-
Phẩm Tựa
-
Bài giảng tại Chùa Dược Sư
-
Ngọc Liên ghi
-
--o0o--
-
-
I- Lược Kinh Văn
-
Một thuở nọ Ðức Phật ở núi Kỳ Xà Quật thuộc thành
Vương Xá cùng với chúng Tỳ Kheo 12,000 vị, 6000 Tỳ Kheo Ni,
80,000 Bồ Tát, 70,000 Chư Thiên, 8 vị Long Vương, 4 Càn Thát
Bát Bà, 4 A Tu La Vương, 4 Ca Lầu La Vương và trăm nghìn quyến
thuộc của các vị nầy, vua A Xà Thế và đoàn tùy tùng cũng đều
hiện diện.
-
Sau khi tứ chúng cúng dường xưng tán, đức Phật nói
Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
Nói kinh nầy xong, Ngài nhập Chánh Ðịnh Vô Lưọng Nghĩa Xứ. khi
đó trời mưa hoa Mạn Ðà La, Ma Ha Mạn Ðà La, Mạn Thù Sa, Ma Ha
Mạn Thù Sa khắp cõi nước Phật vang động sáu cách.
-
Lúc Bấy giờ từ tướng bạch hào của đức Phật phóng
ra một luồng hào quang chiếu khắp 18 thế giới ở phương Ðông,
dưới đến Ðịa Ngục A Tỳ, trên đến trời Sắc Cứu Cánh. Nhờ ánh
quang nầy chúng hội thấy rõ sáu loài chúng sanh, chư Phật nói
pháp, Bồ Tát tu hành thấy cả Chư Phật nhập Niết Bàn và việc
xây chùa tháp thờ xá lợi.
-
Bồ Tát Di Lặc và Tứ chúng đều ngạc nhiên trước
hiện tượng chưa từng thấy. Di Lặc thay mặt cho chúng hội nhờ
Văn Thù giải thích. Văn Thù cho biết trong thời các đức Phật
quá khứ Nhật Nguyệt Ðăng Minh Như Lai, ông đã từng thấy điềm
lành nầy trước khi Phật muốn diễn nói pháp quan trọng mà mọi
người khó tin theo, và các Ngài phải phóng quang hiển hiện
cảnh như vậy. Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðặng Minh Như Lai cũng nói
pháp Tứ Ðế cho hàng Thanh Văn, nói 12 Nhân Duyên cho hàng
Duyên Giác, và nói Sáu Pháp Ba La Mật cho hàng Bồ Tát. Tiếp
theo đến 20,000 Ðức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Ðăng Minh và
đồng họ Phả La Ðoạ. Ðức Phật sau cùng lúc chưa xuất gia có tám
vương tử cai trị bốn phương thái bình. Nghe vua xuất gia thành
đạo vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, họ cũng xuất gia phát tâm
đại thừa tu hạnh thanh tịnh đều làm pháp sư, đức Phật Nhật
Nguyệt Ðăng Minh cũng nói Kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập Vô Lượng
Nghĩa Xứ Ðịnh. Khi ấy trời mưa hoa mạn Ðà La, Mạn Thù Sa và
đức Phật cũng phóng quang chiếu 18,000 thế giới Phương Ðông,
sau đó Ngài nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho Diệu Quang Bồ Tát
trải qua 60 tiểu kiếp. Người nghe Pháp trong chúng hội cũng
ngồi một chỗ đến 60 tiểu kiếp, thân tâm không động, không mệt
mỏi, cảm thấy thời pháp ngắn ngủi như khoảng bữa ăn, Nói Kinh
nầy xong dức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh bảo đại chúng rằng vào
khoảng giữa đêm, Ngài nhập Vô Dư Niết Bàn và thọ ký cho đức
Tạng Bồ Tát kế tiếp thành Phật Tịnh Thân Như Lai Ứng Cúng
Chánh Ðẳng Giác. Ðúng như lời Ngài nói, vào giữa đêm Ngài nhập
Vô Dư Niết Bàn. Diệu Quang Bồ Tát trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
diễn nói 80 tiểu kiếp và dạy cho 8 người con của Nhật Nguyệt
Ðăng Minh Như Lai vững tâm nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh
Giác. Tất cả đều lần lượt thành Phật và vị sau cùng hiệu là
Nhiên Ðăng.
