah. Bộ kinh có 6 niềm tin lớn gọi là Sáu Niềm Tin:
- Tin Thánh Allah,
- Tin Thiên Sứ,
- Tin Kinh Ðiển,
- Tin Sứ Giả Muhammed,
- Tin Kiếp sau,
- Tin Tiền Ðịnh.
Chính cái Niềm Tin Thứ Nhất của sáu tín đã làm cho người Hồi Giáo muốn tiêu diệt những người ngoại đạo vì họ tin rằng ngoài thánh Allah không có vị thần nào khác.
Sự bành trướng của đạo Hồi rất nhanh. Chỉ mới 14 thế kỷ, đạo này đã có hơn một tỷ tín đồ vì sự truyền đạo đi kèm với vũ lực liên tục, hoặc mua chuộc người ngoại đạo bằng mọi cách, cho nên thế giới ngày nay có hơn 90 quốc gia có người theo đạo Hồi:
- 26 nước mà 90% là Hồi Giáo
- 6 nước với 80% Hồi Giáo
- 9 nước với 40% Hồi Giáo
Trường hợp Hồi Quốc: trước năm 1947, toàn thể bán đảo Ấn và phụ cận có tên chung là Ấn Ðộ, thuộc địa của Anh. Bấy giờ dân Ấn theo Ấn Giáo và dân Ấn theo Hồi Giáo sống sôi đậu với nhau, nhưng luôn luôn bất hòa, bất đồng và đổ máu, nên thể theo nguyện vọng của họ, người Anh bèn chia lãnh thổ Ấn làm 3 vùng, tùy theo nơi nào có đại đa số tín đồ: Ấn Ðộ, Ðông Hồi(Pakistan), Tây Hồi (Bangladesh).
Trong hơn 150 quốc gia và địa khu trên thế giới thì có 42 nước lấy Hồi Giáo làm quốc giáo. Phần đông các nước Bắc Phi. Hầu hết các dân tộc Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq và một số quốc gia ở phía Nam, Ðông Nam, Tây Nam Á Châu.
Ngay từ thế kỷ thứ 7, đạo Hồi đã truyền vào Trung quốc. Ở đây có 50 dân tộc thì 10 đân tộc theo Hồi Giáo, người Tàu gọi là:
- Ðạo Hồi Hồi,
- Ðạo Hồi,
- Ðạo Thiên Phương,
- Ðạo Thanh Châu ...
Mấy chục năm gần đây, đạo Hồi truyền vào nhiều nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Năm 1991, quân Mỹ và liên quân giải phóng Kuwait. Sau cuộc chiến Bão Sa Mạc(Desert Storm), mấy trăm ngàn lính Mỹ theo đạo Hồi! Sau ngày khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 của bọn Osama Bin Laden và nhóm Hồi Giáo quá khích Al Qaeda. Dân chúng Mỹ căm thù bọn này, nhưng lạ lùng thay! Một số dân Hoa Kỳ lại bỏ đạo truyền thống mà quay sang Hồi Giáo (Mỹ Trắng nhiều hơn Mỹ Ðen)
Trái với giáo lý đạo Hồi và đạo Ấn, đạo Phật không chủ trương thu hút tín đồ bằng quyền lực. Người nào có đức tin đạo Phật là đưa tới An Lạc, đẫn đến Giải Thoát thì theo, nhưng họ không ghét người ngoại đạo. Có thể nói, đạo Phật không có kẻ thù. Nhưng tại sao lại bị Ấn Giáo không ưa và Hồi Giáo muốn tiêu diệt?
- Sự thù ghét của Ấn Giáo: Giai đoạn Bà La Môn thì xã hội Ấn có 4 giai cấp. Bốn Giai cấp này không giao du với nhau và quyền lợi ưu thế khác nhau. Hai người cùng phạm tội, nhưng giai cấp cao nhất Bà La Môn được hưởng hình phạt nhẹ nhất, kế đến giai cấp Sát Ðế Lợi, là giai cấp của vua, quan  ... giai cấp thấp nhất là Thủ Ðà La làm những nghề thấp kém thì bị hình phạt nặng nhất. Như vậy xã hội Bà La Môn là bất bình đẳng.
Phật giáo chủ trương bình đẳng, không phân biệt giai cấp. Từ người hốt phân Sunita, người thợ hớt tóc Upali cho tới ông cựu tổng trấn Baddhiya và các hoàng thân anh em họ Phật như Nanda, Anandad ... đều được nhận vào tăng đoàn và có cùng một quyền lợi như nhau, đó là giới lục hoà nhà Phật. Vì vậy, lúc này Ðạo Phật là cái gai trong mắt của giai cấp Bà La Môn và giai cấp Sát Ðế Lợi.
Giới luật cấm Sát Sinh, cấm uống rượu... cũng đụng chạm đến quyền lợi của những giai cấp này vì trong những cuộc lễ của họ phải có rượu thịt động vật và rượu để dâng lên thần linh.
Một ông vua Ấn Giáo là Sasanka ghét Phật giáo nên ghét lây cả cây Bồ Ðề mà hơn một ngàn năm trước đức Phật đã Giác Ngộ ở đó. Trong cơn giận dữ Sasanka cho người đến chặt cây, đào hết rễ lớn, rễ nhỏ. Cho chắc ăn ông sai lính hầu nổi lửa đốt chỗ gốc cây rồi tưới nước mía lên để không còn vết tích về sau.
