-
Hoa Ðào Thăng Long &
-
Quang Trung Nguyễn Huệ
-
Trúc Giao
-
--o0o--
-
-
- Mà nay áo vãi cờ đào
-
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
-
(Ai Tư Vãn-Lê Ngọc Hân)
-
-
I- Trai Anh Hùng
-
Nói đến trai anh hùng, lẽ tất nhiên trong nhân
loại cũng đã có rất nhiều bậc anh hùng. Nhưng trong phạm vi
của bài viết nầy, trai anh hùng được hiểu là người anh hùng áo
vải đất Tây Sơn. Nói đến người anh hùng áo vải đất Tây Sơn
không ai là không liên tưởng đến Quang Trung Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ sanh năm 1753, thuở nhỏ Nguyễn Huệ còn có tên là
Thơm, sau gọi là Bình. Cả ba anh em đều theo học Thầy Hiến,
một nhà Nho bất đắc chí với chính sách ngược đãi của Trương
Phúc Loan nên bỏ trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học ở ấp Yên
Thái.
-
Tổ tiên xưa của Nguyễn Huệ là họ Hồ ở làng Quỳnh
Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Sau đó một chi dời vào
Huyên Hưng Nguyên và Huyện Nghi Xuân. Theo các cụ ở Hưng Thái,
Hưng Nguyên cho biết thì họ Hồ ở Hưng Thái hằng nằm thường có
sang Nghi Xuân nhận họ. Trong trận tấn công ra Bắc vào tháng 6
năm Ất Mùi 1655, quân Nguyễn chiếm được bảy Huyện phía nam
sông Lam (Nghệ Tĩnh), bắt dân đưa vào đàng trong khai hoang.
Sách cũ đều có nói bốn đời của Nguyễn Huệ cũng ở trong số Di
Dân đó. Lúc đầu đến lập ấp, ở ấp Tây Sơn Nhất thuộc Huyện Quy
Ninh, phủ Quy Nhơn. Ðến đời Nguyễn Phi Phúc mới đến ở ấp Kiên
Thành, Huyện Tuy Vĩnh, nay là làng Kiên Mỹ, xã Bình Thành,
huyện Tây Sơn, Tỉnh Nghĩa Bình. Nguyễn Phi Phúc và Nguyễn Thị
Ðông sinh ra Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ và một người
con gái.
-
Theo tài liệu thì Nguyễn Huệ tóc quắn, da sần, mắt
như chớp sáng, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, nhanh
nhẹn khỏe mạnh, can đảm. Sách Tây Sơn thuật lược còn miêu tả
đôi mắt của Quang Trung Nguyễn Huệ ban đêm ngồi không có đèn
thì ánh sáng đôi mắt soi sáng cả chiếu.
-
Mùa Xuân năm 1771, đất Tây Sơn sôi động, lá cờ
khởi nghĩa bằng lụa đỏ màu hoa đào dài 10 mét được dựng lên
với khẩu hiệu:
-
- Lấy của nhà giàu cho dân nghèo, và lời hịch kể
tội Trương Phúc Loan được truyền đi khắp nơi.
-
Các tầng lớp nhân dân, người Kinh, người Thượng
đều hăng hái tham gia. Từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nầy, Nguyễn
Huệ trở thành lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân thế kỷ
XVIII, và cũng trở thành người anh hùng dân tộc đã đánh đổ cả
hai tập đoàn thống trị ở Ðàng Trong và Ðàng Ngoài. Người đã
lập nên những chiến công hiển hách chống quân xâm lược Xiêm và
mãn Thanh, thực hiện được khát vọng thống nhất đất nước của
dân tộc vào cuối thế kỷ thứ XVIII.
-
Có thể nói Nguyễn Huệ là một nhà quân sự thiên
tài. Trong hoạt động quân sự Ông luôn luôn chủ động tập trung
lực lượng đánh vào những mục tiêu chiến lược trọng yếu nhất,
và hành động liên tục, bất ngờ chớp nhoáng, quyết liệt làm cho
đối phương không kịp đối phó, những chiến tích đó được ghi lại
trong các trận đánh:
-
Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Ðịnh đánh
tan sào huyệt của quân Nguyễn, bắt được Nguyễn Phúc Dương,
Nguyễn Phúc Thuần. Sau khi chiến thắng ông giao quyền cho các
tướng và trở lại Quy Nhơn.
-
Năm 1785 được tin báo quân Xiêm xâm lược, Nguyễn
Huệ lại đem đại quân vào Gia Ðịnh. Trong mấy trận đầu quân Tây
Sơn rút lui để nhử giặc vào trận địa mai phục sẵn. Quân Xiêm
kéo vào Rạch Gầm và Xoài Mút(phía Tây Mỹ Tho) bị phục binh Tây
Sơn ở các mặc cùng ập ra tiến công bất ngờ, quyết liệt, năm
vạn quân thủy bộ cùng ba trăm chiến thuyền bị đánh tan tác,
chỉ còn lại vài nghìn sống sót chạy trốn về nước theo đường
núi.
-
Năm 1786 Nguyễn Huệ đem quân ra bắc với khẩu hiệu
phù Lê diệt Trịnh, cô lập triệt để quân Trịnh nên lấy được Bắc
Hà một cách dễ dàng. Trong dịp nầy Nguyễn Huệ nói với Nguyễn
Hữu Chỉnh:
-
- Ta đem mấy vạn quân đây chỉ đánh một trận mà dẹp
yên được cả thiên hạ.... Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương
gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn không giành địa vị ở
những người ấy, là vì tôn trọng hậu đại nhà Lê đó thôi.
-
Nhưng Nguyễn Huệ cũng biết trong nhân dân và nho sĩ Bắc Hà còn
nhiều người luyến tiếc nhà Lê, nên ông bằng lòng lấy công chúa
Ngọc Hân nhà Lê rồi lui về Thuận Hóa.