-
Trong 800 người đệ tử của Diệu Quang Bồ tát có một
người tên Cầu Danh. Người nầy ham ưa danh lợi, tuy đoc tụng
Kinh nhưng không sống theo tinh thần kinh dạy, tuy nhiên nhờ
có nhân duyên căn lành nên cũng được gặp và cúng dường vô
lượng các đức Phật. Diệu Quang Bồ Tát bấy giờ chính là Ta và
Cầu Danh Bồ Tát là Di Lặc. Văn Thù kết luận điềm lành đức Phật
cho thấy hôm nay không khác xưa nên Ngài nghĩ rằng đức Như Lai
sẽ nói kinh Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật
Sở Hộ Niệm.
-
II- Giải Thích:
-
Kỳ nầy chúng tôi nói từ đoạn:
-
Một thuở nọ Ðức Phật ở núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá
cùng với chúng Tỳ Kheo 12,000 vị, 6000 Tỳ Kheo Ni, 80,000 Bồ
Tát, 70,000 Chư Thiên, 8 vị Long Vương, 4 Càn Thát Bát Bà, 4 A
Tu La Vương, 4 Ca Lầu La Vương và trăm nghìn quyến thuộc của
các vị nầy, vua A Xà Thế và đoàn tùy tùng cũng đều hiện diện.
-
Sau khi tứ chúng cúng dường xưng tán, đức Phật nói
Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
Nói kinh nầy xong, Ngài nhập Chánh Ðịnh Vô Lưọng Nghĩa Xứ. khi
đó trời mưa hoa Mạn Ðà La, Ma Ha Mạn Ðà La, Mạn Thù Sa, Ma Ha
Mạn Thù Sa khắp cõi nước Phật vang động sáu cách.
-
Kính thưa đại chúng,
-
Trước khi nói chi tiết Phẩm Tựa hôm nay, chúng tôi xin có một
vài lời đề nghị rằng là:
-
- Tất cả những tư tưởng cao sâu, đặc thù của Kinh Pháp Hoa đều
được trình bày bằng các bức tranh có tính cách thực tiễn chẳng
hạn như:
-
- Trong phẩm 21, Phẩm Như Lai Thần Lực đoạn thứ hai, chúng ta
thấy Phật thực hiện một phép thần thông lớn, Ngài lè lưỡi ra,
và lưỡi của Ngài che lấp cả Tam Thiên đại thiên thế giới, rồi
từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô lượng vô
số tia sáng đủ màu sắc, và những tia sáng đó cho ta thấy được
tất cả các cõi nước trong mười phương.
-
Chủ ý bức tranh nầy là diễn bày cái khả năng lớn lao của một
vị toàn giác. Trong Kinh điển đại thừa cũng như Nguyên Thủy
ánh sáng tiêu biểu cho sư giác ngộ. Phật Thích Ca là ánh sáng
chánh niệm, và ánh sáng đó phát tỏa ra từ pháp thân của Ngài.
Cho nên từ các lỗ chân lông trong người của Ngài phóng ra vô
lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, chỉ là môt nghệ thuật trình
bày, một bức tranh diễn tả cái ánh sáng chánh niệm rất lớn,
rất mạnh toả chiếu ra từ pháp thân của đức Như Lai. Cũng như
trong các tranh tượng chúng ta thường thấy để tả cái khả năng
an toạ của Phật, người ta đã đặt Ngài ngồi trên hoa sen.
-
- Một tiêu biểu khác lưỡi Ngài che lấp cả Tam Thiên Ðại Thiên
Thế Giới đây là hình ảnh tướng lưỡi dài rộng, một trong 32
tướng tốt của Ðức Phật.
-
Bức tranh nầy là để diển tả một người chỉ nói sự thật tuyệt
đối, chỉ nói đệ nhất nghĩa mà thôi. Ðây là một hình ảnh của
Văn Hoa Ấn Ðộ, nó không phải chỉ có trong đạo Phật mà nó có
trong những truyền thống có trước đạo Phật, những người nói sự
thật thường có lưỡi rất lớn....
-
Ngôn ngữ hội họa và điệu khắc của đạo Phật đã được tận dụng để
diễn bày ý Kinh. Người sử dụng những hình ảnh nầy có tính cách
thần thông, nhưng tất cả chỉ là phương tiện quyền xảo của
người chép Kinh sử dụng ngôn ngữ hội họa của Phật để diễn đạt
những tư tưởng của kinh muốn diễn bày. Ðó là một đặc diểm rất
đặc thù của Kinh Pháp Hoa. Vì vậy khi đọc tụng, chúng ta phải
thấy cho được ý Kinh và đừng bị kẹt vào lời kinh, nếu không
thì khi đọc ta chỉ thấy toàn các phép thần thông mà chẳng có
học được gì từ nơi Pháp Hoa cả.