D- Hồi Giáo Tiêu Diệt Phật Giáo:
Phật Giáo không đụng chạm đến quyền lợi của Hồi giáo, nhưng vì tín đồ Hồi giáo có Niềm Tin Thứ Nhất trong Kinh Coran là Ngoài Thánh Allah, không có vị thần nào khác. Vì vậy họ muốn tiêu diệt những tôn giáo không phải là Hồi Giáo. Với Ấn Giáo, những tín đồ Hồi Giáo bị phản ứng mạnh, nên họ chỉ chiếm được phần đất Ấn. Với đạo Phật mà các vị vua Phật Giáo bấy giờ nhu nhược, thụ động, nên bị đánh bật khỏi lục địa Ấn Ðộ. Quân Hồi đã san bằng những chùa chiền thờ Phật, giết hết tăng ni. Thiểu số may mắn thoát khỏi lưỡi gươm của quân Hồi phải chạy trốn rồi tìm nơi ẩn náu ở những nước láng giềng. Tiến sĩ Ambedka ghi lại:
- Quân Hồi cướp phá những tu viện nầy. Họ đào cả gạch của nền tu viện. Tăng sĩ phải trốn sang Nepal, Tây Tạng và những nước ngoài Ấn Ðộ. Năm 1851, thiếu tá Kitto thuộc Hoàng Gia Anh cho khai quật những chùa cổ vùng Sarnath đã thấy xương của tu sĩ lẫn với tượng Phật. Còn biết bao ngôi tháp tráng lệ và nổi tiếng như tháp Bharut, Dharmarajik, Amarati ... cũng đều bị phá hoại như thế.
Lợi dụng sự suy tàn của Phật Giáo, Ấn Giáo cho phép những Phật Tử được nhập vào giai cấp Thủ Ðà La một cách dễ dàng, nên hầu hết các Phật Tử muốn sống yên thân đều quay sang Ấn Giáo hoặc Hồi Giáo!
Thế là sau 20 thế kỷ từ ngày đức Phật thành đạo. Ðạo Phật biến khỏi Ấn Ðộ. Từ thế kỷ 15 tới thế kỷ 19, không ai nhắc tới đạo Phật ở nước này.
- Không chùa chiền,
- Không văn học Phật giáo
- Không tín đồ
- Ngay cả cái tên Bụt hay Phật Ðà (Buddha) cũng bị xóa trong ký ức người Ấn .
Gia tài Phật Giáo dấu kín dưới lớp vôi gạch đổ nát hàng nhiều thế kỷ, cho tới khi người Anh tiếp xúc với Ấn Ðộ. Họ tưởng rằng chưa bao giờ đạo Phật có mặt ở Ấn Ðộ. Nhưng khi người Anh tới Trung Hoa, họ vô cùng ngạc nhiên là trong văn học Trung Quốc nói nhiều tới đạo Phật ở đây. Bộ Tây Du Ký của Ngài Huyền Trang sang Ấn Ðộ thỉnh Kinh hồi đầu thế kỷ thứ 7, lúc mà đạo Phật được mô tả là một tôn giáo lớn và đức giáo chủ Thích Ca sinh tại đó.
Do vậy, người Anh mới bắt đầu chú ý tới đạo Phật. Năm 1750, nhà khảo cổ Padre Tieffthaler đào được trụ đá Delhi Moerut trên đỉnh Delhi, tiếp theo là những trụ Lauriya Ararajo Bihar, trụ Toppra O Koat ... Ðại Úy Polier rồi ông William Jones đã đào được nhiều trụ khác trong nhiều nơi ở Ấn Ðộ. Tuy khai quật được khá nhiều trụ đá của Phật giáo, nhưng không ai đọc hiểu ý nghĩa. Mãi đến năm 1837, ông James Prinsep, tổng Thư ký hội Á Châu Bengal mới đọc được và chú giải từng chi tiết.
            Năm 1851, ông Alexander Cunningham, tổng giám đốc cơ quan Nghiên cứu Khảo Cổ Ấn Ðộ đã mở được xá lợi của 2 vị đại đệ tử Phật là Xá Lợi Phất(Sariputta) và Mục Kiền Liên(Moggallana). Những xá lợi này được đem về Anh để xác chứng và được cất giữ cẩn thận ở 2 viện bảo tàng Victoria, Albert ở Luân Ðôn; rồi gần một thế kỷ sau được hoàn lại vào hôm người Anh trả lại độc lập cho Ấn Ðộ.
Ngày nay đạo Phật đã có mặt trở lại ở Ấn Ðộ, số Phật Tử khoảng 10 triệu (1% dân số) Người dân Ấn nhìn Phật giáo bằng con mắt thiện cảm. Thủ tướng Nerhu(theo Ấn Giáo) là người đầu tiên đề nghị đưa hình bánh xe Pháp Luân nhà Phật và hình Trụ Ðá vua A Dục vào Quốc Kỳ và biểu tượng quốc gia của Ấn Ðộ. Nhưng người dân Ấn vẫn nhìn người Hồi Quốc( và cả người theo đạo Hồi) bằng con mắt hận thù, chỉ chực tiêu diệt lẫn nhau bằng những vũ khí phá hoại tập thể. Ðể hù dọa nhau, tháng 5 năm 1998 Ấn Ðộ cho thử 5 quả bom hạch nhân ở vùng Tây Bắc Ấn Ðộ. Ba tuần sau, Hồi quốc trả lời bằng vụ thử liên tiếp 6 quả bom hạt nhân ở Tây Nam Hồi.
Trong ba tôn giáo trên thì đạo Phật được nhiều người công nhận là đạo Từ Bi. Phật giáo không nhìn Ấn Giáo và Hồi Giáo bằng con mắt hận thù./.
-- o0o --