-
Năm Ðinh Mùi(1787), hay tin Nguyễn Hữu Chỉnh
chuyên quyền ở Thăng Long (Hà Nội), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ
sai Vũ Văn Nhậm ra giết đi, Nguyễn Huệ vẫn cho Lê Chiêu Thống
làm giám quốc. Ðược ít lâu, Vũ Văn Nhậm lại cũng chuyên quyền,
Nguyễn Huệ lập tức lên đường đi Thăng Long (1788). Sau khi cho
võ sĩ đâm chết Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân (Huế),
giao Bắc Hà cho Ðại tư mã Ngô Văn Sở coi việc quân sự; và Tả
thị lang Ngô Thời Nhiệm đảm trách việc chính trị.
-
Lê Chiêu Thống thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người thân
tín bị thảm sát, vội bỏ kinh đô, chạy lên Bắc Ninh rồi tìm
đường sang Tàu cầu cứu,. Vua Càn Long chấp thuận đề nghị, rồi
huy động binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Qúi Châu, Quảng Ðông, và
Quảng Tây dưới quyền tổng chỉ huy của Tôn Sĩ Nghị. Ðại quân
gồm 200 ngàn dân công, chia ra làm 3 đạo sang đánh nước ta vào
đầu tháng 11 năm 1788. Lê Chiêu Thống cũng theo gót quân Thanh
trở về nước.
-
-
Ðạo thứ nhất do chính Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh theo
đường Lạng Sơn, qua cửa Nam Quan đánh vào.
-
-
Ðạo thứ nhì do Ðề đốc họ Ô thống lĩnh quân đội Vân Nam và Qúi
Châu từ Tuyên Quang tới (khi xưa đất Hà Giang, Lào Kay, Yên
Bái thuộc tỉnh Tuyên Quang)
-
-
Ðạo thứ ba do Ðiền Châu tri phủ Sầm Nghi Ðống từ Cao Bằng đổ
xuống.
-
Ngô Văn Sở được tin quân Thanh xâm phạm lãnh thổ, bèn họp các
tướng lãnh để tính kế cự địch, và đồng thời báo tin về Phú
Xuân cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Sau trận ở Tam Tầng, Ngô
Thời Nhiệm tính kế rút lui vào đèo Tam Ðiệp là chỗ hiểm yếu để
đợi quân Phú Xuân của Bắc Bình Vương. Vì Thăng Long bỏ ngỏ nên
ba đạo quân Thanh tiến vào mà không tốn thêm một mũi tên, viên
đạn. Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra
rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng
Long để nghỉ ngơi ăn Tết, và chuẩn bị mọi mặt cho thật chu đáo
rồi sau Tết sẽ tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống
Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị nghĩ ngay tới việc lập đồn lũy bốn
phía chung quanh để phòng thủ Thăng Long. Theo Hoàng Lê Nhất
Thống Chí thì Tôn Sĩ Nghị đóng đại bản doanh ở cung Tây Long
bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng
Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân
Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công.
-
Phía Ðông Thăng Long có sông Hồng như một chướng ngại thiên
nhiên. Nghị còn lập đại bản doanh ngay trên bãi cát giữa sông
rồi bắc cầu phao để tiện việc đi lại.
-
Từ phía Bắc Thăng Long, chạy ôm vòng sang phía Tây rồi bọc
xuống phía Nam, Nghị cho đắp những chiến lũy như Tây Long
Cung, Ðống Ða, Văn Ðiển, Quỳnh Ðô, Ngọc Hồi, Hà Hồi... Như
vậy, Thăng Long nằm trong khu tứ giác phòng thủ. Sự phòng thủ
chặt chẽ và kỹ lưỡng chưa từng thấy so với thời quân Nguyên,
Minh... Trên các hướng phòng ngự nầy, đồn Ngọc Hồi và đồn Ðống
Ða giữ vị trí then chốt
-
Những ngày giáp Tết năm đó, nhân dân kinh thành Thăng Long đã
chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc:
-
-
Kiếm mọi cách vu hãm người lương thiện, áp bức, cướp bóc những
nhà giàu có, thậm chí giữa chợ giữa đường cũng cướp giật của
cải, hảm hiếp đàn bà, không còn kiên sợ gì cả.
-
Ngày 21 tháng 12 năm 1788 nhận được tin báo khẩn cấp của Ngô
Văn Sở, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc
đem binh ra đánh. Các tướng đều xin Ngài lên chính ngôi tôn,
để yên lòng người rồi hãy khởi binh. Thấy chư tướng một lòng,
nên ngay ngày hôm sau, tại Phú Xuân Nguyễn Huệ sai đắp đàn ở
núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân. Vương làm lễ lên
ngôi Hoàng Ðế lấy hiệu là Quang Trung, rồi lập tức thống lãnh
thủy bộ đại quân tiến ra Bắc đánh giặc Thanh. Ðến Nghệ An nghỉ
lại 10 ngày để kén lấy thêm binh. Cả thảy 100 ngàn quân và 100
con voi trận. Như vậy Vương chỉ chính thức lên ngôi Hoàng Ðế
thay thế nhà Lê, khi Lê Chiều Thống lộ rõ bộ mặt phản quốc,
rước quân Thanh về dày xéo đất nước.
-
Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị chỉ trong
vòng 35 ngày từ ngày 25 tháng 11 đến 30 tháng 12 năm Mậu
Thân(22-12-1788 đến 25-01-1789), Quang Trung đã hoàn tất mọi
việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh.
-
Ngày 25 tháng 01 năm 1789, quân Tây Sơn đã tập kết ở Tam Ðiệp.
Khi cho quân ăn Tết trước ở đây, Quang Trung tuyên bố:
-
- Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên Ðán trước, đợi đến
sang xuân, ngày ta vào Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi
hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng thế không?