-
Phẩm Tựa là
cửa ngõ đi vào kinh Pháp Hoa, mở cho chúng ta thấy cái không
khí khung cảnh trong đó Kinh Pháp Hoa được thuyết giảng. Trên
bình diện tổng
quát, kinh Pháp Hoa có thể chia làm hai phần:
-
01- Phần một liên quan nhiều đến Ðức Phật của lịch
sử mà người xưa thường gọi là Tích Môn. Tích là những gì đã
xảy ra trong thời gian
-
02- Phần hai là nói về chân lý muôn đời, về giáo
pháp vượt khỏi thời gian và không gian, trình bày cái bản chất
của Pháp, gọi là Bổn Môn.
-
Riêng về phẩm Tựa là chuẩn bị tâm lý cho thính
chúng để người ta biết rằng mình sắp được nghe một Pháp rất
quan trọng, một điều rất mới mẻ mà lâu nay mình chưa được
nghe. các vị đễ tử, các vị Bồ tát như Di Lặc Bồ tát là những
người đã thực tập , học hỏi rất nhiều từ nơi Phật, nhưng có lễ
cũng chưa được nghe pháp nầy lần nào. Chỉ có Bồ tát Văn Thù là
đã được nghe. Như vậy, mục đích đầu của Phẩm Tựa là dùng Tích
Môn để chuẩn bị tinh thần cho người nghe, để họ sẳn sàng tiếp
nhận giáo pháp mầu nhiệm gọi là Diệu Pháp.
-
Chủ ý thứ hai có liên quan đến Bản Môn, nghĩa là
trong quá khứ, Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh cũng đã từng thuyết
về kinh Pháp Hoa, chuyện xảy ra hôm nay chẳng qua chỉ là sự
lập lại của chuyện hôm qua mà thôi, không có gì mới. Có mới là
mới ở trong lịch sử đối với những người hôm nay, nhưng đứng về
phương diện bản thể, vượt thời gian, và không gian thì không
có gì mới cả. Phật Nhật Nguyên Ðăng Minh đã thuyết Kinh Pháp
Hoa, biết đâu Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh ngày xưa cũng chính
là Phật Thích Ca mâu Ni ngày nay. Sự thật thì đúng như vậy,
hai đức Phật cũng là một. Ngoài ra, giữa hai vị Phật nầy còn
có một vị Phật nữa sẽ xuất hiện trong kinh, đó là Phật Ða Bảo
ngày xưa cũng đã thuyết kinh Pháp Hoa. Như vậy Phật Ða Bảo
ngày xưa cũng chính là Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay. Ðứng
trên phương diện Tích Môn hay lịch sử mà xét thì Phật Thích Ca
chỉ là Phật Thích Ca, người đang thuyết pháp vào ngày hôm nay
tại cõi Ta bà nầy. Nhưng đứng trên phương diện Bản Môn thì
Phật Thích Ca là Phật Ða Bảo, là Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh đã
từng thuyết pháp ngày xưa và chưa bao giờ ngưng thuyết pháp.
-
Ðứng về phương diện Bản Môn, thì Phật Thích Ca Mâu
Ni là Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh, cũng là Phật Ða Bảo và chưa
có môt giây phút nào Phật Thích ca ngừng nói Kinh Pháp Hoa.
Nhưng đứng trên phương diện Tích Môn thì Phât Thích Ca đã
thuyết những pháp nhỏ trong vòng bốn mươi năm rồi đến bây giờ
mới bắt đầu nói đến Pháp lớn. Ở đây chúng ta cần phải thấy cái
hay của người kết tập kinh. Từ bài tựa họ đã mở cho chúng ta
thấy hai cánh cửa: Cửa thứ nhất là cửa lịch sử và cửa thứ hai
là cửa chân lý, vượt ra ngoài thời gian và không gian.