-
Ngày 30 Tết, quân Tây Sơn tới bến đò Giản Thủy, tức Gián Khẩu,
Ninh Bình bây giờ(cách khoảng 80 cây cố phía Tây Nam Thăng
Long). Tướng nhà Lê là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Bọn
quân tiền sát nhà Thanh cũng bở vía chạy theo, nhưng tới Phú
Xuyên, Hà Ðông bị bắt và bị giết hết; vì vậy giặc mất liên
lạc, không biết chiến cuộc đang ở thế bất lợi cho chúng. Trong
lúc quân Thanh và bọn vua tôi Lê Chiêu Thống đang vui chơi ăn
Tết thì quân Tây Sơn cũng đang âm thầm tiến về phía Thăng
Long.
-
Mục tiêu đầu tiên là đồn Hà Hồi(phía Nam Thăng Long khoảng 20
km). Ngày mồng 3 Tết, năm Kỷ Dậu(1789), nữa đêm khoảng giờ Tý.
Quân Thanh đang ngủ say sưa, bỗng một tiếng pháo lệnh; rồi
tiếng loa nổi lên, tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng; nhất
là tiếng trống trận Tây Sơn càng khủng bố tinh thần. Quân giặc
tưởng như có thiên binh vạn mã, đang ào tới, khủng khiếp như
trời long đất lở. Quân giặc không còn hồn vía, liền kéo cờ
hàng. Quân Tây Sơn không tốn một mũi tên, một viên đạn nào,
vào tiếp thu quân nhu và khí giới.
-
Chiếm xong Hà Hồi, đại quân tức tốc tiến đánh Ngọc Hồi(phía
bắc Hà Hồi 3km). Ðồn Ngọc Hồi từng là một trong những chốt
kiên cố của giặc Thanh kiểm soát con đường thiên lý, vì vậy
chúng tập trung nơi đây những đội quân tinh nhuệ, nhiều tướng
cao cấp, Vua Quang Trung nhận rõ điều nầy, nên người đã trực
tiếp chỉ huy trận đánh. Ðêm mồng 3 Tết, trời tối đen như mực,
quân Tây Sơn phải đốt đuốc. Ðàn voi trận gồm 80 con do vua
Quang Trung dẫn đầu. Ðoàn tượng binh nầy được huấn luyện kỹ
càng, tiến lui khớp nhịp với bộ binh.
-
Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa thấy voi hoảng
sợ rống lên rồi chạy tán loạn. Ðịch bị tan vỡ ngay hàng ngũ,
vội rút vào cố thủ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Ðạn
trong đồn bắn ra như mưa. Quân Tây Sơn vẫn cảm tử tiến tới. Ðể
ngăn tên đạn, quân ta đã chuẩn bị trước, lấy 60 tấm ván gỗ, cứ
3 tấm xếp lại thành một bó, ngoài phủ rơm nhào với bùn; rồi 10
người khiêng một bó đi trước, lưng giắt đoản đao, theo sau là
20 khinh binh tiến thành hàng chữ nhất. Quân Thanh đốt thuốc
súng, bắn hỏa pháo, khói mù mịt bốc ra để theo gió Bắc thổi
tới. Quân ta mờ mắt, không tiến được nữa và bắt đầu lâm vào
thế bất lợi. Bỗng gió đổi hướng, khói lại thổi ngược về phía
địch. Dưới ánh đuốc chập chờn đám quân có ván rơm liền lăn xả
vào tiền tuyến, quăng ván xuống để đè lên chông sắt. Bọn có
đoản đao ùa theo, lướt qua lằn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn
như nước vỡ bờ.
-
Quân hai bên bắt đầu đánh cận chiến. Lớp nầy ngã, lớp kia xông
tới. Sắt thép đụng nhau vang lên những tiếng lanh lảnh rợn
người. Một thứ võ khí mới của quân Tây Sơn là súng hỏa hổ, rất
lợi hại khi đánh gần. Súng nầy là một cây bương rỗng ruột,
nhét đầy thuốc pháo ở trong, được xử dụng như súng phun lửa
ngày nay. Mùi thịt cháy khét lẫn mùi thuốc súng và máu tanh
nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực cả góc trời. Lợi hại nhất vẫn là đàn
voi xung kích. Chúng điên cuồng đạp chết biết bao địch quân.
-
Quân Thanh chịu không nổi, bỏ đồn chạy thoát thân. Bọn chúng
lại rơi vào các máy ngầm, các hầm chông và những quả địa lôi
do chính chúng gài đặt trước. Những tên sống sót, quần áo tả
tơi, thân thể đầy máu chạy về phía những đồn lũy giặc ở phía
Bắc. Chính đám tàn binh nầy làm cho quân giặc ở những đồn lũy
khác sợ hãi và mất tinh thần chiến đấu.
-
Ðến sáng, đồn Ngọc Hồi thất thủ, hàng vạn quân Thanh bị tiêu
diệt. Các đại tướng của chúng như: Trương Triều Long, Thượng
Duy Thăng, Hứa Thế Hanh đều tử trận. Tàn quân giặc rút chạy về
Ðầm Mực thì lại bị cánh quân của đô đốc Bảo đón sẳn tiêu diệt
nốt. Ðoàn quân chiến thắng của ta hò reo tiến thẳng về Thăng
Long. Trên đường tiến quân, hạ thêm hai đồn ở Văn Ðiển và
Quỳnh Ðô một cách dễ dàng.
-
Chiến thắng Ngọc Hồi Ðầm Mực mở đầu cho chiến
thắng Ðống Ða. Chính trong lúc ấy một đạo quân của Ðô đốc Long
cầm đầu theo kế hoạch đã tiến đến Khương Thượng, vây kín đồn
binh của Sầm Nghi Ðống. Quân Thanh cầm cự, nhưng khi kiệt lực
mà không có viện binh và đạn dược. Họ Sầm không chịu đầu hàng,
chạy tới Ðống Ða nay là quận Ðống Ða, thuộc Hà Nội treo cổ tự
vận trên cành đa trên núi Ốc tức Loa Sơn, nay tuy không còn
vết tích nhưng trên bản đồ Hà Nội vẽ năm 1873 thì vẫn còn.
-
Tưởng cũng cần nên biết, tên Ðống Ða không phải là tên độc
quyền cho gò nầy. Vào thế kỷ thứ 18 khu nầy có nhiều cây đa
mọc, được gọi chung là xứ đổng đống đa. Theo Lê Quý Ðôn, năm
1771 đã chép trong Kiến Văn Tiểu Lục rằng xứ Ðống Ða là nơi
thi võ đời Lê. Có điều là Ðống Ða đã trở thành di tích lịch sử
từ khi có chiến thắng Xuân Kỷ Dậu. Nguyên là sau chiến dịch
xuân Kỷ Dậu, xác giặc đầy đồng, đầy ngã. Người ta phải thu
nhặc lại, xếp thành gò đống rồi phủ đất lên. Cả thảy 12 gò gọi
là Kình Nghê Kinh Quán, tức là nơi chôn xác cá Kình, cá Nghê,
tức là xác giặc. Sau đó đa mọc rậm rì trên những gò ấy. Nửa
thế kỷ sau, khoảng 1851, nhân mở chợ Nam Ðồng, phải làm đường
san đất, và thế là gặp nhiều hài cốt trước chưa thu lượm hết.
Tổng Ðốc Hà Nội ra lệnh cho gom lại chôn ở một cái gò thuộc
đất làng Nam Ðồng cho nên có thêm gò Kình Nghê Kinh Quán thứ
13, dân hai làng Nam Ðồng, Thịnh Quang còn đứng ra xây một
ngôi Chùa trước gò nầy gọi là Chùa Ðồng Quang.
-
Tới thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ thứ 19 thực dân
Pháp đem xứ Ðống Ða cho Hoàng Cao Khải làm Thái Ấp. Khải bắt
dân san gò, lấp ao để xây dinh thự, chỉ còn lại cái gò thứ 13
nầy, ngày nay chúng ta gọi là gò Ðống Ða, một kỷ niệm của trận
đại thắng giặc Thanh năm 1789, nơi chôn xác quân thù.
-
Nhắc lại việc tiến binh của Quang Trung Nguyễn Huệ, đạo quân
do đô đốc Long (hay Mưu hay Ðông) chỉ huy, bất ngờ diệt đồn
Ðống Ða, và tiếp tục đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn
Sĩ Nghị ở cung Tây Long.
-
Trưa ngày mồng bốn Tết, Tôn Sĩ Nghị được tin các đồn lũy phía
Nam và Tây Nam đã rơi vào tay quân Tây Sơn. Kỵ binh đi do thám
về báo cáo thêm là quân Nam đang rầm rộ kéo vào các cửa Ô, có
cả đàn voi trận hung ác dẫn đầu. Sự thất thủ của Hà Hồi, Ngọc
Hồi và Ðống Ða làm cho Tôn Sĩ nghị hết sức bất ngờ, choáng
váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực
lượng dự bị khá kỷ càng ở tổng hành dinh, nhưng viên chủ Soái
quân Thanh vẫn mất tinh thần, không kịp đóng yên ngựa, cùng
một số thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà, để tháo chạy trong
hoảng loạn tan rã sang Bắc Ninh. Quân các doanh trại cũng chạy
theo chủ tướng, xô đẩy nhau không chút gì là trật tự. Cầu phao
bị đè nặng, chịu không nổi. Cầu sập, hàng vạn quân Tàu chết
đuối. Trên đường tháo chạy đến Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng
Giang, chúng lại rơi vào ổ phục kích của Ðô đốc Lộc một cánh
quân khác của Tây Sơn chặn đánh, cộng với hai chục thớt voi
xông ra giày đạp quân Thanh chết vô số kể.
-
Ngày Mồng 5 Tết Kỷ Dậu(1789), giờ Thân (độ 4 giờ chiều), vua
Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi tiến vào Thăng Long.
Dân kinh đô bày hương án đón Ngài, họ mong quân giải phóng như
đại hạn mong mưa, cả 36 phố phường Thăng Long như bừng lên
trong ngày hội chiến thắng:
-
-
Ðầy thành già trẻ mặt như hoa
-
Chen vai thích cánh cùng nhau nói
-
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta.
-
Tính ra từ khi xuất quân ở Phú Xuân, 35 ngày chuẩn bị trên
đường hành quân dài khoảng 500 km từ Phú Xuân đến Tam Ðiệp, và
5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài
khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long tổng cộng là 40 ngày,
quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mực kỷ
lục về tính thần tốc trong hành quân và chuẩn bị tiến công
tiêu diệt địch. Kỳ công chiến tích trong cuộc giải phóng Thăng
Long, người đời sau có ghi lại như thế nầy:
-
-
Băng băng đuốc lửa rừng gươm giáo
-
Thế khí quân nam nước lũ tràn
-
Khuya tối mồng năm liên tiếp sáng
-
Hà Hồi thất thủ Ngọc Hồi tan
-
Ðoàn quân giải phóng tràn xô đến
-
Ngựa thét lừng mây súng nổ thành
-
Sĩ Nghị nửa đêm quên ấn tín
-
Mình không buông giáp chạy về Thanh
-
Một lũ quân tàn tranh theo chủ tướng
-
Qua sông cầu đổ, vía hồn kinh
-
Sông hồng ngập ngụa thây quân Mãn
-
Máu đổ trôi về tận Bắc kinh
-
Cờ Việt dựng lên lừng soái phủ
-
Quang Trung dừng ngựa giữa Thăng Long
-
Chiến bào khói súng pha đen xạm
-
Chiến thắng quân dân nức một lòng.