-
Căn cứ vào nội dung Kinh Pháp Hoa cho chúng ta biết nó đã xảy
ra trong Tích Môn, và khi sự chú ý của đại chúng đưa lên không
gian thì ta biết rằng kinh đang trình bày Bản Môn. Chúng ta có
thể nói rằng Tích Môn là đứng về mặt hiện tượng mà nói như
sóng biển, còn Bản Môn là đứng về phương diện bản thề mà nói,
như nước biển. Trong lãnh vực Tích Môn thì Phật chỉ sống 80
tuổi, nhưng trong lãnh vực Bản Môn thì Ðức Phật sống muôn đời.
Nói vậy là đơn giản hoá để chúng ta dễ hiểu. Bài tựa nầy không
phải chỉ cho Tích Môn mà là cho cả Bản Môn nữa, cho nên ta gọi
là Tổng Tự.
-
Trong Phẩm Tựa mở đầu Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy
trụ xứ đức Phật thuyết kinh nầy là núi Linh Thứu hay còn gọi
là núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vượng Xá, thủ đô nước Ma Kiệt
Ðà, ngày nay là tiểu bang Bihar của Ấn Ðộ.
-
Ðây là địa danh sau cùng đức Phật dừng chân trên
bước đường thuyết pháp giáo hoá chúng sanh. Trải qua 41 năm
dìu dắt chúng sanh qua các pháp hội:
-
- Pháp Hội Hoa Nghiêm Ngài nói 21 ngày, Ngài vạch rõ chân
tánh, chỉ bày chỗ cao sâu mầu nhiệm của đạo Phật chủ đích:
-
- Dẫn dắt hàng Bồ Tát lên đia vị Ðẳng Giác và Diệu Giác
-
- Nêu bày giáo Pháp của Như Lai, chỉ có Phật với Phật mới rõ
mà thôi.
-
- Pháp Hội A Hàm 12 năm:
-
Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ
nơi thấp. Ðức Phật Thích Ca Ngài y theo chư Phật mà nói Pháp,
vì vật thời thứ hai , ngài nói Kinh A Hàm trọn12 năm, dùng
những thí dụ cụ thể để chỉ rõ chân lý cho hàng Tiểu Thừa dễ
nhận, để tự tu tự độ.
-
- Pháp Hội Thứ Ba, Ngài nói kinh Phương Ðẳng 8 năm,
-
Ðức Phật không những chỉ cho sự giác ngộ phần mình, mà còn chỉ
bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái giác
ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu Thừa(A La Hán) để tiến lên cái
giác ngộ tích cựa bao la của Ðại Thừa. Giai đoạn nầy là dẫn
Tiểu Thừa sang Ðại Thừa
-
- Pháp Hội Thứ Tư, Ngài nói Kinh Bát Nhã 22 năm.
-
Ðây là lúc đức Phật đã thấy được căn cơ của chúng sanhcó thể
tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp
Ðại Thừa, nên Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ,
thuyết minh cái thật tướng vô tướng của các pháp.
-
- Pháp Hội Thứ Năm, Ngài nói Pháp Hoa và Niết Bàn 8 năm.
-
Ðến đây sự hoá độ của Ngài gần viên mãn, căn cơ của chúng sanh
đã thuần thục, có thề gánh vác Ðại Thừa chánh pháp của Như
Lai, nên Ngài nói bản hoài của Ngài thị hiện ra đời vì một
nguyên nhân lớn: Khai Thị Chúng Sanh Ngô Nhập Phật Tri Kiến.
Ngài phú chúc, thọ ký cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành
Phật.
-
Chúng tôi phải nói dài dòng như vậy, để dẫn tới việc giải
thích lý do tại sao Ðức Phật Ngài đưa đại chúng lên đỉnh núi
Linh Thứu mới nói Pháp Hoa, trong khi các Kinh khác đức Phật
đều giảng ở Tịnh Xá. Ðiều nầy tiêu biểu cho sự nổ lực gia công
của hành giả vượt qua tất cả những khó khăn, vận dụng tất cả
những khả năng leo lên đỉnh núi mới lãnh hội được Kinh Pháp
Hoa, nói cách khác 41 năm đức Phật rèn luyện cho con người
vượt qua sự chi phối của thân tứ đại, mới được Như Lai truyền
trao tạng bí yếu.