-
Nói tóm lại trong cuộc chiến thắng nầy, được ghi vài nét
chính: Ðêm ba mươi Tết quân chủ lực Tây Sơn vượt sông đáy tiêu
diệt tiền đồn của địch, mở đầu cuộc tiến công vây đồn Hạ Hồi,
uy hiếp buộc địch đầu hàng. Ngày mồng ba Tết, mở trận quyết
chiến ở đồn Ngọc Hồi. Bằng trận Ngọc Hồi, Ðầm Mục, quân Tây
Sơn đã đập tan cứ điểm then chốt nhất của địch. Sau đó đồn
Khương Thượng nhanh chóng bị tiêu diệt, tướng Sầm Nghi Ðống tự
tử, Tôn Sĩ Nghi bỏ chạy. Trưa ngày mồng năm Tết Kỷ Dậu, Vua
Quang Trung cùng tướng sĩ, chiến bào nhuộm đen khói súng tiến
vào Thăng Long.
-
II- Gái Thuyền Quyên
-
Cuộc hôn nhân giữa Ngọc Hân Công Chúa và người
hùng áo vải đất Tây Sơn Nguyễn Huệ là một mối kỳ duyên. Lê
Ngọc Hân cô công chúa thứ chín trong số các cô con gái Vua Lê
Cảnh Hưng(1740-1786) đã trở thành một nhân vật lịch sử và văn
học mà tên tuổi sẽ còn mãi bên cạnh tên tuổi Quang Trung
Nguyễn Huệ, người có công khai thông nền thống nhất đất nước
sau hơn 200 năm bị phân chia thời Trịnh Nguyễn, đánh tan 29
vạn quân Thanh xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, kiến
lập vương triều Tây Sơn, tạo dựng một nền chính trị ngoại
giao, một nền văn hóa mang dấu ấn riêng khá rõ ràng.
-
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí cùng một tài liệu
khác thì công chúa Lê Ngọc Hân là con gái Lê Hiển Tông(tức Lê
Duy Diêu, niên hiệu Cảnh Hưng) mẹ là Nguyễn Thị Huyền, quê
làng Phù Ninh, huyện Từ Sơ, Bắc Ninh. Ngọc Hân sinh năm 1770,
nhan sắc xinh đẹp, được học hành chu đáo và có năng khiếu văn
chương. Năm 1786, Nguyễn Huệ mang quan ra Bắc diệt Trịnh, tôn
phò nhà Lê, đem lại sự nhất thống cho nhà Lê. Lần ra Bắc thứ
nhất nầy, chàng trai Bình Ðịnh 34 tuổi Nguyễn Huệ đã cưới Công
Chúa Ngọc Hân theo sự mai mối của Nguyễn Hữu Chỉnh nhằm một
mưu đồ chính trị mà Nguyễn Huệ cũng đoán biết được ngay từ
đầu, song vẫn vui sướng, và cho rằng việc mình lấy một cành
vàng lá ngọc là mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Từ một cuộc
hôn nhân nhẩu nhiên khá bất ngờ, đối với cả Nguyễn Huệ lẫn
Ngọc Hân, nhưng tình cảm hai người nhanh chóng trở nên gắn bó
sâu nặng vô cùng. Lê Ngọc Hân sanh được hai người con. Năm
Quang Trung qua đời, Ngọc Hân mới 22 tuổi.
-
Theo một số tài liệu ghi chép thì Lê Ngọc Hân để
lại hai áng văng văn nôm là bài Ai Tư Vãn và bài văn tế vua
Quang Trung. Riêng về bài văn tế vua Quang Trung có người nghi
vấn không phải là văn của Lê Ngọc Hân mà do một người khác, có
thể là Phan Huy Ích, thay bà viết để tế Quang Trung.
-
Ai Tư Vãn là khúc ngâm khóc thương Quang Trung,
dài 164 câu thể song thất lục bát, trong đó Lê Ngọc Hân giải
bày những tình cảm yêu thương đối với Quang Trung và nổi đau
xé triền miên của mình sau khi Quang Trung mất. Ðọc Ai Tư Vãn,
chúng ta thấy một hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ trong ký ức
Ngọc Hân vô cùng đẹp đẽ:
-
- Từ cờ thắm trõ vời cõi Bắc
-
Nghĩa tô phù vằng vặc bóng dương.
-
Và:
-
- Mà nay áo vải cờ đào
-
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
-
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí là tác phẩm đã khắc
họa được một cách sinh động nhất chân dung Nguyễn Huệ Quang
Trung. Nhưng có lẽ ít người biết trong bức thư gửi sang Trung
Quốc biện bạch về việc xin cầu hôn của Vua Quang Trung với
công chúa nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm đã cho chúng ta hiểu thêm về
Nguyễn Huệ, ngoài tài năng quân sự, chính trị kiệt suất, ông
còn là người có kiến thức rộng rãi, một trí tuệ sắc sảo hơn
đời:
-
- Quốc vương là người thiên tư hiếu học, tuy trong
chinh chiến gấp gáp, nhưng không quên bàn bạc đạo lý. Trong
nghị luận thường ngày, Quốc Vương đạt được một cách thứ tự
những cái nào mà sách vở đời trước chưa phát triển. Tôi thực
nhờ được gần gủi, bơi lội trong kiến thức của Quốc Vương mà
lĩnh hội được.