-
Ðiểm đặc biệt là pháp tối thượng của Ngài đã được diễn nói ở
một nước do bạo chúa A Xà Thế cai trị cực kỳ hung ác, hung ác
đến độ giết cha hại mẹ. Và núi Linh Thứu, là chỗ ở của những
loài diều hâu chuyên bay xuống thi lâm(bãi xác chết) kế cận để
ăn thây người chết. Sự hiện hữu của Ðức Phật ở thời điểm cực
kỳ khó khăn như vậy, tuy nhiên hoa Ưu Ðàm đã nở trọn vẹn tỏa
hương thơm ngát trên mảnh đất hung tàn bạo ngược nầy.
-
Thật vậy, Ðức Phật đặt chân đến nơi đây dù chưa nói một lời
nhưng đức và lòng Từ vô lượng vô biên của Ngài đã chuyển hoá
được tâm ác độc của vua A Xà Thế từng làm việc tội lỗi như thả
voi say hại Phật hay xô đá đè Phật, trong một đêm trăng đẹp
trời đã cùng với những cận thần trở về nương tựa với Phật, và
trở thành người hộ pháp đắc lực nhất, và đã đưa thần dân về
tham dự hội Pháp Hoa.
-
Không giống các pháp hội khác, hàng thính chúng
vây quanh Ðức Phật ở hội Pháp Hoa không bị giới hạn bởi con số
và chủng lọai.
-
Chúng Thanh Văn
-
Chúng Thanh Văn và Bồ Tát được coi là quyến thuộc của Ðức Phật
thường theo Ngài. về mặt tha thọ dụng thân hay Ðức Phật sanh
diệt, quyến thuộc của Ngài là 12,000 tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni tức
chúng Thanh Văn. Trong số chúng Thanh Văn nầy có 1200 vị A La
Hán. Các Ngài đã chế ngự được mọi ham muốn, nguyên nhân phát
sinh ra phiền não không còn, được tự tại trong mọi lãnh vực và
hiểu biết, thoát khỏi mọi sự ràng buộc trong đời sống, có sức
tập trung tư tưởng và không giao động trước mọi hoàn cảnh vì
các Ngài đã đạt được lễ sống siêu nhiên, là những vị A La Hán
chứng được sáu pháp thần thông như A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha
Ca Diếp, Xá Lợi Phất. Mục Kiền Liên, Tu Bồ Ðề..v...v ngoài ra
các vị La hán còn có những vị được dự vào dòng thánh từ sơ quả
đến Tam Quả do Ngài A Nan dẫn đầu.
-
Chúng Bồ Tát
-
Bên cạnh Thanh Văn quyến thuộc của Ðức Phật sanh diệt, còn có
sự hiện hữu của 80,000 Bồ Tát thường theo với Báo Thân Phật
hay chân thân Phật mà hàng Thanh Văn và loài người không thấy
được. Các vị nầy là những Bồ tát không thối chuyển ở đạo Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Quán
Thế Âm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Chí Bồ Tát, các Ngài có pháp thần
biến giảng nói chánh pháp không ngừng nghỉ, luôn sống trong
trí tuệ của Như Lai vì các Ngài đã từng thân cận, cúng dường,
tu học với muôn ức Ðức Phật, nổi tiếng thơm trong khắp mười
phương, trang nghiêm thân tâm bằng lòng Từ, thường cứu vớt vô
số chúng sanh. Các vị Bồ Tát đến dự hội Pháp Hoa đông đủ như
vậy trong một hội trường hữu hạn của núi Kỳ Xà Quật nhưng
không chướng ngại cho Thanh Văn vì các Ngài hiện hữu trong tư
thế siêu hình, thông được với các pháp. Vì vậy lúc đó trong
đạo tràng, chúng Thanh Văn thấy có Ðức Thích Ca bằng xương
bằng thịt trước mặt thuyết pháp. Nhưng đối với chúng Bồ Tát,
Ðức Phật nói pháp là đức Phật siêu thực có tầm vóc lớn tương
xứng với họ.
-
Chúng Thiên Long
-
Thích Ðề Hoàn Nhơn, cùng với quyến thuộc, và những vị trời
khác.... Ngoài ra còn có Thiên Long Bát Bộ(Trời Rồng, Doa Xoa,
Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La) cũng dự hội.
Thiên Long Bát Bộ hiểu theo hai nghĩa:
-
- Thứ nhất là thực thể tồn tại khách quan nhưng mắt chúng ta
không thấy được.
-
- Nghĩa thứ hai hiểu theo triết học nhằm chỉ cho tâm trạng con
người chúng ta, mỗi người đều có trình độ nhận thức và cuộc
sống mang phân tích thấy giống như cá tánh của Thiên Long Bát
Bộ.
-
Thí dụ trời Phạm thiên tiêu biểu cho những người sống trong
thiền định có tâm hoàn toàn yên tịnh mang thân người nhưng
không bị dục tình khuấy nhiểu, hoặc Trời Ðế Thích tiêu biểu
cho những người sống ở trần gian đầy đủ phước lạc, thân tướng
xinh đẹp và tâm hồn luôn luôn vui sướng, hoặc Rồng, Dạ Xoa, A
Tu La, tiêu biểu cho những người hung dữ ngang bướng ở thế
gian khi vào trong pháp hội cũng trở thành hiền hậu và tâm
thâm nhập giáo pháp Phật.
-
Chúng Cõi Người
-
Vua A Xà Thế cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều có mặt.
-
Tất cả mọi chủng loại trong pháp hội chắc chắn phải sinh hoạt
trong những cảnh giới không cùng một luật tắc và điều kiện như
thế giới vật chất của loại người. Tâm niệm, hạnh nguyện của
Thanh Văn và Bồ Tát khác nhau nên uy lực cùng tuệ nhãn không
giống nhau cũng như đối với chúng trời người, và quỷ thần,
nghiệp lực lôi kéo tâm thức họ theo những đường hướng không
đồng. Tuy nhiên tất cả đều được tụ họp lại không chướng ngại
nhau trong cùng pháp hội, bằng một năng lực bất khả tư nghì
của đức Phật.
-
Bấy giờ Ðức Phật nói Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Nghĩa
cho các Bồ Tát vì đây là một bộ kinh giảng nói không cùng tận,
biến hoá không lường, chỉ có hàng Bồ tát mới có khả năng thể
nhập vào dòng thác trí tuệ Như Lai. Ðối với các pháp biến dịch
không cùng, tâm Bồ Tát đã hoàn toàn tự tại mới hiểu được Vô
Lượng Nghĩa, vô số muôn màu. Hàng Thanh Văn còn kẹt pháp,
không thể vào cửa Vô Lượng Nghĩa được. Nói Kinh Vô Lượng nghĩa
xong Ðức Phật nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ Ðịnh, thân không lay
động, tâm hoàn toàn tịch tịnh, nhưng vô tác diệu lực có một
tác dụng sâu xa. Khi nhập định tâm thức của Ngài thông với
pháp giới trở về cùng tột thật tướng các pháp tạo thành một
lực dụng bất khả tư nghì đưa toàn thể chúng hội vào cảnh giới
mầu nhiệm của chư Phật.
-
Trạng thái yên lặng của đức Phật ở Vô Lượng Nghĩa
Xứ Ðịnh lôi cuốn Pháp hội yên lặng theo mà vào cảnh định, tạo
sự thông đồng giữa các đức Phật và chúng hội, bấy giờ Như Lai
mới giáo hoá bằng tâm không bằng ngôn ngữ. Trong sự truyền
thông qua tâm đại chúng thấy hoa Mạn Ðà La, Ma Ha Mạn Ðà La,
Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa.
-
Bốn loại hoa hiểu theo nghĩa thần thoại là hoa thực của chư
thiên rải để cúng dường Ðức Phật. Hiểu theo tinh thần của đạo
học, nó không phải là một hiện tượng mà chính yếu mang ý nghĩa
tác dụng của Phật Pháp. Mạn Ðà La có rơi thật hay không, không
quan trọng, nhưng tác dụng của hoa làm cho chúng hội tịnh
nghiệp, nghe Phật thuyết pháp, tâm buồn phiền tự nhiên rơi
rụng. Ðây là điều kiện tất yếu để nói Kinh Pháp Hoa, sống trên
cuộc đời không bị ô nhiễm vào đạo nhứt thừa, hay nói cách khác
hoa Mạn Ðà La làm phiền não mọi người tiêu tan giúp chúng hội
trở về trạng thái tâm hồn lắng yên đồng với tâm Phật mới nhận
được chân lý Ðức Thế tôn giảng nói.
-
Từ đó chúng ta thường thấy hành giả muốn cầu đạo, trước tiên
phải cầu an tâm, đạo chỉ có nơi tâm hồn bình yên. Nhớ lại giai
thoại ngày xưa của Nhị Tổ Huệ Khả. Sau đó nhiều năm tìm cầu
học đạo, nhưng Sư không thấy thỏa mãn lòng mong mỏi cầu đạo.