-
Bên cạnh hình ảnh Nguyễn Huệ sống động và chi tiết
trong văn xuôi. Chúng ta còn thấy hình ảnh Nguyễn Huệ trong Ai
Tư Vãn là hình ảnh khái quát của thơ, nó kết đọng nhưng lại có
sức lay động sâu xa. Một trăm sáu mươi bốn câu thơ Ai Tư Vãn
dường như câu nào cũng thấm nước mắt của Lê Ngọc Hân, khi hồi
tưởng về những ân tình đối với bà, và tôn thất nhà Lê, nổi bơ
vơ mà mẹ con Lê Ngọc Hân phải chịu đựng sau khi Quang Trung
không còn nữa. Quá khứ đẹp đẽ và hiện tại đau buồn cứ đan xen
nhau ẩn hiện trong tâm trí bà:
-
- Xưa sao gang tất gần chầu
-
Trước phong nguyệt, trên lầu sinh ca.
-
Giờ sao bổ cách xa đôi cõi
-
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh
-
Nữa cung gẫy phím cầm lành
-
Nỗi con côi cút nỗi mình bơ vơ
-
Nghĩ nông nổi ngẫn ngơ đòi lúc
-
Tiếng từ quy thêm dục lòng thương.
-
Nếu Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm văn học đạt tới
đỉnh cao học thuật trong việc mô tả tâm trạng cô quạnh của
người phụ nữ xưa có chồng di chinh chiến xa, thì Ai Tư Vãn
cũng là một khúc thơ tuyệt tác nói về nỗi cô đơn trống vắng mà
người vợ phải đeo mang sau khi chồng chết. Nghệ thuật thơ song
thất lục bát cũng như nghệ thuật xử dụng chữ nôm của Lê Ngọc
Hân trong Ai Tư Vãn có thể nói không thua kém so với dịch phẩm
kiệt tác Chinh Phụ Ngâm. Và đây là câu thơ khóc thương vô vọng
của bà công chúa quả phụ Lê Ngọc Hân:
-
- Trong Nam thấy nhạn xa lác đác
-
Trông bắc thì ngàn bạc màu sương
-
Nọ trông trời đất bốn phương
-
Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi.
-
Chắc chắn Lê Ngọc Hân đã viết Ai Tư Vãn với tất cả
tinh anh của mình. Văn phong nghệ thuật của Ai Tư Vãn in rõ
dấu ấn văn phong nghệ thuật của một thời đại.
-
III- Ðặc Tính Thiên Tài & Tình Cảm Sâu Sắc Của
Quang Trung Nguyễn Huệ
-
a- Nguyễn Huệ Nhà Chiến Lược
-
Một trong những chiến lược nổi tiếng đó là đã vận dụng mọi khả
năng của mọi tầng lớp người để đạt mục tiêu chiến thắng. Có
thể nói đại thắng xuân Kỷ Dậu 1789 và lá cờ màu hoa đào bay
phất phới trên bầu trời Thăng Long, là một trong những vũ công
hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Ðó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và
thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh
quật khởi của nông dân, kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn
kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ
công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ Tây
Sơn, có những người con em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do
phóng khoáng, có những người dân tộc của khắp mọi miền đất
nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ đỏ màu hoa đào của Tây Sơn,
có những nhà trí thức như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp.... những
võ quan cũ của chính quyền Lê Trịnh như: Ðặng Tiến Ðông...
những tướng soái Tây Sơn đã dày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở,
Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết.... trong hàng ngũ của quân đội
Tây Sơn với quyết tâm và ý chí:
-
-
Ðánh cho nó chích luân bất phản
-
Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn
-
Ðánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ
-
Với ý chí sắc đá vì nước vì dân, nên được nhân dân hết lòng
giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến
đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập
nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt
sông... Nhất là nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp
quân Tây Sơn bí mật dấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm
mộc công phá đồn Ngọc Hồi, đã phối họp làm trận rồng lửa trong
trận diệt đồn Ðống Ða.
-
Ðó là chiến thắng của nghệ thuật tuyệt vời của Quang Trung
Nguyễn Huệ mà qua đó chúng ta thấy, nhờ có tôi luyện từ ngày
18 tuổi theo Nguyễn Nhạc khởi nghĩa(1771), trải qua biết bao
nhiêu trận từ Phú Yên(1775), trận Rạch Gầm, Xoài Mút(1785),
trận đánh Phú Xuân(1786) và cuối cùng là trận đánh giải phóng
Thăng Long(1789) nên Quang Trung đã trưởng thành và đã trở
thành một anh hùng uy danh lừng lẫy, một thống soái thiên tài
ở vào tuổi 36. Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại
kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu
vào lòng địch. Quang Trung chỉ với số quân 10 vạn, nhưng đã
đặt tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị
động, bất ngờ đi từ thất bại nầy đến thất bại khác và cuối
cùng phải chấp nhận sự thảm hại tháo chạy trong hoảng loạn.
Ðại thắng Xuân Kỷ Dậu 1789 ngoài việc biểu thị tập trung thiên
tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ, còn là chiến thắng của
lòng nhân đạo và tinh thần hiếu hòa. Ngay sau khi giải phóng
Thăng Long Quang Trung đã ra lệnh chiêu nạp và nuôi dưỡng tất
cả tù binh và hàng binh Thanh, lại sai thu nhặt xác giặc trên
các chiến trường chôn thành 12 gò đống và lập đàn cúng tế. Bài
văn tế biểu thị tấm lòng khoan dung độ lượng của người chiến
thắng:
-
-
Nay ta sai thu nhặt xương cốt chôn vùi
-
Bảo lập đàn bên sông cúng tế
-
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc
-
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô
-
Hồn các ngươi không vơ vẩn trời nam, hãy lên đường mà quay về
hương chi
-
Nay kính ngưỡng ta đây là chủ chan chứa lòng thành
-
Mong sao đáp lại đạo trời dạt dào lẽ sống.