Khi được biết tại đỉnh Tung Sơn có Bồ Ðề Ðạt Ma là bậc dị nhân
đắc đạo, do đó ngài tức tốc đến Tung Sơn để yết kiến Tổ. Mặc
dầu Thần Quang đã đủ nghi lễ mà ngài vẫn ngồi yên ngó mặt vào
vách. Thấy thái độ dửng dưng của Bồ Ðề Ðạt Ma nên Thần Quang
suy nghĩ: Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa
được trong muôn một của các ngài. Lúc ấy nhằm tiết mùa đông
nên tuyết rơi rất nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài trời
tuyết hướng về ngài. Ðến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối mà
gương mặt vẫn thản nhiên. Tổ Ðạt Ma thấy thế thương tình quay
ra bảo:
-
- Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc
gì?
-
Thần Quang thưa:
-
- Cúi mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lộ rộng độ
cho con.
-
Tổ Sư dạy:
-
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay
làm những việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn còn không
thể đến thay, huống chi chỉ dùng một chút công lao nhỏ nầy mà
cầu được pháp chân thừa sao? Thôi thì ngươi cứ đứng cho đến
khi nào tuyết trắng thành màu hồng rồi sẽ hay.
-
Thần Quang nghe Tổ dạy như vậy, liền lấy dao chặt
cánh tay trái, tức thì dòng máu đỏ, nóng trong người Thần
Quang phun ra trên mặt tuyết. Cầm cánh tay trái đứt lìa khỏi
thân đến bên cạnh Tổ, Thần Quang kính cẩn thưa:
-
- Bạch Hòa Thượng, tuyết trắng bây giờ đã thành hồng, cúi mong
Hòa Thượng từ bi mở cửa Cam Lộ độ cho con.
-
Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma biết đây là Pháp Khí, là người có thể Tác
Như Lai Sứ Hành Như Lai Sự, nên Tổ liền dạy:
-
- Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân,
nay ngươi tự chặt cánh tay, tâm cầu đạo của ngươi như vậy cũng
rất khá.
-
Nghe Tổ dạy như vậy, Thần Quang biết Tổ đã nhận
lời truyền dạy đạo, nên vội vã thưa:
-
- Bạch Hòa Thượng, Pháp Ấn của chư Phật con có thể
được nghe không?
-
Tổ dạy:
-
- Pháp Ấn của chư Phật không phải từ nơi người
khác mà được.
-
Thần Quang thưa:
-
- Bạch Hòa Thượng tâm con chưa an, xin Hòa Thượng
dạy pháp an tâm cho con.
-
Tổ dạy:
-
- Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.
-
Thần Quang sửng sốt một hồi lâu rồi thưa:
-
- Con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
-
Tổ dạy:
-
- Ta đã an tâm cho con rồi đó.
-
Khi nghe Tổ dạy như vậy Thần Quang nhân đây mà Khế Ngộ. Tổ
liền đổi Thần Quang là Huệ Khả.
-
Chúng ta thấy thanh niên Thần Quang sau bao ngày tháng tìm
kiếm nguồn đạo nhưng không có một ai có thể thoả mãn được lòng
cầu đạo của Ngài, nhưng cuối cùng khi gặp được Tổ Sư Bồ Ðề Ðạt
Ma, mới giải quyết được chỗ nghi ngờ của Ngài. Ngài chỉ bắt
gặp được sự bình ổn hoàn toàn khi diện kiến Tổ Ðạt Ma trong
tuyết lạnh phủ ngập gối chân ở Chùa Thiếu Lâm.
-
Hoa Mạn Ðà La rơi ở Linh Thứu Sơn cũng như tuyết phủ ở Chùa
Thiếu Lâm, tất cả trắng xoá một màu bạch nghiệp và đạo chỉ
hiện hữu nơi đây cho những tâm hồn chí thành cầu pháp không
còn gợn mảy may vọng trần. Khi tình cảm thương ghét của con
người đã rơi theo hoa Mạn Ðà La, bằng tâm hồn trong trắng
chúng hội tiếp nhận được niềm vui kỳ diệu, một niềm vui vô tận
hoàn toàn thanh tịnh ly trần vì không có nguyên nhân, không có
đối tượng, là trạng thái của người cầu đạo được biểu hiện bằng
hoa Man Thù Sa.