-
b- Nguyễn Huệ Nhà Chính Trị Ðại Tài
-
Nguyễn Huệ còn là nhà chính trị sáng suốt. Từ mục tiêu trước
mắt của phong trào nông dân là đánh đổ chế độ áp bức Trịnh
Nguyễn, Nguyễn Huệ đã vươn mình lên nhận thức được nhiệm vụ
dân tộc thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm. Ông phê
phán tội ác chia đôi đất nước:
-
- Mỗi họ tự ý gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ
cương, trời đất một phen đổ nát không dựng lên được.
-
Về mặt đối ngoại Nguyễn Huệ rất khôn khéo trong
cách ứng xử với bọn phong kiến phương Bắc tuy đã:
-
- Ðánh cho nó chích luân bất phản
-
Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
-
Nhưng sau chiến thắng, Nguyễn Huệ vẫn chủ động cầu
hòa, bề ngoài xin thần thuộc để dập tắt ý đồ phục thù của quân
nhà Thanh, và buộc chúng phải chính thức công nhận Quang Trung
làm quốc vương từ bỏ dã tâm thu nạp bọn lưu vong phản quốc lấy
cớ xâm lượt nước ta lần nữa. Ðó là lý do mà sau khi cuộc chiến
kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để
nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh. Do vậy chỉ
trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ
bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục. Hoài
bảo lớn lao nhất của Quang Trung phản ánh ước vọng của dân tộc
ta là được sống trong độc lập, và thanh bình để xây dựng đất
nước.
-
Về mặt đối nội cùng năm 1789 khi cuộc khán chiến vừa kết thúc,
Quang Trung đã ban bố Chiếu Khuyến Nông Dân nhằm phục hồi dân
phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang. Ðồng thời ra lệnh bãi
bỏ nhiều thứ thuế công thương nghiệp nặng nề trước đây, mở
rộng việc buôn bán làm ăn cho thương nhân, và thủ công quan hệ
buôn bán với nước ngoài cũng được mở mang.
-
Quang Trung cũng ra sức xây dựng và phát triển nền
văn hóa dân tộc, ban bố chiếu lập học, khuyến khích các xã mở
trường học. Tiếng nói dân tộc được coi trọng. Quang Trung muốn
đưa chữ nôm lên địa vị chữ chính thức của quốc gia. Lập Viện
Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Các văn kiện của
nhà nước dần dần được viết bằng chữ nôm.
-
Nhờ vào năng khiếu thiên tài trị nước, bên cạnh Quang Trung có
những nhân tài trong nước ủng hộ về võ tướng có: Trần Quang
Diệu, Vũ Văn Dũng, Ðặng Tiến Ðông, Ngô Văn Sở... Khi ra Thăng
Long Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích,
Nguyễn Thế Lịch, Ðoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp... là những kẻ sĩ đất bắc thực tài, biết thời thế. Ở Phú
Xuân Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết lòng của Trần Văn Kỷ một
bậc danh sĩ nổi tiếng ở Ðàng Trong, người có công lớn giúp
Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị nước nhà.
-
Khi dân làng Văn Chương (Hà Nội) xin dựng lại bia tiến sĩ ở
Văn Miếu, Quang Trung tự tay phê vào lá đơn như sau:
-
- Nay mai dựng lại nước nhà
-
Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
-
Nhưng tiếc thay, khi đất nước đang trên bước
chuyển mình đầy triển vọng thì ngày 16 tháng 09 năm 1792 Quang
trung đột ngột từ trần, lúc đó ông mới 39 tuổi.
-
c- Quang Trung Nguyễn Huệ & Cánh Hoa Ðào Thăng Long
-
Như chúng ta đã biết, Thăng Long(Hà Nội) là nơi xứ sở của Ðào
Bích, đào phai. Những nơi khác như
Sa
Pa, Chi Lăng cũng là quê hương của hoa đào miền bắc. Hoa Ðào
ra hoa trong dịp Tết Nguyên Ðán. Mùa Xuân những rừng đào Sa
Pa, Chi Lăng ngút ngàn, nặng trỉu trái đào thơm.
-
Ðúng vào xuân thì phong cảnh rất đẹp, là mùa của
những loài hoa mơ, hoa mận, hoa đào khoe sắc. Chợ họp đông vui
cũng vào thời điểm nầy. Nếu bạn là người đến đây để tìm hiểu
về đào, thì bạn sẽ thấy hoa đào vây quanh bạn, trên cao và
dưới thấp, ven đường và trong vườn.
-
Trong những địa phương quê hương của hoa đào, có
những vườn đào do địa hình tự nhiên, có mảnh mặt bằng như
chiếu trải, có mảnh bám vào sườn non cao dần lên. Những mảnh
vườn ấy cây lên lớp lớp mùa hoa là một tấm thảm hồng thắm
khổng lồ phủ từ trên xuống, có thể rung rinh như sóng gợn nếu
gió thổi đều. Lạc vào mảnh vườn ấy, bạn có cảm giác lạc vào
vườn đào tiên.
-
Ðào cũng có nhiều loại, có những loại đào hoa, có
những loại đào quả. Loại đào quả có loại quả to, mùi thơm, vị
ngọt man mát giống như lê miền xuôi. Có loại hơi nhọn không
giống quả đào thường, khẽ nếm đã ngon rồi. Về cuối mùa có đào
vàng, màu cùi vàng nhạt hơi xôm xốp, khi bổ ra thì cùi và hạt
dễ tách rời ăn giòn.
-
Trong các loại đào, người ta vẫn ca ngợi đào Mèo. Loại nầy quả
to, da đỏ ửng tự nhiên. Có điều hơi lạ, có quả nặng đến ba
hoặc bốn lạng. Nếm thử một múi thấy hơi chua chua, cái chua
thanh nhẹ rất dễ hợp với khẩu vị các cô thiếu nữ.
-
Từ xưa hoa đào đã đi vào thi ca, làm rung động lòng người.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhiều lần đã nói đến
Hoa Ðào. Một lần đại thi hào đã viết:
-
- Hoa đào năm trước còn cười gió Ðông
-
Ðó là nhà thơ đã nhắc đến điển tích văn học về một
mối tình tương tư, say đắm của Thôi Hộ với một cô gái vườn
đào, tác giả của bài thơ nổi tiếng đã viết:
-
- Tích niên kim nhật thử môn chung
-
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
-
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
-
Ðào hoa y cựu tiếu đông phong.
-
Nghĩa là:
-
- Cửa đây năm ngoái cũng ngày nầy
-
Má phấn, hoa đào đỏ hây hây
-
Má phấn giờ đâu? đâu vắng tá
-
Hoa đào còn bởn gió xuân đây.
-
Mùa đào nở còn là mùa chợ vui, chợ họp dưới bầu
trời hoa đào, cái khung cảnh đẹp ấy khó mà quên được, nhất là
phiên chợ kéo dài, để cho du khách có thể ngắm các cô gái ngồi
chụm vào nhau như những chùm hoa đào. Nơi đây hoa đào vốn đã
đẹp, mà người tỏ tình trong phiên chợ lại càng đẹp
hơn....
-
Thăng Long: Hoa và người, Thăng Long hoa và chợ.
-
Ðã hàng bao nhiêu thế kỷ trước cũng đã có nhiều người đến
Thăng Long để ngắm hoa đào, lúc ra về còn mua đào và không thể
quên mùa hoa xuân ấy, thì một Quang Trung Nguyễn Huệ cũng vậy.
Nhưng đối với Quang Trung Nguyễn Huệ, như chúng ta đã biết từ
buổi ban đầu, việc khơi dậy phong trào Tây Sơn là do sự nghèo
đói của nông dân dưới ách thống trị của đám quan liêu phong
kiến, nhưng sau đó Quang Trung Nguyễn Huệ, đã biết chuyển
hướng đời mình và đã hy hiến tâm hồn, cuộc đời của mình trong
lá cờ đỏ màu hoa đào cho dân tộc, quốc gia đại sự:
-
-
Mà nay áo vãi cờ đào
-
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
-
(Ai Tư Vãn-Lê Ngọc Hân)
-
Ðến khi đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Ngày Mồng 5 Tết Kỷ Dậu
vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi tiến vào Thăng
Long. Dân kinh đô bày hương án đón Ngài, cả 36 phố phường
Thăng Long như bừng lên trong ngày hội chiến thắng:
-
-
Ðầy thành già trẻ mặt như hoa
-
Trong mùa xuân Kỷ Dậu, đại thắng quân Thanh, sau khi chiêu an
bá tánh, sắp xếp người trông coi Bắc Hà, Vua Quang Trung đã
mang cành đào từ Thăng Long vào Phú Xuân tặng công chúa Lê
Ngọc Hân để báo tin vui. Tuy là một cành đào nhưng gói ghém
biết bao ân tình đã được chứa chan trong sương gió lạnh lùng,
đồng thời cũng tô đậm ngoài tiền tuyến khói lửa điêu linh của
người con trai trong thời loạn, luôn nghĩ đến người em nhỏ hậu
phương. Nhưng đặc biệt người con trai thời loạn nầy lại là ông
Vua luôn nghĩ đến một hoàng hậu diệu hiền dễ thương nơi hậu
cung. Trong khi đó không có được bao nhiêu người làm tròn
trách nhiệm của người con trai khi quê hương còn đắm chìm
trong cơn khói lửa:
-
-
Xin hiểu tình yêu
-
Trong thời chiến chinh nầy
-
Mấy người mơ ước cho tròn
-
Càng khổ càng đau
-
Thì tình yêu càng sâu
-
Khi dắt nhau đi về bến
-
Ngăn cách bây giờ
-
Cho mai mốt sum vầy
-
Không thấy thẹn cùng sông núi
-
Vì đời khổ đau
-
Anh góp một phần xương máu
-
Ðôi cánh tay nầy,
-
Anh hiến trọn cho tình quê.....
-
Như vậy một Quang Trung Nguyễn Huệ, đối với quê hương thì sẳn
lòng kê vai gánh vác, đối với người thương thì nghĩa nặng tình
sâu. Có thể nói Quang Trung Nguyễn Huệ, là một con người trọn
vẹn và đã thỏa mãn cả hai phương diện:
-
-
Người tình và quê hương.
-
Qua chiến dịch giải phóng Thăng Long mùa xuân năm Kỷ Dậu, nếu
các bạn là những chàng trai hùng trong hàng ngũ của phong trào
nông dân Tây Sơn vào thuở đó, thì trong tâm tư của các bạn ghi
nhận những gì? Có lẽ phải nói đấy là kỷ niệm của chuyến hành
quân trên đường dài thiên lý, một cuộc hành quân vô tiền
khoáng hậu, một chiến tích vẽ vang mà những người con trai
kiêu hùng đã một thời hy hiến đời mình cho tổ quốc, mà ngàn
đời trong lịch sử vẫn mãi mãi xanh tươi.
-
Cho dù thời gian có qua nhanh, triều đại có thay đổi, nhưng
khi nhắc đến Quang Trung Nguyễn Huệ, cành đào Thăng Long, và
đoàn quân tinh nhuệ cùng những người cộng sự của ông.... thì
người đời sau coi tất cả đều là những hình ảnh đẹp, và mãi mãi
còn đọng đôi giọt trong tâm hồn của du khách bốn phương mỗi
khi về viếng thăm Thăng Long.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo:
-
-
Tổ Hợp Văn Hóa Việt Nam
-
-
Chân Dung Văn Hóa Việt Nam
-
-
Tập San Dược Sư
-
-
Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư
-
-
Văn Hóa Luy Lâu & Kinh Dương Vương
|