-
Ðược hai loại hoa nầy tươi nhuận, tâm chúng hội
đã biến thành tâm cực lạc nên đạo tràng hoàn toàn thanh tịnh.
Nhờ đó chúng hội thông được với tâm Phật mà thể nhập vào thế
giới bao la kỳ diệu của Pháp Hoa. Chuyển đổi thân tâm cho
chúng hội xong, Ðức Phật biến thế giới Ta Bà thành Tịnh Ðộ.
Núi Kỳ Xà Quật bây giờ không còn là một phần không gian bị
ngăn cách bởi đất đá, núi rừng chật hẹp. Không gian được trải
dài trong một vũ trụ vô cùng. Không còn bị ngăn cách giữa Ðức
Thế
Tôn và pháp giới.
Ðất
chuyển
động
sáu cách:
-
- Ðộng
cựa
-
- Vùng dậy
-
- Phun ra
-
- Vang dội
-
- Gào thét
-
- Ðánh ra
-
Sáu loại
chấn
động
nầy
biến
thân ngũ
ấm
của
những
người
dự
hội
nhất
thời
thành thân Như
Lai thông suốt
pháp giới.
Tất
cả
thế
giới
mười
phương
đều
biến
động
như
vậy.
Bấy
giờ
chúng hội
được
kết
hợp
thành một
con người
thứ
hai thấy
Phật
không còn là một
Tỳ
Kheo Cồ
Ðàm với
mảnh
áo
đơn
sơ,
mang thân xác nhỏ
bé. Ngài
đã
thể
nhập
vào pháp giới
bao la có thân biến
đổi
tự
tại
không cùng và hiện
hữu
thường
hằng
bất
biến
gọi
là Pháp Thân Tỳ
Lô Giá Na.
-
Ðể
tuyên giảng
một
pháp màu tối
thượng
khó tin khó hiểu,
không thể
dùng ngôn ngữ
chĩ
bày, Ðức
Phật
đã
phóng một
luồng
hào quang từ
tướng
lông trắng
giữa
chặn
mày chiếu
suốt
18 thế
giới
ở
Phương
Ðông. Bạch
hào tướng
nầy
hay hào quang từ
giữa
chặn
mày tiêu biểu
cho trí tướng,
là sự
hiểu
biết
vô cùng tận
của
Ðức
Phật
không chỗ
nào ánh hào quang của
Ðức
Phật
không chiếu
tới
nghĩa
là không có gì trong pháp giới
Ngài không biết.
-
Sự
kiện
chúng hội
nương
theo ánh hào quang của
Ðức
Phật
quan sát pháp giới
hiểu
theo thời
đại
chúng ta ngày nay không gì khác hơn
là nương
theo lời
Phật
dạy
trong kinh
để
biết
rõ cuộc
đời.
Nói thì nói vậy,
nhưng
thực
sự
không cần
phải
chờ
đợi
đến
Phật
ra
đời,
mà ngay trong cõi
đời
hiện
tại
nếu
chúng ta chịu
khó trầm
mình trong Tam Tạng
Giáo Ðiển
và y theo lời
Phật
dạy
mà phát triển
trí huệ
và
đạo
đức
để
hiểu
về
Phật,
làm một
vài việc
như
Phật
dạy
thì có lẽ
chúng ta cũng
có thể
nhìn
đời
và thấy
con người
qua kinh
điển,
không qua nghiệp
thức.
Bằng
tâm yên tịnh
quan sát trần
thế,
chúng ta sẽ
thấy
rõ cũng
một
con người
có lúc lại
đau
khổ
cùng tột
như
đang
ở
địa
Ngục
A Tỳ,
có lúc lại
hưởng
vui sướng
cao
độ
như
đang
ở
cõi Trời
Sắc
Cứu
Cánh.
-
Nhìn vào cuộc
sống
thực
nầy
chúng ta sẽ
nhìn thấy
mọi
người
và thân phận
chính mình, tâm luôn luôn biến
đổi
từ
trạng
thái nầy
sang trạng
thái nọ,
hay nói cách khác sáu nẻo
luân hồi
có
đầy
đủ
ngay trong một
con người
thay
đổi
từng
sát na nếu
chúng ta
đứng
ở
lập
trường
chân thật
pháp quan sát sáu
đường
chúng sanh.
-
Một
khi mà chúng ta thấy
con người
của
chúng ta thay
đổi
từng
sát na một
thì chúng ta
đã
biết
phải
làm gì rồi....
|